Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, sự thể chế hóa cho phù hợp với Hiến pháp

23/09/2015
 

Suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản được ứng dụng rộng rãi trong nền khoa học pháp lý hiện đại. Ngày nay, nguyên tắc suy đoán vô tội được nhiều Nhà nước coi là nguyên tắc của tố tụng hình sự, được đánh giá là thành tựu vĩ đại của văn minh pháp lý trong việc bảo vệ quyền con người. Nguyên tắc này đã được công nhận trong tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc, đó là: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”. Pháp luật tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận nguyên tắc trên và coi nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự của quốc gia mình.

Nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt Nam cam kết thực hiện thông qua sự kiện Việt Nam ra nhập công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị  ngày 24/9/1982. Chính vì tầm quan trọng như vậy nên trong những năm qua, nguyên tắc suy đoán vô tội luôn nhận được sự quan tâm, không chỉ được đề cập rất nhiều trong các hội nghị, hội thảo khoa học mà còn trở thành một yêu cầu bức thiết trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn.

1. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội

Thứ nhất, không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) quy định. Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin báo về tội phạm và thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại phiên tòa. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Trong trường hợp, bản án kết tội không bị kháng cáo, kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội đồng xét xử tuyên án.

Một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Cần lưu ý thuật ngữ “bị coi là có tội” khác với thuật ngữ “người phạm tội”. Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ “người phạm tội” dùng để chỉ người đã thực hiện hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm, hành vi của người đó đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ “người phạm tội” chỉ một thực tế khách quan là một người đã thực hiện tội phạm chứ không phải tùy thuộc vào nhận định chủ quan của các cơ quan áp dụng pháp luật. Các cơ quan áp dụng pháp luật có thể nhận định đúng thực tế khách quan, tức là nhận thức đúng người phạm tội, tiến hành khởi tố, truy tố và kết án người phạm tội, nhưng cũng có thể nhận định không đúng thực tế khách quan đó, dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội, tuyên bố một người phạm tội là người vô tội…

Với cách hiểu thuật ngữ “người phạm tội” như vậy chúng ta mới có thể lý giải tinh thần các quy phạm khác có liên quan. Ví dụ, việc miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25 BLHS) chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội khi có những điều kiện nhất định. Khi quyết định miễn trách nhiệm hình sự đối với một người cụ thể, các cơ quan có thẩm quyền đã phải chứng minh được người được miễn trách nhiệm hình sự là người phạm tội. Người phạm tội có thể không bị kết án bằng bản án kết tội của Tòa án nếu thời điểm phát hiện ra tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc họ được miễn trách nhiệm hình sự. Trong những trường hợp đó, người phạm tội không bị coi là có tội. Trong trường hợp, người phạm tội bị Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án đó có hiệu lực pháp luật thì người phạm tội là người “bị coi là có tội”. Thuật ngữ “người phạm tội” và “người bị coi là có tội” là hai thuật ngữ khác nhau. Người phạm tội là người thực hiện một hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm, còn người bị coi là có tội là người bị Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, người phạm tội có thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, không bị coi là có tội, còn người bị coi là có tội tức là người phạm tội đã phải chịu một hậu quả pháp lý trước Nhà nước về việc thực hiện hành vi phạm tội của mình chịu sự lên án của Nhà nước mà Tòa án là người đại diện, thông qua việc áp dụng Luật hình sự, kết tội người phạm tội.

Thứ hai, người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.

Tại Điều 10 của Bộ luật TTHS quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.

Theo chúng tôi, thực chất quy định trên không thuộc nội dung nguyên tắc xác định sự thật của vụ án mà thuộc về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Bởi vì, cùng với việc khẳng định không thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị Luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi được Luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình. Qúa trình đó diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về cả Tòa án.

Hiện nay, có ý kiến cho rằng, trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuôc về Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, còn Tòa án với chức năng xét xử thì không có trách nhiệm chứng minh. Chúng tôi cho rằng quan điểm này không phù hợp. Đúng là Tòa án có chức năng xét xử, nhưng khác với các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng, trong đó bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng về những vấn đề liên quan để chứng minh hay bác bỏ tội phạm của phía bên kia, trong đó, Tòa án không tham gia vào bên buộc tội hay bên gỡ tội mà đứng giữa những người trọng tài phân xử. Ở Việt Nam, mô hình tố tụng là mô hình thẩm vấn. Tại phiên tòa, Tòa án tham gia vào việc thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do pháp luật quy định để chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội; nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự. Trên cơ sở đó, Tòa án mới ra phán quyết, kết tội, quyết định hình phạt đối với họ. Như vậy, theo pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Tòa án cũng có trách nhiệm chứng minh tội phạm.

