Kể từ khi Luật Phòng, chống tham nhũng, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 đến nay, đã nhiều lần tiến hành sửa đổi, bổ sung, cụ thể: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2007; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2012 (viết tắt Luật PCTN). Trong những năm qua, công tác phòng chống tham nhũng đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân thông qua công tác điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tài sản tham nhũng được thu hồi,… Tuy nhiên, sau những lần sửa đổi, bổ sung thì tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp hơn, gây bức xúc trong nhân dân. Mà có lẽ, việc xử lý tham nhũng và kiểm soát, minh bạch tài sản vẫn là khâu yếu nhất hiện nay, việc đưa ra xét xử án tham nhũng chiếm tỉ lệ rất thấp so với vụ việc được phát hiện và kết quả thu hồi tài sản tham nhũng đạt được rất ít so với số tài sản phải thu hồi. Thực tế cho thấy tham nhũng nhiều nhưng ít bị phát hiện và có bị phát hiện thì một phần không nhỏ được xử lý bằng hình thức kiểm điểm, rút kinh nghiệm, thuyên chuyển công tác. Phần còn lại rất ít (ở mức 5% so với thực tế) bị điều tra, truy tố, xét xử nên số tài sản thu hồi được cũng rất nhỏ, đó là chưa kể đến do quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng và các luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự còn nhiều bất cập, nên trước khi bị các cơ quan chức năng tiến hành các biện pháp nghiệp vụ với đối tượng thì phần rất lớn tài sản có được do tham nhũng bị tẩu tán, chuyển cho bố, mẹ người thân đứng tên thậm chí tuồn ra nước ngoài, vì vậy hậu quả mà đối tượng phạm tội gây ra là rất lớn, chiếm đoạt, gây thất thoát hàng trăm tỷ đồng, hàng chục triệu USD nhưng thu hồi tài sản tham nhũng chỉ vài chục triệu đồng. Bất cập này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân do pháp luật về phòng, chống tham nhũngcòn có những hạn chế, bất cập, chưa đủ nghiêm minh nên tham nhũng vẫn còn xảy ra phổ biến gây thiệt hại, đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, các quy định của pháp luật PCTN phải hướng tới việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Qua nghiên cứu, người viết thấy rằng các vướng mắc, bất cập trên được biểu hiện thông qua mấy nội dung sau:
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư" . Người không sử dụng danh từ “tham nhũng”, nhưng Người thường nói đó là tham ô – biểu hiện đặc trưng nhất của tham nhũng:
“Tham ô là gì?
- Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là:
Ăn cắp của công làm của tư
Đục khoét của nhân dân
Ăn bớt của bộ đội.
Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô.
- Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là:
Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế".
Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2012 – viết tắt Luật PCTN): “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Luật PCTN quy định chủ thể của tham nhũng là “người có chức vụ, quyền hạn”, bao gồm cả “người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó”. Nhưng trên thực tế, có những người mặc dù không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ vẫn là đối tượng cần được nghiên cứu có phải là chủ thể của tham nhũng hay không, chẳng hạn như: người lợi dụng sự ảnh hưởng của người có chức vụ, quyền hạn để thu lợi cá nhân; người tiếp tay, giúp sức người có chức vụ, quyền hạn thực hiện các hành vi tham nhũng. Do đó, vẫn cần phải nghiên cứu quy định thêm chủ thể của tham nhũng trong các trường hợp trên. Bên cạnh đó, việc quy định chủ thể tham nhũng là người được giao thực hiện nhiệm vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó còn có nhiều cách hiểu khác nhau, bởi theo quy định này thì không rõ nhiệm vụ được nêu là nhiệm vụ ở trong khu vực công hay ở khu vực tư. Nếu bao gồm cả khu vực tư thì người được giao nhiệm vụ quản lý, kiểm soát nguồn vốn, tài sản, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tập thể (chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát của doanh nghiệp; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát hợp tác xã) đã lợi dụng nhiệm vụ của mình để vụ lợi cũng được coi là chủ thể của tham nhũng.
