Từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 có hiệu lực cho đến nay, những quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự không những chưa được hướng dẫn chi tiết, mà trên thực tế vẫn chưa được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, mặc dù trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự đã xuất hiện rất nhiều tình huống cần phải áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ.
Mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đều biết mình có trách nhiệm phải bảo vệ những người này khỏi sự đe doạ hoặc xâm hại từ phía người phạm tội hoặc thân nhân của họ, nhưng do chưa có những quy định cụ thể về trách nhiệm, thủ tục, biện pháp và cơ sở vật chất, nhân lực phục vụ cho công tác này, nên còn lúng túng trong việc quyết định và triển khai các biện pháp bảo vệ. Vì vậy, trong quá trình điều tra, nếu cơ quan điều tra tự xét thấy người tố giác, người làm chứng, người bị hại thực tế bị đe dọa thì tùy theo khả năng của mình mà áp dụng một số biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn như tiến hành tổ chức bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại; truy tìm kẻ đe dọa
Một số ít trường hợp xét thấy nguy cơ thực tế xâm hại có thể xảy ra đối với nhân chứng, thì Toà án không cho mời nhân chứng tham gia phiên toà, và khi công bố lời khai, Toà án không nêu tên, họ của nhân chứng mà chỉ nêu nội dung lời khai, các tình tiết của vụ án, ngày giờ cơ quan điều tra lấy lời khai, số bút lục trong hồ sơ nhằm bảo vệ nhân chứng khỏi sự trả thù của người phạm tội hoặc thân nhân của họ.
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, những thông tin do người tố giác, người làm chứng, người bị hại cung cấp có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần giúp các cơ quan chức năng phát hiện tội phạm và giải quyết đúng đắn, triệt để vụ án hình sự. Với nghĩa vụ công dân, những người làm chứng, người bị hại đã tích cực phối hợp với cơ quan tố tụng làm rõ tội phạm và người phạm tội, áp dụng các hình thức xử lý đúng quy định. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, trong nhiều vụ án hình sự, người tố giác, người làm chứng, người bị hại tỏ ra e ngại, bất hợp tác hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan có thẩm quyền trong các khâu phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Căn nguyên của tình trạng trên không chỉ do chủ quan của người tố giác, người làm chứng, người bị hại, mà trước hết là do những thiếu sót, bất cập của chế định pháp lý hiện hành về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, “Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan, tổ chức khác” (Điều 101 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS 2003); “Người nào biết được những tình tiết liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng” (khoản 1, Điều 55, BLTTHS năm 2003); “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra” (Điều 51 BLTTHS năm 2003)... Từ các quy định của pháp luật, có thể hiểu: Người tố giác tội phạm là người biết được một tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện và trình báo với cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền về những gì mình biết. Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến vụ án và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập với tư cách là người làm chứng để khai báo về những tình tiết đó. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra. Đây là những người liên quan đến vụ án hình sự mà Nhà nước cần phải áp dụng các biện pháp bảo vệ họ, xuất phát từ các lý do sau:
- Những người này trước hết là công dân, do đó họ có quyền bất khả xâm pham về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Đây là những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp và được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật khác. Mỗi công dân trong xã hội đương nhiên có quyền được Nhà nước bảo vệ trước các nguy cơ xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Người tố giác, người làm chứng, người bị hại là những công dân có vai trò đặc biệt: họ là người cộng tác, phối hợp với cơ quan nhà nước trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm. Họ cung cấp lời khai hoặc các thông tin khác góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Vì vậy, họ có nguy cơ bị người phạm tội đe doạ, xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản với ý đồ nhằm ngăn cản, trả thù do sự cộng tác, phối hợp đó.
- Để thu thập được đầy đủ, chính xác các thông tin từ người tố giác, người làm chứng, người bị hại đủ làm chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo an toàn, tạo điều kiện cho họ tham gia các hoạt động tố tụng.
- Một cơ sở pháp lý cụ thể, vững chắc và việc thực thi nghiêm chỉnh các quy định đó trong thực tế sẽ thúc đẩy tính tích cực của cộng đồng, ngăn chặn ý đồ gây khó khăn, cản trở, trả thù từ phía người phạm tội... Điều này cũng thể hiện rõ sức mạnh và trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân nói chung.
