Luật Trọng tài thương mại, được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010, có hiệu lực ngày 01/01/2011 (viết tắt Luật TTTM), thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực. Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập quốc tế trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, điều đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng để đảm bảo tương thích với pháp luật quốc tế, việc Luật TTTM được Quốc hội thông qua đã tạo ra khuôn khổ pháp lý đồng bộ để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện thương mại cũng như một số vấn đề liên quan khác. Có thể thấy rằng pháp luật về trọng tại thương mại (TTTM) đã có những sửa đổi lớn, việc ra đời của Luật TTTM thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 đã là một bước tiến dài trong việc quy định của pháp luật về TTTM. Tuy nhiên, qua thời gian thi hành từ 2011 đến nay, Luật TTTM đã bộc lộ không ít những bất cập ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động và uy tín của TTTM ở Việt Nam. Mặt khác,còn gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật TTTM trên thực tế để giải quyết các tranh chấp. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các doanh nghiệp chưa “mặn mà” việc lựa chọn phương thức giải quyết bằng TTTM theo quy định của pháp luật hiện hành. Cụ thể, những hạn chế của quy định pháp luật TTTM thể hiện ở một số điểm sau:
1. Những bất cập từ quy định của Luật TTTM
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh của Luật TTTM chưa được quy định một cách rõ ràng. Mà theo đó, tại Điều 1 Luật TTTM quy định: “Luật này quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại, các hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, Trọng tài viên; trình tự, thủ tục trọng tài; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài”. Từ nội dung quy định này thực tế dẫn tới có hai quan điểm nhận thức khác nhau về phạm vi điều chỉnh của Luật gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền của Trọng tài. Quan điểm thứ nhất, Luật TTTM chỉ áp dụng đối với các quyết định của Trọng tài trong nước. Quan điểm thứ hai, Luật này cũng có thể được áp dụng cả đối với các quyết định của Trọng tài nước ngoài trong quá trình giải quyết tranh chấp nếu quyết định được tuyên tại Việt Nam hoặc địa điểm giải quyết vụ tranh chấp tại Việt Nam, ngoại trừ việc công nhận, cho thi hành phán quyết cuối cùng của Trọng tài giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp. Tác giả ủng hộ quan điểm thứ hai, vì theo quy định tại khoản 2 Điều 342 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) có quy định: “Quyết định của Trọng tài nước ngoài là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam của Trọng tài nước ngoài do các bên thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao động.” Tuy nhiên, có thể thấy quy định này chưa thật sự phù hợp với Công ước New York năm 1958 và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế. Theo thông lệ quốc tế, tiêu chí cơ bản để xác định một quyết định của trọng tài nước ngoài hay không là nơi ra quyết định trọng tài. Khoản 1 Điều I Công ước New York quy định: “Công ước này sẽ áp dụng đối với việc công nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài được tuyên ở một quốc gia không phải là quốc gia nơi quyết định trọng tài được xin công nhận và cho thi hành”. Thông lệ này bắt nguồn từ một nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật và thực tiễn trọng tài thương mại quốc tế, đó là, luật điều chỉnh tố tụng trọng tài (bao gồm cả các quy định pháp luật liên quan đến hình thức và hiệu lực của phán quyết trọng tài) là luật pháp của quốc gia sở tại (lex arbitri), bất kể quốc tịch của Trọng tài viên và Hội đồng trọng tài, trừ phi luật pháp của quốc gia đó cho phép việc áp dụng pháp luật của quốc gia khác.
