Vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định Bộ luật Hình sự năm 2015

06/06/2016
Nếu so sánh Điều 244[1] BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - viết tắt BLHS năm 1999) với Điều 317[2] BLHS năm 2015, thì tên tội danh của điều luật là giống nhau, cũng đều là tội “Vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm”. Nhưng với Điều 244 nhà làm luật chỉ quy định người chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn gây thiệt hại nghiêm trọng sức khỏe của người tiêu dùng thì bị phạt từ từ một đến năm năm, thì tại Điều 317 BLHS năm 2015, nhà làm luật đã quy định theo hướng chi tiết hơn, cụ thể hơn. Mà theo đó, chỉ cần người nào thực hiện một trong các hành vi được quy định tại khoản 1 của Điều này thì coi như đã thỏa mãn cấu thành cơ bản tội phạm, mà không cần xác định trọng lượng, hàm lượng chất cấm, khách sinh, thuốc thú ý, thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng,… mức phạt tiền có thể từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; nếu thuộc một trong các trường hợp định khung tăng nặng khoản 2 Điều 317 BLHS năm 2015, bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù 03 năm đến 07 năm, trong khi đó, nếu là khoản 2 Điều 244 BLHS năm 1999, có thể bị phạt tù từ ba năm đến 10 năm; nếu thuộc một trong các trường hợp thuộc khoản 3 Điều 317; khoản 3 Điều 244 thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm; người vi phạm thuộc một trong các trường hợp thuộc khoản 4 Điều 317 BLHS năm 2015, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Về hình phạt bổ sung, ngoài việc cả hai điều luật đều quy định cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, nhưng nếu như khoản 4 Điều 244 BLHS năm 1999, quy định có thể bị phạt tiền tối đa 50 triệu đồng, thì khoản 5 Điều 317 BLHS năm 2015 mức phạt này tối đa là 100 triệu đồng.
Điều 317 BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định chi tiết hơn, nhưng cũng khó xử lý người phạm tội. Bởi lẽ, hành vi khách quan của tội phạm phải thỏa mãn các dấu hiệu người phạm tội biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm; dư lượng vượt ngưỡng cho phép; thực phẩm không bảo đảm quy trình vệ sinh an toàn thực phẩm và ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ... thì mới bị xử lý hình sự. Như vậy, với số đông hiện nay những người buôn bán nhỏ lẻ ở các chợ vùng nông thôn, miền núi, thậm chí các cửa hàng đại lý phân phối mà đặt ra tiêu chí buộc họ phải biết các thông số trên quy chuẩn kỹ thuật là một điều rất xa rời thực tiễn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin được đề cập đến những  bất cập khi áp dụng quy định tại Điều 317 BLHS vào từ thực tiễn đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này, Cụ thể:
Thứ nhất, hành vi sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm. Cụm từ “biết rõ” ở đây phải được hiểu là có căn cứ để chứng minh sự “biết rõ” đó, như có nhìn thấy tận nơi, có thông tin chính xác thịt heo mà họ bày bán hàng ngày tại quầy của mình bị “nhiễm” chất cấm trong chăn nuôi, chủ lò mổ mua heo của người nuôi heo sử dụng chất kích nạc Salbutamol nhóm beta-agonist; hoặc biết chắc rằng nguồn xương bò được cơ sở phân phối để nấu nước dùng hàng ngày của quán phở được xử lý ngâm trong hàn the; hoặc tiếp tay cho đầu mối phân phối thu gom nguồn thịt giá rẻ trôi nổi trên thị trường rồi tẩm ướp hóa chất bị cấm, “hô biến” thịt heo nái thải loại thành thịt bò tươi để bán ra thị trường, thì mới bị coi là “biết rõ”.