Người bị tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Điều này có nghĩa, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ để chứng minh mình không phạm tội. Ví dụ, chứng minh mình vô tội bằng việc đưa ra chứng cứ về thời gian xảy ra vụ việc mình không có ở đó và không thể thực hiện hành vi phạm tội hoặc đưa ra chứng cứ, chứng minh có người khác,chứ không phải mình đã thực hiện tội phạm…

Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể nhưng đã mặc nhiên thừa nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật hình sự, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 308 của BLHS và cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 của BLHS. Trong trường hợp bị can, bị cáo thành khẩn khai báo thì lại bị coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thậm chí trong giai đoạn điều tra họ không khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại phiên tòa lại thành khẩn khai báo thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp bị cáo khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian dối theo quy định tại tại Điều 307 của BLHS.

Thứ ba, mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo.

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một người là phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn…

Mục đích của Luật tố tụng hình sự là tội phạm là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế có thể xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định. Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội phải thực hiện theo hướng “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”.

2. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội.

Thư nhất, nguyên tắc suy đoán vô tội đáp ứng yêu cầu chứng minh

Chứng minh trong tố tụng hình sự là hoạt động cực kỳ phức tạp, không chỉ là những hành vi khách quan, những hậu quả thực tế mà còn cả những yếu tố tâm lý của người phạm tội. Mọi sai lầm trong chứng minh nhiều khi có thể phải trả giá bằng sinh mệnh của con người. Do đó, nếu chỉ chứng minh theo hướng suy đoán có tội thì rất dễ dẫn đến việc coi tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là việc bắt người và ra bản án kết tội kèm theo những hình phạt cụ thể. Việc định kiến người bị tình nghi, bị can, bị cáo là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người mà nhiều trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội. Lúc đó, có bồi thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói là đã bù đắp được toàn bộ.

Thứ hai, nguyên tắc suy đoán vô tội còn bảo vệ được quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo.

Hoạt động tố tụng hình sự bao gồm hai nhiệm vụ: Bảo vệ xã hội chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm và bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền. Suy đoán vô tội còn đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là Nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố, xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực Nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền của người bị buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự: Một người luôn vô tội khi Nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội.

Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên tắc này bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: Họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan để kết tội nghi can. Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ luật TTHS, là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực tố tụng hình sự.

3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013

Như đã nói ở trên, nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc bảo đảm quyền con người, hiểu một cách đơn giản nhất, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội là một người sẽ không bị coi là có tội nếu không bị kết án bởi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tại Điểu 11 của Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc và Điều 14 của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều có quy định: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”.

Ở nước ta. Nguyên tắc suy đoán vô tội mặc dù chưa được công nhận một cách chính thức, nhưng tư tưởng của nguyên tắc này đã được đề cập trong một số văn bản quy phạm pháp luật như:

Thông tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953 đã hướng dẫn: “Không nên có định kiến rằng, hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối xử như người có tội, bị can, bị cáo trước khi tuyên án được coi nhu vô tội để Tòa án có thái độ hoàn toàn khách quan”; Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra hướng dẫn có tính nguyên tắc trong hoạt động xét xử của Tòa án như sau: “Việc xét hỏi tại phiên tòa nhằm trực tiếp và công khai thẩm tra lại các chứng cứ của vụ án. Do đó, hội đồng xét xử phải xét hỏi một cách đầy đủ, khách quan, cần tránh tư tưởng quá tin vào hồ sơ mà coi nhẹ tác dụng việc xét hỏi tại phiên tòa, hoặc cho rằng xét hỏi chỉ nhằm buộc tội bị can phải nhận những lời mà họ đã khai ở cơ quan điều tra”.

Trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội quy định tại Điều 72 Chương V của Hiến pháp với tên gọi của chương là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”. Điều này có nghĩa tại thời điểm đó chúng ta đã đồng nhất khái niệm quyền con người nằm trong quyền công dân do Nhà nước quy định. Chúng ta chưa thừa nhận quyền con người với những quyền cơ bản như quyền được sống, được ăn, ở mặc, quyền được coi là không có tội khi chưa bị Tòa án xét xử tuyên bằng một bản án kết tội…, là những quyền cơ bản của con người phải được tôn trọng, bảo vệ mà không phụ thuộc vào bất cứ quy định của một thể chế chính trị hay một nhà nước nào.

Quy định trên đã được thể chế hóa tại Điều 9, Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003. Điều 9 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” và Điều 10: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”.