Thứ hai, quy định về thẩm quyền của trọng tài. So với quy định trước đây, chỉ có tổ chức kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh mới có quyền lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp, nhưng với quy định tại Điều 2 Luật TTTM, phạm vi thẩm quyền trọng tài đã được mở rộng, mà theo đó, bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào cũng có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp, miễn là lĩnh vực đó phát sinh theo quy định của Luật. Tuy nhiên, với quy định mở như vậy, nhưng thiếu hướng dẫn chi tiết các loại tranh chấp được giải quyết thông qua hình thức TTTM lại là hạn chế khi áp dụng quy định của Luật TTTM vào thực tiễn. Nghị định 63/2011/NĐ-CP ngày 28/7/2011 của Chính phủ, hướng dẫn một số điều của Luật Trong tài thương mại (viết tắt Nghị định 63/2011/NĐ-CP), mà theo đó, tại Điều 1 của Nghị định này quy định: “Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trọng tài thương mại về quản lý nhà nước về trọng tài; thủ tục đăng ký hoạt động, chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của Trung tâm trọng tài, Chi nhánh Trung tâm trọng tài; thủ tục thành lập, đăng ký hoạt động, chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của Chi nhánh, Văn phòng đại diện của Tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài.”, như vậy, Nghị định này vẫn chưa đưa ra hướng dẫn cụ thể những loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền của trọng tài để hạn chế xung đột về thẩm quyền giữa trọng tài với Tòa án.
Thứ ba, quy định về tiêu chuẩn của Trọng tài viên. Tại điểm c khoản 1 Điều 20 Luật TTTM:“Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên”.Vấn đề đặt ra, Luật TTTM có cần đặt ra những quy định có tính khắt khe như thế không? Mục đích của nhà làm luật hướng tới xây dựng đội ngũ Trọng tài viên có chuyên môn cao để từ đó nâng cao chất lượng hoạt động của trọng tài tốt hơn, nhà làm luật hiện thực hóa quy định này bằng những tiêu chuẩn để được công nhận là trọng tài viên. Tuy nhiên, quy định này vô tình vi phạm quyền tự do lựa chọn Trọng tài viên của các bên trong tranh chấp, ảnh hưởng đến việc thành lập Hội đồng trọng tài theo đúng ý chí của các bên. Hơn nữa, dù nhà làm luật đã chú ý vấn đề này bằng cách thêm khoản 3 vào Điều 20 Luật TTTM. Song vấn đề nảy sinh gây khó hiểu, thế nào là trường hợp đặc biệt? Ai, tổ chức nào có thẩm quyền xác định đó là trường hợp đặc biệt? Trong khi đó, Trọng tài viên là các cá nhân được các bên tin tưởng giao cho việc giải quyết vụ tranh chấp. Với vai trò đặc biệt quan trọng này, các bên phải lựa chọn kỹ càng người “cầm cân, nảy mực”; Uy tín, chất lượng chuyên môn của Trọng tài viên hoàn toàn do các bên thẩm định. Do vậy, việc quy định tiêu chuẩn về chuyên môn của Trọng tài viên như vậy là vừa thừa vừa hạn chế cơ hội đối với số cá nhân được trở thành Trọng tài viên, đi ngược lại mong muốn của các bên trong giải quyết tranh chấp. Mặt khác, Luật hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể về việc công nhận Trọng tài viên.
Thứ tư, quy định về sự hỗ trợ của Tòa án trong giải quyết tranh chấp. Dù Luật TTTM được đánh giá cao trong xây dựng cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với Hội đồng trọng tài trong quá trình làm việc, nhưng vẫn còn tồn tại cần được khắc phục, đó là, Luật TTTM chưa quy định biện pháp chế tài xử lý đối với cá nhân không chấp hành quyết định của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ và triệu tập người làm chứng. Hai hoạt động này là sự hỗ trợ đáng kể của Tòa án đối với Hội đồng trọng tài, vì nếu không có sực giúp sức của cơ quan công quyền này, Hội đồng trọng tài khó có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ là văn bản gửi các cá nhân, tổ chức có liên quan mà chưa có chế tài rõ ràng đối với cá nhân, tổ chức không thực hiện yêu cầu của Tòa án. Trong BLTTDS cũng không quy định về vấn đề này, mà chỉ quy định “Thủ tục giải quyết yêu cầu liên quan đến hoạt động TTTM Việt Nam”. Đây thật sự là bất cập khiến cho việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài gặp khó khăn do bị trì hoãn.