Thực tế hiện nay, nhiều người kinh doanh vì hám lợi nhuận đã bất chấp mọi quy định sử dụng hóa chất cấm để tẩm ướp bảo quản thực phẩm quá hạn sử dụng, ngay cả những người có trách nhiệm, như: quản lý thị trường, thanh tra chuyên ngành nếu chỉ bằng mắt thường cũng khó nhận biết đâu là thực phẩm an toàn! Do vậy, với tiểu thương ở các chợ, người bán lẻ nhất là những chợ tự phát phục vụ cho công nhân lại càng “mù mờ” hơn. Chẳng hạn, hàn the là hóa chất có tên khoa học là borat natri, kết tinh dưới dạng tinh thể màu trắng. Khi hòa tan trong nước, hàn the trở thành chất không màu, không mùi, không vị. Vì thế, người tiêu dùng khi chọn mua thực phẩm không thể nào biết được đâu là thực phẩm đã bị ướp hàn the. Một lượng hàn the thật thấp (khoảng 5 gr trở lên) có thể gây ngộ độc cho người sử dụng, thậm chí dẫn đến tử vong khi nồng độ cao hơn. Tuy nhiên, trong quá trình muối ướp của người buôn bán thì lượng hàn the trong thực phẩm thường không đủ cao nên ít gây ra ngộ độc cấp tính, mà nó sẽ gây tình trạng ngộ độc mạn tính với số lượng mỗi ngày đưa vào cơ thể một ít, cơ thể tích tụ dần dần khó mà hay biết. Hàn the khi vào cơ thể sẽ tích tụ ở gan, rất khó bị đào thải ra ngoài; khi tích tụ số lượng đủ lớn chúng sẽ bộc phát ra ngoài gây bệnh mạn tính. Trong cơ thể người, hàn the gây nên những tác động xấu làm ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của thận, gan, gây biếng ăn, suy nhược cơ thể... Hàn the là một hóa chất không nằm trong danh mục các loại hóa chất phụ gia được Bộ Y tế cho phép sử dụng trong việc bảo quản và chế biến thực phẩm[3]. Trong các chất phụ gia thực phẩm, tinopal hóa chất có khả năng phát huỳnh quang và làm cho sản phẩm sáng trắng hơn, là chất cấm chỉ dùng trong công nghiệp như trong sơn để làm bóng sơn. Tiếc là trong bún, bánh phở, bánh canh tươi, người sản xuất lợi dụng cho nó vào. Do đó, chất này rất nguy hiểm, có thể gây suy gan, suy thận và lâu dần dẫn đến ung thư. Không chỉ nỗi lo chứa tinopal mà bún còn bị sử dụng hàn the trong khi làm nó. Hàn the không có trong danh mục các chất được Bộ y tế cho phép dùng chế biến thực phẩm do tính độc hại của nó. Tuy nhiên, để xử lý trách nhiệm hình sự người bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm là bún, bánh phở, bánh canh tươi ở các chợ là điều không thật đơn giản!
Thứ hai, người sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật bị cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm. Theo quy định hiện hành, danh mục hóa chất, kháng sinh cấm nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng trong thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm tại Việt Nam - Ban hành kèm theo Thông tư số 28/2014/TT-BNNPTNT ngày 04 tháng 9 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bao gồm: Carbuterol; Cimaterol; Clenbuterol; Chloramphenicol; Diethylstilbestrol (DES); Dimetridazole; Fenoterol; Furazolidon và các dẫn xuất nhóm Nitrofuran; Isoxuprin; Methyl-testosterone; Metronidazole; 19 Nor-testosterone. Danh mục thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng ở Việt Nam – Ban hành kèm theo Thông tư 34/2015/TT-BNNPTNT ngày 12/10/2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (sửa đổi Thông tư 03/2015/TT-BNNPTNT), gồm: Thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản lâm sản: 21 hoạt chất; Thuốc trừ bệnh: 6 hoạt chất; Thuốc trừ chuột: 1 hoạt chất; Thuốc trừ cỏ: 1 hoạt chất. Vụ thanh tra chuyên ngành của Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh B đã tiến hành tiêu hủy 200kg chuối ngâm thuốc trừ cỏ CO 2,4D làm cứng trái của vựa chuối do ông V làm chủ tại phường T, thị xã A, tỉnh B. Khi ăn phải chuối ngâm trong thuốc diệt cỏ, vào cơ thể CO2,4D tồn dư trong gan, não, làm thay đổi cấu trúc gen, phụ nữ có thể sinh con quái thai[4]. Vấn đề đặt ra, làm rõ căn cứ bảo đảm rằng, loại hóa chất bị cấm, thuốc bảo vệ thực vật,…mà người sử dụng biết rõ là bị cấm sử dụng, bởi thực tế hiện nay, những loại thuốc, hóa chất đó người dân mua rất dễ dàng tại các Đại lý thuốc bảo vệ thực vật hoặc được bày bán công khai ở các chợ.