Thứ hai, quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật PCTN: “Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng”. Theo quy định này, để kết luận tài sản của một người nào đó có được do tham nhũng thì phải chứng minh được rằng người đó đã có hành vi tham nhũng. Hay nói cách khác, pháp luật hiện tại định nghĩa tài sản tham nhũng phải là tài sản của người đã bị kết án về hành vi tham nhũng. Nhưng từ khi phát hiện đến tiến hành các hoạt động điều tra vụ án tham nhũng là một quá trình dài và trong thời gian đó, nghi can cũng như người thân của họ đã kịp tẩu tán tài sản. Việc tẩu tán lại vô cùng dễ dàng khi mà Nhà nước chưa thể kiểm soát được tài sản, thu nhập của toàn xã hội.Chính từ quy định bất cập này nên muốn thu hồi tài sản thì trước hết phải xác định được người đó có hành vi tham nhũng không? Về lý thuyết theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS), để hoàn thành một qui trình từ khi điều tra, truy tố đến lúc xét xử sơ thẩm vụ án phải mất từ 363 ngày đến 1.008 ngày tùy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, với chừng ấy thời gian đến khi bản án có hiệu lực pháp luật thì mọi chuyện đã quá muộn, tài sản tham nhũng đã bị tẩu tán, nhiều tài sản do đối tượng chiếm đoạt đã được chuyển hóa thành tài sản của người thân và chuyển dịch ra nước ngoài. Khi phát hiện ra dấu hiệu của đối tượng tham nhũng, Cơ quan điều tra tiến hành khởi tố, bắt tạm giam thì tài sản đã được tẩu tán trước đó không thể thu hồi được, đến khâu thi hành án bị cáo, bị án trở thành kẻ trắng tay! Chẳng hạn, Dương Chí Dũng – cựu Cục trưởng cục Hàng hải Việt Nam. Thiệt hại được xác định trong vụ án gần 367 tỉ đồng. Theo bản án phúc thẩm, các bị cáo Dương Chí Dũng, Mai Văn Phúc mỗi người phải nộp khoản tiền đền bù thiệt hại là 110 tỉ đồng. Trước đó, Cơ quan điều tra có kê biên 3 ngôi nhà của bị cáo Dũng ở thành phố Hà Nội, còn Mai Văn Phúc bị kê biên ngôi nhà ở đường Lê Quý Đôn (TP.Hạ Long, Quảng Ninh). Như vậy, số tài sản thu hồi của Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc là quá nhỏ so với số tiền mỗi người phải thi hành án là 110 tỉ đồng. Trường hợp khác, vụ án tham nhũng tại Công ty Cho thuê tài chính II, Vũ Quốc Hảo – nguyên Tổng Giám đốc công ty Cho thuê tài chính II bị tuyên án tử hình. Tổng giá trị thiệt hại do hành vi phạm tội của Vũ Quốc Hảo và 10 đồng phạm gây ra trong vụ án này là 531,8 tỉ đồng, trong đó tham ô 79,9 tỉ đồng, lừa đảo 60,9 tỉ đồng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại 3,9 tỉ đồng. Dù thiệt hại vô cùng lớn nhưng Cơ quan điều tra chỉ mới thu hồi 5,8 tỉ đồng cùng 4 căn nhà và 1 thửa đất. Điều đó cho thấy, cái yếu trong thu hồi TSTN là do quy định của pháp luật hiện hành lĩnh vực phòng, chống tham nhũng chưa phù hợp, phạm vi điều chỉnh còn quá hẹp “Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng. Theo kinh nghiệm của Singapo, quy định trong Luật Sung công tài sản tham nhũng, mà theo đó, một người nào đó có tài sản hoặc lợi ích về tài sản vượt quá khoản thu nhập công khai của mình, thì phần tài sản trội lên sẽ bị coi là tài sản có nguồn gốc tham nhũng nếu người đó không giải thích được nguồn gốc tài sản của mình là hợp pháp (Điều 4). Giá trị tài sản có nguồn gốc tham nhũng là tổng cộng giá trị của tài sản và các lợi ích có được từ tài sản (Điều 5). Giá trị tài sản thu hồi theo quyết định sung công là giá trị tài sản mà tòa án xác định có nguồn gốc tham nhũng. Trường hợp tài sản phát mại ít hơn số tài sản tòa án xác định có nguồn gốc tham nhũng thì số tài sản phải tịch thu theo quyết định sung công là số tài sản phát mại trên thực tế.