Ở nước ta, những nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân đã từng bước được pháp luật ghi nhận và hoàn thiện. Lần đầu tiên trong pháp luật tố tụng hình sự, BLTTHS năm 2003 đã bổ sung một nội dung mới, quan trọng, mang tính nguyên tắc là: “Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe doạ đến tính mạng, sức khoẻ, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật” (Điều 7). Người làm chứng còn có quyền “yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng” (Điều 55).
Tiếp đến, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 quy định: “Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Cơ quan điều tra phải xem xét, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan, tổ chức đã báo tin, kiến nghị, người đã tố giác tội phạm biết và phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm” (khoản 3, Điều 7).
Trong lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia, Luật An ninh quốc gia quy định: các cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia có trách nhiệm “áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người cộng tác, người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia” (điểm h khoản 1 Điều 24). Nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện một số quy định của Luật An ninh quốc gia, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 151/2005/NĐ-CP ngày 14/12/2005 về quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và cán bộ chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia, trong đó quy định tương đối chi tiết, cụ thể về công tác bảo vệ người cộng tác, người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và các vụ án khác do cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia thụ lý.
Ngoài ra, trong Luật Công an nhân dân năm 2014, khi quy định về chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân cũng đã khẳng định: “Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội” (khoản 2, Điều 13).
Như vậy, tuy các quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nhưng tựu trung lại là đều xác định quyền được bảo vệ của họ và nêu rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan. Song, điều đáng lưu ý là trừ lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và lĩnh vực phòng, chống ma túy, còn lại hầu hết các quy định chỉ mới dừng lại ở nguyên tắc, thiếu hướng dẫn cụ thể, nhất là về các biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền, lực lượng tiến hành bảo vệ, kinh phí để bảo vệ; đồng thời, cũng như chưa có quy định trong những trường hợp cụ thể nào thì người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ được bảo vệ, trường hợp bản thân họ từ chối bảo vệ hoặc vi phạm thoả thuận được bảo vệ thì xử lý ra sao.
Mặc dù chưa có cơ quan, đơn vị nào có báo cáo hoặc thống kê chính thức về tình hình đe doạ, xâm hại đối với người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự, nhưng qua nghiên cứu một số vụ án xảy ra, có thể xác nhận những tác động của người phạm tội hoặc thân nhân của họ như mua chuộc, đe doạ, gây thiệt hại là có thật và là nguyên nhân dẫn đến một số vụ án hình sự không được làm rõ hoặc không được xử lý triệt để và dẫn đến các kết quả tiêu cực khác. Trong một số vụ án, với thủ đoạn che giấu tội phạm bằng cách mua chuộc, đe dọa và thực hiện các hành vi bạo lực, kẻ phạm tội đã khiến công dân hoang mang, lo sợ, không dám tố giác, dẫn đến những vụ án này không được xử lý triệt để, các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự sa vào tình trạng ra các quyết định không chính xác so với thực tế của vụ án. Thủ đoạn mua chuộc, đe đoạ, khống chế, trả thù người tố giác, người làm chứng, người bị hại phổ biến như sau:
- Mua chuộc người tố giác, người làm chứng, người bị hại được hiểu là việc người phạm tội hoặc thân nhân của họ sử dụng lợi ích vật chất hay những lợi ích khác để tác động tới người sẵn sàng tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại để họ không hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án. Đây là thủ đoạn được sử dụng phổ biến nhất và trong nhiều trường hợp có tác dụng, làm cho người tố giác, người làm chứng, người bị hại từ tích cực trở thành tiêu cực, từ bỏ việc tố giác, từ chối khai báo hoặc khai báo không khách quan, khai báo theo hướng có lợi cho kẻ mua chuộc, dẫn đến việc cơ quan tiến hành tố tụng không đủ căn cứ để xử lý đối tượng gây án hoặc xử lý không chính xác, xử lý theo hướng giảm nhẹ.