Thứ ba, người sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, chất xử lý cải tạo môi trường ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm. Cụ thể, những chất này sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi tại điểm này hoặc điểm a khoản 1 Điều 317 BLHS năm 2015 mà còn vi phạm. Gần đây, thông tin gây xôn xao dư luận, người nông dân sử dụng thần dược siêu tăng trưởng HVP Ga3 để rau nhanh được thu hoạch. Được biết, loại “thần dược” siêu tăng trưởng HVP Ga3 không có trong danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam. GA3 là một loại chất kích thích mọc mầm cho cây. Từ năm 1995, Cục Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (nơi cấp phép cho các hóa chất được sử dụng trong nông nghiệp) đã xếp GA3 nằm ở nhóm chất độc nhóm 3 và nhóm 4, nghĩa là nhóm có độc tính nhẹ[5]. Vấn đề đặt ra, theo quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015 để cấu thành tội phạm này, chỉ cần người thực hiện hành vi phạm tội thỏa mãn mặt khách quan là đủ, nhà làm luật không “định lượng” cụ thể trọng lượng chất cấm được sử dụng là bao nhiêu; dư lượng kháng sinh vượt đến ngưỡng nào,…là có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. Trong khi đó, Nghị định 178/2013/NĐ/CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; Nghị định 119/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thú ý, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi. Vậy, ranh giới nào để cơ quan thực thi nhiệm vụ áp dụng để xử phạt vi phạm hành chính mà không xử lý bằng pháp luật hình sự? Nếu không quy định rõ, sẽ bị lạm dụng hoặc tùy tiện trong áp dụng.
Thứ tư, hành vi chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm; sử dụng hóa chất, phụ gia,... hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm. Việc sử dụng này gây tổn hại cho sức khỏe của một người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 2 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%. Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phụ gia thực phẩm – chất làm bóng (National technical regulation on Food Additive – Glazing agent) QCVN 4-20:2011/BYT, ban hành theo Thông tư số 01/2011/TT-BYT ngày 13/01/2011 của Bộ Y tế. Chất làm bóng: là phụ gia thực phẩm được cho thêm vào bề mặt phía ngoài của thực phẩm nhằm tạo độ bóng hoặc tạo lớp bảo vệ. Mà theo đó, yêu cầu Chỉ số acid 17 – 24; Chỉ số peroxyd không được quá 5,0 ; Chỉ số xà phòng hóa 87 – 104; Chì Không được quá 2 mg/kg (Xác định bằng kỹ thuật quang phổ hấp thụ nguyên tử thích hợp cho hàm lượng quy định);… Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phụ gia thực phẩm – chất tạo bọt (National technical regulation on Food Additive – Foaming agent) QCVN 4-23:2011/BYT, ban hành theo Thông tư số 01/2011/TT-BYT ngày 13/01/2011 của Bộ Y tế. Chất tạo bọt: là phụ gia thực phẩm được cho vào thực phẩm nhằm tạo ra hoặc duy trì sự phân tán đồng nhất của pha khí trong thực phẩm dạng lỏng hoặc dạng rắn. Yêu cầu kỹ thuật: pH 3,7 – 5,5 ( đối với nồng độ dung dịch 4%); Tamin Không được quá 8% theo chế phẩm khô; chì Không được quá 2,0 mg/kg. (Xác định bằng kỹ thuật quang phổ hấp thụ nguyên tử thích  hợp cho hàm lượng quy định). Đây mới chỉ là 2 trong rất nhiều Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phụ gia thực phẩm mà Bộ Y tế đã ban hành theo Thông tư số 01/2011/TT-BYT, như vậy, với những người làm công tác nghiên cứu về lĩnh vực này hoặc người có trình độ chuyên môn trực tiếp pha chế nguyên liệu tại cơ sở sản xuất thì mới có thể biết được những quy định về quy chuẩn kỹ thuật, còn với những người buôn bán nhỏ, đại lý phân phối để truy cứu trách nhiệm hình sự họ đối với nhóm hành vi quy định tại điểm d khoản 1 Điều 317 BLHS năm 2015 đòi hỏi phải chứng minh được rằng, ý thức chủ quan của những người này là biết rõ sản phẩm mà họ đang trưng bày, bán cho người tiêu dùng, phân phối cho tiệm tạp hóa, các đầu mối là vi phạm quy chuẩn kỹ thuật phụ gia thực phẩm. Nên đây thật sự là điều khó đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, theo quy định cũng có thể xử lý hình sự với hành vi phạm tội theo điểm d khoản 1 Điều 317 BLHS năm 2015, nếu người phạm tội thu lợi bất chính từ 50 đến 100 triệu đồng. Theo quan điểm của tác giả, như vậy sẽ bỏ lọt một số lượng rất lớn người phạm tội, mà đối tượng đó chính là những người buôn bán nhỏ lẻ, len lỏi ở các vùng nông thôn, vùng núi cao, ven biển khi mà mọi giao dịch mua bán với nhau bằng miệng, hầu như không thể hiện trên hóa đơn chứng từ, thì liệu rằng cơ quan điều tra có xác định được số tiền thu lợi bất chính của họ không, trong khi hoàn toàn phía người bán không có sổ sách ghi chép việc nhập hàng, xuất hàng, doanh thu,...