Thứ ba, theo quy định về các tội phạm về tham nhũng (Từ Điều 278 đến Điều 284, Mục A Chương XXI BLHS), như vậy, để có cơ sở quy kết trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi tham nhũng thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh đối tượng phạm tội có mục đích vụ lợi, mà để chứng minh được yếu tố vụ lợi thì lại quá khó nên thực tế phát hiện, xét xử án tham nhũng không nhiều, do vậy chỉ dừng lại điều tra, truy tố và xét xử về tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại Điều 165 BLHS. Đây cũng là bất cập. Nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, chẳng một ai dại dột gì lại thực hiện hành vi cố ý làm trái… để người khác hưởng lợi, còn mình thì bị coi là vi phạm pháp luật và phải chịu chế tài xử lý của pháp luật hình sự! Chẳng hạn, mỗi chiếc điện kế điện tử có giá trên thị trường 200.000 đồng/chiếc, nhưng lại bỏ tiền mua với giá 400.000 đồng/chiếc; Trường hợp khác, một chiếc ụ nổi có giá 1.000.000 USD nhưng lại ký kết hợp đồng với bên bán với giá mua 9.000.000 USD thì chắc chắn rằng không một ai tin rằng người đi mua ngớ ngẩn đến mức độ như thế, để rồi người khác hưởng lợi, bản thân người cố ý làm trái đó không hưởng lợi? Hành vi này theo quy định pháp luật của một số nước trong khu vực của ta, như Thái Lan, Singapo đều coi đương nhiên là tham nhũng, mà cơ quan chức năng không phải chứng minh có hay không mục đích vụ lợi. Có lẽ, đây là kẽ hở của pháp luật về lĩnh vực này, cũng cần nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với tình hình thì mới nâng cao được hiệu quả trong phát hiện và xử lý tham nhũng.
Thứ tư, về kê khai tài sản thu nhập theo quy định tại Điều 45 Luật PCTN:
“Các loại tài sản phải kê khai bao gồm:
1. Nhà, quyền sử dụng đất;
2. Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi loại từ năm mươi triệu đồng trở lên;
3. Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
4. Thu nhập phải chịu thuế theo quy định của pháp luật.”
Hàng năm, tất cả các đối tượng phải nghiêm túc tiến hành kê khai tài sản theo quy định tại Điều 44 Luật PCTN, đây là cơ sở để cơ quan, tổ chức và người dân giám sát tài sản của đối tượng thuộc diện phải kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của Luật PCTN. Nghĩa là, Nhà nước thực hiện quyền kiểm soát, nhằm minh bạch hóa tài sản, thu nhập của đối tượng bằng hình thức kê khai, nhưng thực tế không hiệu quả mấy cho việc ngăn chặn, phát hiện tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng. Nên vấn đề quan trọng là phải xây dựng được cơ chế để kiểm soát được tài sản, thu nhập của toàn xã hội. Khi đó đối tượng tham nhũng nếu chuyển tài sản đi đâu, cho ai thì cơ quan có trách nhiệm đều biết. Thực tế từ các vụ án tham nhũng lớn xảy ra trong thời gian qua, có ý kiến cho rằng, nên mở rộng đối tượng thuộc diện phải kê khai tài sản thì mới góp phần hạn chế và ngăn chặn được tình trạng đối tượng tham nhũng tẩu tán tài sản cho người thân, như: Bố, mẹ, con cái thành niên - những người vốn không nằm trong diện phải kê khai theo quy định tại Điều 44 Luật PCTN và Điều 7 Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập. Theo quan điểm của người viết, tuy thực tế trên là có nhưng suy cho cùng việc mở rộng đối tượng thuộc diện phải kê khai tài sản, kiểm soát thu nhập như trên không phải là giải pháp tối ưu, nên sẽ không mấy hiệu quả. Bởi đối tượng phạm tội tham nhũng biết rất rõ những quy định cấm của pháp luật, nên một khi có ý định tẩu tán tài sản thì đâu nhất thiết cứ phải chuyển cho Bố, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc đã thành niên, mà bằng nhiều cách họ có thể chuyển cho những đối tượng “thân cận” của mình. Hơn nữa, nếu càng mở rộng đối tượng kê khai tài sản lại càng khó khăn cho việc xác minh tài sản khi cần thiết, mà về lâu dài cần phải tính đến việc Nhà nước kiểm soát được thu nhập của toàn xã hội, bằng việc ban hành Luật Đăng ký tài sản, có như vậy mới thật sự có hiệu quả kiểm soát tài sản phát sinh đáng ngờ do tham nhũng.