- Khống chế, đe doạ người tố giác, người làm chứng, người bị hại được hiểu là việc người phạm tội hoặc thân nhân của họ lợi dụng những yếu điểm về thể chất, quan hệ huyết thống, bí mật về đời tư... của người tố giác, người làm chứng, người bị hại để tác động, làm cho họ lo sợ bị tiết lộ, hoặc sẽ bị xâm hại nếu cung cấp thông tin về tội phạm cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Trả thù người tố giác, người làm chứng, người bị hại được hiểu là trường hợp người phạm tội hoặc thân nhân của họ trực tiếp hoặc thông qua người thứ ba cố ý gây ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản cho người tố giác, người làm chứng, người bị hại hoặc người thân thích của họ do việc họ đã hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội của đối tượng. Trả thù không những gây thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản cho người tố giác, người làm chứng, người bị hại mà còn gây lo lắng, sợ hãi trong công chúng, làm cho họ không dám tố giác, làm chứng trong các vụ án sau đó, cũng như gây ra sự thiếu tin tưởng vào khả năng bảo vệ công dân của các cơ quan nhà nước
Từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến nay, những quy định về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự không những chưa được hướng dẫn chi tiết, mà trên thực tế vẫn chưa được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, mặc dù trong thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự đã xuất hiện rất nhiều tình huống cần phải áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của họ.
Một số ít trường hợp xét thấy nguy cơ thực tế xâm hại có thể xảy ra đối với nhân chứng, thì Toà án không cho mời nhân chứng tham gia phiên toà, và khi công bố lời khai, Toà án không nêu tên, họ của nhân chứng mà chỉ nêu nội dung lời khai, các tình tiết của vụ án, ngày giờ cơ quan điều tra lấy lời khai, số bút lục trong hồ sơ… nhằm bảo vệ nhân chứng khỏi sự trả thù của người phạm tội hoặc thân nhân của họ.
Về phía người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như thân thích của họ, đa số hiểu biết pháp luật còn hạn chế, không biết mình có quyền được yêu cầu bảo vệ và cũng do không thật tin tưởng cơ quan tố tụng có khả năng bảo vệ được mình, gia đình mình, nên thường thoái thác nghĩa vụ pháp lý, thoái thác hợp tác, hoặc tìm cách tự bảo vệ mình...
Nguyên nhân sâu xa của thực trạng trên một phần là do phản ứng đe doạ, trả thù của người phạm tội ở nước ta, nhất là người phạm tội có tổ chức chưa đến mức cực đoan, nghiêm trọng như nhiều nước khác; mặt khác, theo chúng tôi thì quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự còn quá chung, chỉ mang tính nguyên tắc, chưa ràng buộc trách nhiệm cụ thể của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ những người này nên việc triển khai thực hiện của các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan phối hợp còn lúng túng, không có sự thống nhất. Người tố giác, người làm chứng, người bị hại vừa chưa hiểu rõ quyền được bảo vệ của mình, vừa còn thiếu tin tưởng vào các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên đã lo sợ, không dám hợp tác, hoặc hợp tác không tích cực với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý các vụ án hình sự.
Bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại trong vụ án hình sự cần được thực hiện thông qua một cơ chế hoạt động cụ thể của các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giúp cho người tố giác, người làm chứng, người bị hại không bị mua chuộc, khống chế, bị đe doạ, trả thù, để họ có thái độ hợp tác tích cực, khai báo khách quan, trung thực và chính xác với các cơ quan tiến hành tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các hoạt động đó phải dựa trên cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc và khả thi.
Việc sớm xây dựng một chế định pháp lý hoàn chỉnh về bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại đảm bảo cơ sở pháp lý “cần và đủ” cho việc thực hiện công tác này trên thực tế là yêu cầu khách quan. Chế định pháp lý này được xây dựng dưới hình thức một đạo luật là hợp lý nhất, bởi vì, Luật là văn bản có giá trị pháp lý cao, công khai, minh bạch, phạm vi điều chỉnh rộng, bắt buộc thi hành đối với mọi tổ chức và công dân. Hơn nữa, theo quy định hiện hành thì những gì liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đều phải được thể hiện bằng luật. Và việc bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại… lại là vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đồng thời, các cơ quan có trách nhiệm phải bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác cũng như những người thân thích của họ hiện không thuộc một đầu mối quản lý, điều hành thống nhất. Trong khi, công tác bảo vệ này là công việc hết sức khó khăn và phức tạp, diện đối tượng được bảo vệ rộng, kinh phí lớn, đòi hỏi sự tham gia, phối hợp của nhiều cơ quan có thẩm quyền, địa phương có liên quan và sự quan tâm công tác của toàn xã hội. Do đó, chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền quyết định những vấn đề này. Bên cạnh đó, hoạt động bảo vệ người tố giác, người làm chứng, người bị hại rất đa dạng, các quan hệ pháp luật về lĩnh vực này chi phối lẫn nhau, nên cần tập hợp lại trong một chỉnh thể thống nhất, dễ theo dõi và thực hiện./.
Minh Nhất