Thứ năm, về Điều 6 Luật TTTM. Mà theo đó, Điều 6 của Luật này có quy định: “Toà án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài. Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Toà án thì Toà án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.” Vậy trường hợp nào được hiểu là thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được? Ngay cả văn bản dưới luật liên quan đến lĩnh vực này cũng không hướng dẫn rõ khái niệm này. Thiếu sót này thật sự là sự cản trở cho các bên trong việc áp dụng pháp luật trường hợp nào thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, để cân nhắc trước khi xây dựng thỏa thuận trọng tài. Nghị định 63/2011/NĐ-CP cũng không có hướng dẫn nào liên quan đến vấn đề này, nên trong thực tế đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề.
Thứ sáu, về quy định tại khoản 8 Điều 71 Luật TTTM:“Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các bên có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại Trọng tài hoặc một bên có quyền khởi kiện tại Tòa án. Trường hợp Hội đồng xét đơn yêu cầu không hủy phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành.”Điều này dẫn đến một thực tế là thông thường các bên lựa chọn Tòa án để giải quyết tranh chấp, bởi sau khi phán quyết của trọng tài bị hủy, các bên rất khó cùng nhau xây dựng một thỏa thuận khác. Lúc này, các doanh nghiệp phải xem xét tính toán lại chi phí, thời gian theo đuổi vụ kiện. Để tránh tình huống vừa nêu xảy ra, các bên lựa chọn phương án đưa vụ kiện thẳng đến Tòa án ngay từ đầu, do phán quyết của Tòa án luôn được bảo đảm hơn việc thi hành bởi sự cưỡng chế của Nhà nước, một trong các bên không thể yêu cầu tuyên hủy phán quyết của Tòa án. Như vậy theo quy định trên, chẳng khác nào doanh nghiệp lựa chọn đi con đường vòng giải quyết vụ tranh chấp từ TTTM nhưng cuối cùng vẫn phải đến Tòa án. Sau khi phán quyết trọng tài bị tuyên hủy, giả sử các bên thỏa thuận đưa vụ việc tiếp tục giải quyết bằng trọng tài lần thứ hai, thì vẫn không khác gì việc giải quyết tranh chấp theo trình tự lặp đi lặp lại làm tốn kém thời gian, chi phí gấp hai lần so với đưa vụ việc đến Tòa án để giải quyết ngay từ đầu.
Thứ bảy, về quy định tại khoản 3 Điều 50 Luật TTTM: “Theo quyết định của Hội đồng trọng tài, bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải gửi một khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá do Hội đồng trọng tài ấn định tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây ra để bảo vệ lợi ích của bên bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khoản tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá được gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng do Hội đồng trọng tài quyết định.” Vậy với trường hợp một doanh nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ, có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn giá trị tài sản lớn trong hợp đồng, nếu căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 50 Luật TTTM, doanh nghiệp đó phải huy động một nguồn tài chính khá lớn tương ứng với giá trị thiệt hại có thể phát sinh. Từ thực tế đó cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn, việc phải xoay sở một khoản tài chính khá lớn là quá sức đối với doanh nghiệp thuộc quy mô vừa và nhỏ. Do vậy, họ sẽ không đủ điều kiện để đưa ra yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời như luật định. Phải chăng đây là mâu thuẫn trong nội tại quy định của Luật TTTM, bởi pháp luật đặt ra nhằm bênh vực kẻ yếu thế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhưng cũng chính quy định này lại là rào cản để họ có điều kiện bảo vệ quyền lợi của mình!