Thứ năm, ở nước ta thời gian qua tuy các cơ quan chức năng chưa được phát hiện nhưng không phải là không có tình trạng hối lộ phi vật chất (tình dục, thông tin về dự án, quy hoạch,…). Đây là vấn đề cần phải quan tâm. Thực tiễn cuộc sống vốn rất phong phú và đa dạng cho nên hành vi hối lộ, tham nhũng phi vật chất ngày nay rất đa dạng và có khi lợi ích đem lại còn lớn rất nhiều so với hối lộ vật chất. Chẳng hạn, như hối lộ thông tin về dự án, về quy hoạch. Nhờ được hối lộ thông tin mà các đối tượng biết được giá đất trên thị trường sẽ biến động theo chiếu hướng nào; hoặc có trường hợp bỏ ra hàng trăm nghìn, hàng triệu đô la mua vé sang tận Braxin xem các trận đá bóng World cup để tặng cho cán bộ; hối lộ về tình dục, hối lộ cho quan chức đi nước ngoài tham quan, nghỉ mát… Tuy nhiên, vướng mắc hiện nay qua nghiên cứu thấy rằng các tội phạm tham nhũng quy định trong BLHS, mà theo đó, yếu tố vụ lợi được hiểu là những lợi ích về vật chất, chứ không phải bao gồm cả lợi ích về tinh thần. Do vậy, cũng cần tính tháo gỡ vướng mắc này để có cơ chế xử lý phù hợp hơn.
Từ thực tiễn trên, người viết đề xuất mấy kiến nghị sau:
Một là, cần sửa đổi, bổ sung khái niệm tham nhũng được quy định trong Luật PCTN, theo hướng sau: “Tham nhũng là hành vi trái pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ, nhiệm vụ đó để vụ lợi cá nhân, làm thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Bên cạnh đó, trong Luật PCTN cũng phải làm rõ khái niệm về người được giao thực hiện công vụ, nhiệm vụ. Mà theo đó, người được giao công vụ, nhiệm vụ là người: a) Được những người có chức vụ, quyền hạn giao nhiệm vụ; b) Được giao nhiệm vụ quản lý, kiểm soát nguồn vốn, tài sản, điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tập thể. Đồng thời, nghiên cứu và bổ sung quy định về hành vi tham nhũng ở khu vực tư (khu vực ngoài nhà nước) để đấu tranh chống tham nhũng toàn diện, triệt để hơn. Trên thực tế, trong khu vực tư cũng có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của tập thể, cá nhân và các hành vi đó hiện nay khá phổ biến. Không ít người ở khu vực tư đã giàu lên nhanh chóng nhờ có quyền lực về kinh tế, trong khi đó, những người lao động dưới quyền lại khó khăn về kinh tế hoặc rất nghèo khổ, dẫn đến phân cực giàu nghèo sâu sắc và thiếu công bằng xã hội. Mặt khác, trong một số trường hợp, các hành vi diễn ra trong khu vực tư là nguồn gốc, là điều kiện của tham nhũng trong khu vực công. Do đó, việc quy định các hành vi tham nhũng trong khu vực tư sẽ bảo đảm cho nhiệm vụ PCTN được toàn diện hơn.
Hai là, từ phân tích trên cho thấy cần thiết phải định nghĩa lại tài sản tham nhũng, mà theo đó, “Tài sản tham nhũng có nguồn gốc từ tham nhũng”, bỏ cụm từ “từ hành vi”. Mở rộng khái niệm thu hồi TSTN như các nước đang thực hiện là hết sức cần thiết. Có mở rộng khái niệm thì mới có cơ chế để các cơ quan chức năng ngăn chặn việc tẩu tán TSTN ngay từ khi có dấu hiệu tham nhũng. Theo đó cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra có quyền đề nghị các cơ quan chức năng niêm phong, kê biên, phong tỏa tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng ngay từ đầu, chứ không nhất thiết phải đợi đến khi có bản án của Tòa án
Ba là, tham khảo kinh nghiệm của Singapo trong xây dựng Luật Chống tham nhũng. Mà theo đó, thủ tục điều tra hành vi tham nhũng được quy định là một thủ tục đặc biệt. Chủ tịch, Điều tra viên chuyên ngành CPIB có quyền bắt, khám xét, thu giữ tang vật (Điều 15), có quyền điều tra như cơ quan cảnh sát mà không cần có sự phê chuẩn của cơ quan công tố (Điều 17), có thể ra quyết định, tiến hành điều tra đối với các thông tin trong tài khoản ngân hàng, cổ phần (Điều 18). Mức độ điều tra đối với người bị nghi vấn là rất kỹ, bao gồm tài sản của vợ, con; các suất học bổng, quà tặng mà vợ, con người đó được nhận; các công ty do vợ, con người đó tham gia góp vốn. Những người từ chối cung cấp thông tin, tẩu tán tài sản hay cản trở quá trình điều tra sẽ bị phạt đến 10.000 SGD. Người nào được CPIB yêu cầu đều phải cung cấp thông tin trung thực, nếu từ chối cung cấp thông tin hoặc đưa thông tin sai sự thật sẽ bị xử phạt, thậm chí bị phạt tù. Các thông tin mà CPIB hay tòa án cho rằng sẽ gây phương hại đến người tố cáo sẽ được giữ như thông tin mật.