Thứ năm, tại điểm d khoản 1 Điều 317 BLHS năm 2015, có quy định một trong những trường hợp để truy cứu trách nhiệm hình sự, người thực hiện hành vi phạm tội mà “gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%”, để chứng minh hậu quả này thật sự khó đối với các cơ quan điều tra, bởi phải chứng minh làm rõ mối quan hệ nhân – quả giữa việc sử dụng thực phẩm do dùng hóa chất, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục tuy được phép sử dụng nhưng lạm dụng quá mức hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng sức khỏe của người bị hại bị tổn thương theo tỉ lệ quy định.
Thứ sáu, đâu là ranh giới rõ ràng nhận biết đólà hành vi vi phạm hành chính với trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Theo Nghị định 178/2013/NĐ/CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm, mà theo đó, mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức. Chẳng hạn, tại Điều 7[6] của Nghị định này quy định hành vi vi phạm về sử dụng hóa chất trong sản xuất, chế biến thực phẩm, mức phạt tiền thấp nhất 10 triệu đồng và cao nhất 100 triệu đồng, đối với các hành vi: Hành vi sử dụng hóa chất được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm nhưng quá thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng; sử dụng hóa chất không có trong danh mục được phép sử dụng, hóa chất không rõ nguồn gốc để sản xuất, chế biến thực phẩm; sử dụng hóa chất bị cấm sử dụng trong sản xuất, chế biến thực phẩm để sản xuất, chế biến thực phẩm. Nhưng nghiên cứu quy định cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015, thì chỉ cần người vi phạm thực hiện hành vi theo mô tả tại các điểm a, b, c, d là có thể bị truy cứu TNHS, mà không phụ thuộc bất kỳ điều kiện nào. Do vậy, để tránh việc lạm dụng quy định của pháp luật hình sự trong đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm này, thiết nghĩ sẽ là tốt hơn, nếu được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu hướng dẫn cụ thể nhằm tạo sự thống nhất về nhận thức và áp dụng có hiệu quả quy định trên.
                                      Phạm Thị Hồng Đào - Văn phòng luật sư tỉnh Thạnh Hưng
 
[1] Điều 244. Tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
1. Người nào chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người tiêu dùng, thì bị phạt tù từ một năm đến năm  năm.
2.  Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến  mười năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công  việc nhất định từ một  năm đến năm năm.
[2] Điều 317 Tội  Vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm;
b) Sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm;
c) Sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, chất xử lý cải tạo môi trường ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi tại điểm này hoặc điểm a khoản này mà còn vi phạm;
d) Chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm; sử dụng hóa chất, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm: gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60% hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù 03 năm đến 07 năm:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Làm chết 01 người hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
d) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%.
đ) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Làm chết 02 người;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;
d) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
d) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
[6] Điều 7. Vi phạm quy định về sử dụng hóa chất trong sản xuất, chế biến thực phẩm
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng hóa chất được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm nhưng quá thời hạn sử dụng hoặc không có thời hạn sử dụng.
2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng hóa chất không có trong danh mục được phép sử dụng, hóa chất không rõ nguồn gốc để sản xuất, chế biến thực phẩm.
3. Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng hóa chất bị cấm sử dụng trong sản xuất, chế biến thực phẩm để sản xuất, chế biến thực phẩm.
4. Phạt tiền bằng 3,5 lần tổng giá trị thực phẩm vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 3 Điều này nếu mức tiền phạt cao nhất của khung tiền phạt quy định tại Khoản 3 Điều này thấp hơn 3,5 lần tổng giá trị thực phẩm vi phạm tại thời điểm vi phạm.
5. Hình thức xử phạt bổ sung:
a) Đình chỉ hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm từ 02 tháng đến 04 tháng đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này;
b) Đình chỉ hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm từ 04 tháng đến 06 tháng đối với hành vi quy định tại Khoản 2 Điều này;
c) Đình chỉ hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi quy định tại Khoản 3 Điều này.
6. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.