Thứ tám, về quy định tại Điều 67 Luật TTTM: “Phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.”Do đặc thù của TTTM chỉ giải quyết tranh chấp thương mại, nên thủ tục thi hành phán quyết TTTM không thể như thủ tục thi hành án dân sự thông thường, mà cần phải bảo đảm tính nhanh, gọn. Như vậy, có lẽ quy định tại Điều 67 Luật TTTM đã làm phức tạp thêm quá trình áp dụng phương thức giải quyết TTTM, vốn được coi là phương thức giải quyết nhanh, gọn.
Thứ chín, về quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luật TTTM đã trao quyền cho Hội đồng trọng tài được quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luật đã trao quyền nhưng lại không quy định việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định bổ sung việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng như quyết định hủy bỏ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Hội đồng trọng tài. Hơn nữa, tuy luật cho phép Hội đồng trọng tài được quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhưng về bản chất Hội đồng trọng tài không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, nên chắc chắn rằng việc áp dụng các biện pháp đó trên thực tế gặp nhiều khó khăn là điều không thể tránh khỏi.
Thứ mười, về quy định lưu trữ hồ sơ trọng tài. Theo quy định tại Điều 64 Luật TTTM:
“1. Trung tâm trọng tài có trách nhiệm lưu trữ hồ sơ vụ tranh chấp đã thụ lý. Hồ sơ vụ tranh chấp do Trọng tài vụ việc giải quyết được các bên hoặc các Trọng tài viên lưu trữ.
2. Hồ sơ trọng tài được lưu trữ trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra phán quyết trọng tài hoặc quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.”Theo quan điểm của người viết, quy định này là quá chung chung và thiếu tính khả thi trên thực tế, vì: Theo quy định Hồ sơ tranh chấp do Trọng tài vụ việc giải quyết được các bên hoặc các Trọng tài viên lưu trữ, nhưng nếu Trọng tài viên, các bên không lưu giữ thì hậu quả sẽ ra sao? Nếu Tòa án có thẩm quyền cần xem xét hồ sơ vụ kiện thì bên nào có nghĩa vụ cung cấp? Nếu không cung cấp thì chế tài xử lý ra sao?
2. Những hạn chế khi áp dụng các quy định của Luật TTTM khi giải quyết các tranh chấp
Thứ nhất, phần lớn các tranh chấp được giải quyết bằng phương pháp trọng tài ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại chủ yếu có yếu tố nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài phải bỏ ra chi phí khá lớn để thuê luật sư, chuyên gia am hiểu về lĩnh vực tranh chấp và pháp luật Việt Nam. Hơn nữa, kết quả giải quyết tranh chấp căn cứ pháp luật Việt Nam cũng khó để các bên công nhận, dẫn đến hệ quả họ có thể kiện các cơ quan tài phán quốc tế, điều này sẽ ảnh hưởng đến điều kiện phát triển kinh tế của Việt Nam và quan hệ giao thương của các doanh nhân nước ta nói riêng.
Thứ hai, trọng tài là tổ chức phi chính phủ nên phán quyết của trọng tài không nhân danh Nhà nước, điều này có lẽ lỗ hổng về sự vô tư của Trọng tài viên khi ra phán quyết. Các nhà kinh doanh chưa thật sự tin tưởng khi lựa chọn trọng tài, bởi họ chưa tin tưởng vào tính độc lập, vô tư, khách quan của Trọng tài viên. Vì lý do nào đó mà Trọng tài viên đưa ra phán quyết sai, không khách quan thì họ không biết phải dựa vào cơ chế nào để bảo vệ quyền lợi của chính mình ngoài việc không thi hành phán quyết đó và khởi kiện tại Tòa kinh tế thuộc TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Thứ ba, theo quy định của pháp luật Việt Nam, với phán quyết của trọng tài trong nước được thi hành ngay nhưng phán quyết của trọng tài nước ngoài phải thông qua thủ tục công nhận tại