- Nghiên cứu bổ sung quy định pháp nhân là chủ thể tham nhũng. Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định pháp nhân là chủ thể của tham nhũng, nhưng trong thực tế có xảy ra. Để bảo đảm PCTN được toàn diện và triệt để hơn, cần bổ sung một số hành vi tham nhũng của pháp nhân. Tuy nhiên, việc xử lý trách nhiệm đối với pháp nhân có hành vi tham nhũng là bằng biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính, như: phạt tiền, cấm kinh doanh, giải thể pháp nhân… Đối với việc xử lý hình sự chỉ áp dụng đối với cá nhân mà không thể xử lý đối với pháp nhân theo đúng nguyên tắc của Bộ luật Hình sự Việt Nam. Trong trường hợp pháp nhân có hành vi tham nhũng, có thể truy cứu trách nhiệm của những người thuộc pháp nhân đó có những hành vi vi phạm pháp luật thì có thể bị xử lý hình sự nếu có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
-Trong sửa đổi Luật PCTN sắp tới, vấn đề tham nhũng phi vật chất, như vấn đề hối lộ tình dục, hối lộ thông tin dự án,…cần được kịp thời bổ sung vào một cụ thể hơn và cần phải quy định rõ hơn cả trong Luật PCTN và BLHS, đó là yếu tố vụ lợi là lợi ích vật chất và tinh thần, nếu có được sự nhất quán với nhau như thế sẽ tạo ra cơ chế xử lý thuận lợi hơn, chứ không phải như quy định trong BLHS hiện hành cứ “vụ lợi” phải là vật chất, tính ra tiền hết nên việc xử lý là khó khăn.
- Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể các dấu hiệu của tội phạm, hành vi tham nhũng để áp dụng pháp luật chính xác, vì hiện nay có những trường hợp xác định không chính xác tội phạm và hành vi tham nhũng.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về chứng cứ quy định trong BLTTHS để có thể truy cứu trách nhiệm của những người nhận hối lộ bằng các chứng cứ gián tiếp (như trường hợp người có chức, có quyền không trực tiếp nhận tiền, tài sản mà người thân nhận tiền, tài sản; hoặc trường hợp đưa và nhận hối lộ rất tinh vi: người đưa hối lộ tặng một vật kỷ niệm có giá trị nhỏ, sau đó cho một người khác đến mua lại vật kỷ niệm đó với số tiền rất lớn...). Quy định nghĩa vụ giải trình của người bị điều tra, truy tố về tội tham nhũng nhằm giảm khó khăn cho cơ quan tố tụng trong việc chứng minh tội phạm.
- Quy định các biện pháp để kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán tài sản hoặc tạm giữ đối với tài sản nghi ngờ có liên quan đến tham nhũng và nghiên cứu xây dựng Luật Sung công tài sản theo kinh nghiệm của Singapore. Nhìn chung, đối tượng của loại tội phạm tham nhũng thường là tài sản, nếu quy định chặt chẽ, nghiêm minh về việc sung công quỹ tài sản tham nhũng hoặc có nguồn gốc từ tham nhũng không chỉ có tác dụng phòng ngừa (tác động vào ý thức) mà còn tạo cơ sở để xử lý tài sản tham nhũng. Mặt khác nó thể hiện việc xử lý kiên quyết người vi phạm, đồng thời coi trọng các biện pháp nhằm thu hồi tài sản. Cần thấy tham nhũng là một loại tội phạm kinh tế với mục đích vụ lợi nên phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết để thu hồi lại tài sản tham nhũng; quy định về việc xem xét toàn bộ tài sản của những người bị kết luận là có hành vi tham nhũng để tìm ra tài sản bất minh sung công quỹ.