Tòa án thì cơ quan thi hành án mới tổ chức thi hành. Như vậy, theo quy định này thì giữa phán quyết trọng tài trong nước với phán quyết trọng tài nước ngoài chưa thật sự “bình đẳng”. Mặc dù, Việt Nam đã gia nhập Công ước New York năm 1958, nhưng thực tế cho thấy các cấp Tòa án vẫn chưa xem xét theo hướng thuận lợi việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, có trường hợp bị đơn phải trả tiền bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn ở nước ngoài, nhưng Tòa án Việt Nam dựa vào quy định này của Luật để từ chối việc công nhận phán quyết của trọng tài nước ngoài, nhằm bảo vệ quyền lợi của bị đơn trong nước. Điều này khiến các nhà đầu tư nước ngoài không thiện chí hợp tác với doanh nghiệp của Việt Nam, bởi họ lo sợ nếu xảy ra tranh chấp, dù phán quyết của trọng tài nước ngoài được tuyên nhưng vẫn khó thực thi tại Việt Nam do vấp phải quy định này. Mặt khác, vấn đề công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài được quy định trong BLDS, BLTTDS, Luật Thi hành án dân sự, nhưng Luật TTTM lại không có quy định nào về vấn đề này, nên đây có lẽ là bất cập, trở ngại cho việc các doanh nhân nước ngoài khi nghiên cứu, tiếp cận Luật TTTM, nhưng lại thiếu quy định về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, trong khi đó, tham khảo pháp luật của nhiều nước trên thế giới, như Pháp, Đức,… đều quy định việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài ngay trong Luật Trọng tài.
Thứ tư, do không phải là cơ quan nhà nước nên hoạt động của TTTM không mang tính quyền lực, điều này gây không ít khó khăn cho Trọng tài viên khi giải quyết tranh chấp cũng như khó khăn cho các thương nhân khi yêu cầu việc công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài. Hơn nữa, số lượng Trọng tài viên còn quá khiêm tốn, cơ sở vật chất trang bị đầu tư chưa tương xứng, kỹ năng giải quyết các tranh chấp chưa mang tính chuyên nghiệp,… Mặt khác, đa số các doanh nhân nước ta chưa thật sự thông hiểu đầy đủ về pháp luật trọng tài, chưa thấy hết tính ưu việt của phương thức giải quyết này. Bên cạnh đó còn tồn tại những nguyên nhân khác từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thay vì nhận thức trọng tài là phương thức hỗ trợ đắc lực giúp giảm tải việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại Tòa án, thì ngược lại cho rằng đường nào cũng nhờ Tòa án giải quyết nên không ít Tòa án lại động viên việc khởi kiện và “ôm” luôn việc xét xử! Điều này được chứng minh qua con số thống kê có tới 95% các tranh chấp hợp đồng thương mại trong nước được Tòa án thù lý và giải quyết.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trọng tài trong thời gian tới
Một là, kiến nghị về hoàn thiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp
Các văn bản hướng thi hành Luật TTTM hiện hành nên giải thích theo hướng mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài, tôn trọng tự do ý chí thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Cụ thể, nên quy định thẩm quyền của trọng tài theo phương pháp loại trừ, mở rộng thẩm quyền của trọng tài ra cả một số tranh chấp liên quan đến quyền nhân thân, quan hệ hôn nhân và gia đình, thừa kế theo quy định của luật dân sự , điều này là hoàn toàn phù hợp trong điều kiện nước ta ngày càng hội nhập với thế giới thì không có lý do vì pháp luật của nước ta lại không phù hợp với luật chung của thế giới. Ví dụ, như Luật Trọng tài của Singapo, trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về dân sự trừ lĩnh vực hình sự và tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình.