Bốn là, để chống tham nhũng có hiệu quả Nhà nước có cơ chế để kiểm soát tài sản, thu nhập toàn xã hội thông qua các công cụ quản lý, nhất là thuế. Tiến tới mọi khoản chi giá trị lớn, sự hình thành tài sản có giá trị của bất kỳ ai trong xã hội cũng phải được giải thích rõ nguồn gốc. Cần thiết phải xây dựng Luật Đăng ký tài sản, tạo thuận lợi, minh bạch để bất cứ tài sản nào có đăng ký cũng được tham gia thị trường một cách dễ dàng, an toàn. Mặt khác, qua đó Nhà nước kiểm soát được sự biến động, nguồn gốc tài sản, phòng ngừa tẩu tán tài sản, rửa tiền từ hoạt động tội phạm trong đó có tham nhũng, hỗ trợ cho việc thu hồi tài sản tham nhũng.
- Từng bước nội luật hoá các quy định về xử lý tài sản tham nhũng quy định trong Công ước của LHQ về chống tham nhũng, gồm: Bổ sung chế định thu hồi tài sản vào Luật Tương trợ tư pháp hiện hành. Bổ sung vào Bộ luật Tố tụng dân sự hiện hành quy định chấp nhận thi hành phần dân sự trong phán quyết hình sự của Toà án hình sự các nước. Nghiên cứu bổ sung các quy định về hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng trong Luật PCTN hiện hành. Tiếp tục ký kết hoặc bổ sung, sửa đổi các hiệp định tương trợ tư pháp song phương, đa phương có nội dung về thu hồi tài sản tham nhũng, tiến hành xây dựng Luật về Thu hồi tài sản.
- Nghiên cứu áp dụng kỹ thuật điều tra đặc biệt, học tập và áp dụng phương pháp điều tra đặc biệt của các nước để quy định quản lý việc áp dụng điều tra đặc biệt theo quy trình chặt chẽ đối với một số vụ án cần thiết. Cần cụ thể hoá quy định của Điều 29 Luật PCTN về công khai hoạt động của các cơ quan tư pháp: “Việc thụ lý, điều tra, truy tố, kiểm sát, xét xử, thi hành án phải được công khai theo quy định của pháp luật về tố tụng và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Thực tế, việc thực hiện công khai hoạt động của các cơ quan tư pháp còn lúng túng, bị động, cần phải bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục công khai, thời điểm công khai, nội dung công khai, xử lý vi phạm trong quá trình công khai, minh bạch.
Năm là, xây dựng cơ chế thực thi Công ước của LHQ về chống tham nhũng. Nghiên cứu đàm phán, mở rộng ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp song phương, đa phương về lĩnh vực PCTN với các nước thành viên Công ước của LHQ về chống tham nhũng. Đề xuất điều kiện khả năng về hợp tác điều tra: xây dựng quy định, xác định nội dung hợp tác ký kết hiệp định, thoả thuận với các nước để đảm bảo phối hợp hoặc chủ động, độc lập điều tra và thông báo kết quả; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất khả năng, điều kiện đáp ứng của Việt Nam để áp dụng phối hợp điều tra chung. Xây dựng quy định về trao đổi với các nước về thông tin, tài liệu, dữ liệu để phục vụ PCTN; về hợp tác với chuyên gia các nước, chia sẻ kinh nghiệm trong công tác PCTN. Rà soát lại những hiệp định thương mại để sửa đổi, bổ sung những quy định không phù hợp, hạn chế, khắc phục những sơ hở trong việc thực hiện các quan hệ thương mại để tránh sự lợi dụng vụ lợi, tham nhũng; có cơ chế kiểm soát chặt chẽ khi các bên tham gia quan hệ thương mại; quy định rõ trách nhiệm giải trình và cung cấp thông tin, xử lý thông tin về tham nhũng của các bên thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao (đại sứ quán, lãnh sự quán).
Đẩy mạnh việc ký kết, thỏa thuận hợp tác, trao đổi kinh nghiệm PCTN giữa các cơ quan chuyên trách PCTN của Việt Nam với các nước trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực là một nhu cầu tất yếu, khách quan của công cuộc PCTN còn mới mẻ ở nước ta hiện nay.
Th.S Lê Văn Sua