Hai là, hoàn thiện quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với pháp luật trọng tài theo hướng việc ra quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tưong tự như các biện pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Ba là, hoàn thiện quy định của pháp luật trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Luật TTTM cần được xem xét bổ sung quy định về thủ tục yêu cầu Tòa án xem xét quyết định của Hội đồng trọng tài về vấn đề vô hiệu của thỏa thuận trọng tài. Cụ thể, trong thời gian Tòa án xem xét để ra quyết định thỏa thuận trọng tài có vô hiệu không, Hội đồng trọng tài nên tạm dừng tố tụng, vì trong thời gian này dù có tiến hành tố tụng thì các bên cũng khó đạt được kết quả như mong đợi vì một trong các bên đã không thiết tha với giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài, điều này được chứng minh họ đã yêu cầu Tòa án xem xét tuyên thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Hơn nữa, dù có đạt được kết quả giải quyết tranh chấp trong thời gian này đi chăng nữa, mà sau đó, Tòa án tuyên thỏa thuận trọng tài đó là vô hiệu thì đương nhiên phán quyết của trọng tài sẽ không có giá trị thi hành trên thực tế và kể từ đó các bên tranh chấp chuẩn bị tâm thế đưa vụ việc tranh chấp ra Tòa án để giải quyết.
Bốn là, hoàn thiện một số quy định về Trọng tài viên
Thứ nhất, nâng cao chất lượng song hành với phát triển số lương Trọng tài viên theo hướng giỏi về trình độ chuyên môn, có đạo đức nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm thực tiễn, các thương nhân có thời gian dài hoạt động trong lĩnh vực thương mại, muốn trở thành Trọng tài viên buộc phải tham gia khóa bồi dưỡng nghiệp vụ trọng tài với thời gian từ 4 đến 6 tháng.
Thứ hai, các tiêu chuẩn chuyên môn về Trọng tài viên nên được loại bỏ ra khỏi Luật TTTM, thay vào đó để nâng cao chất lượng chuyên môn của Trọng tài viên, Nhà nước có thể quy định thực hiện bằng các biện pháp khác.
Năm là, hoàn thiện quy định về tọng tài vụ việc
Thứ nhất, Luật TTTM cần quy định rõ thời gian thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc trong trường hợp có khiếu định quyết định chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn, việc quy định trong thời hạn bao lâu hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài sau khi có quyết định giải quyết khiếu nại của Tòa án có ý nghĩa hết sức quan trọng về tính hợp pháp liên tục của tố tụng trọng tài, vì nếu hai Trọng tài viên tự mình không thể bầu được Chủ tịch Hội đồng trọng tài thì các bên phải đề nghị Tòa án có thẩm chỉ định Chủ tịch Hội đồng trọng tài theo quy định tại khoản 3 Điều 41 Luật TTTM. Cụ thể kiến nghị bổ sung như sau: “Trường hợp có khiếu nại về quyết định chỉ định Trọng tài viên cho các bên, thì trong 15 ngày kể từ ngày Tòa án có thẩm quyền ban hành văn bản giải quyết khiếu nại, hai Trọng tài viên phải bầu Chủ tịch Hội đồng trọng tài để giải quyết vụ tranh chấp.”
Thứ hai, Luật TTTM cần trao cho Hội đồng trọng tài vụ việc các thẩm quyền liên quan đến trình tự, thủ tục tố tụng trọng tài, cụ thể, bổ sung: “Hội đồng trọng tài vụ việc được quyền quyết định trình tự, thủ tục giải quyết vụ tranh chấp nếu các bên không tự thỏa thuận được.” còn nếu sự thay đổi thủ tục tố tụng giữa các bên về địa điểm, ngôn ngữ giải quyết tranh chấp đều hợp pháp, thì đề nghị bổ sung quy định sau: “Mọi sự thay đổi về thủ tục, trình tự tố tụng trọng tài trước và sau khi xảy ra tranh chấp đều được lập thành văn bản và do Hội đồng trọng tài quyết định sự thay đổi.”
Thứ ba, cần có hướng dẫn cụ thể việc áp dụng quy định: “Chủ tịch Hội đồng trọng tài phải thực hiện việc đóng gói và lưu trữ hồ sơ vụ kiện trong thời gian 05 năm và có trách nhiệm cung cấp cho TAND có thẩm quyền khi có yêu cầu.”
Th.S Lê Văn Sua
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.