Có thể thấy, Điều 9, Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 cũng không quy định tên gọi “nguyên tắc suy đoán vô tội” và tách thành hai điều luật. Nếu như phân tích kỹ và có sự so sánh chúng ta thấy dường như có một sự đối lập giữa quy định của Điều 9 và Điều 10 của Bộ luật TTHS năm 2003. Trong khi Điều 9 thể hiện tương đối gần với nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, tức là nguyên tắc trọng chứng cứ, thì Điều 10 lại thể hiện với tên gọi của nó là “xác định sự thật khách quan của vụ án”, tức là có thể chứng cứ yếu nhưng nếu đúng là sự thật khách quan thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bổ sung chứng cứ đến cùng để kết tội. Có thể đây cũng là lý do mà các nội dung trên không được quy định trong cùng một điều luật và nó cũng thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta có sự đặc thù khác biệt so với “tố tụng tranh tụng” của các nước khác, chúng ta tôn trọng sự thật khách quan hơn là công nhận những chứng cứ có thể làm cho sự thật khách quan không thể chứng minh được.

Hiến pháp năm 2013 đã làm rõ nguyên tắc suy đoán vô tội: thời gian gần đây, một điểm được dư luận xã hội rất quan tâm là việc liên quan đến một số vụ án oan sai, như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang. Với việc ban hành các văn bản luật tới đây, tình trạng trên sẽ được khắc phục như thế nào? Đây là một trong những điểm rất quan trọng vừa được sửa đổi, bổ sung và quy định rất cụ thể trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp lần này đã làm rõ hơn nguyên tắc suy đoán vô tội. Nghĩa là bây giờ có thêm một điều kiện rất quan trọng nghĩa là việc buộc tội phải được chứng minh thì mới có bản án.

Hiến pháp năm 2013 đã công nhận quyền con người là một quyền độc lập tách khỏi quyền công dân. Những quy định của Chương V Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và được quy định tại Chương II Hiến pháp năm 2013 với tên gọi của Chương là: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như sau:

“1. Người bị buộc tội bị coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.

3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.

4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.

5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.

So với quy định của Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã quy định các nội dung mới tại các khoản 2, 3, 4. Tại khoản 5 cũng bổ sung thêm việc người bị khởi tố, điều tra, thi hành án trái pháp luật cũng có quyền được bồi thường; nội dung bồi thường được mở rộng thêm yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trên cơ sở những quy định mới tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 như trên, nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội đã được thừa nhận rõ ràng và cụ thể hơn trong hiến pháp năm 1992.

Nếu như khoản 1 Điều 72 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, chỉ cần một điều kiện là có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì một người bị coi là có tội và chịu hình phạt. Nhưng Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh và chỉ rõ, một người bị kết tội phải có hai điều kiện: Một là, phải tuân theo một trình tự luật định và hai là, có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Quyền được đưa ra xét xử của một người bị nghi là thực hiện tội phạm cũng đồng nghĩa với trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh điều tra hành vi phạm tội của người đó theo trình tự luật định và phải nhanh chóng đưa ra Tòa án xét xử đúng thời hạn, việc tuyên án phải được công khai kể cả trong những trường hợp xét xử kín. Việc ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội nhằm khắc phục sự định kiến của các cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đối với người bị tình nghi, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đồng thời còn tạo điều kiện để những người này thực hiện quyền bào chữa của mình.

Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Đây không chỉ đơn thuần là việc đổi mới về kỹ thuật lập pháp đã tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, thể hiện việc Đảng và Nhà nước ta tôn trọng và thực hiện Công ước quốc tế mà còn thể hiện sự quan tâm, nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc đảm bảo quyền con người.

Nguyên tắc suy đoán vô tội có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc đảm bảo quyền được bào chữa. Bởi vì, nếu đã bị coi là có tội ngay từ khi chưa xét xử thì việc thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội chỉ còn là hình thức. Người bào chữa là người được đào tạo chuyên nghiệp về nghiệp vụ bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo. Sự có mặt của người bào chữa nhằm đưa ra các luật cứ chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc đưa ra các lập luận đồng ý hay không đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát buộc tội. Đảm bảo quyền bào chữa là cơ sở quan trọng để bảo vệ quyền con người. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định rõ quyền tự bào chữa hoặc nhờ Luật sư, người khác bào chữa của những người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử.

Ngoài ra, Điều 31 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung chính xác các giai đoạn tố tụng và thuật ngữ thống nhất trong Bộ luật TTHS về người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam về việc tôn trọng quyền con người của những người này. Khi họ bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật thì có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Còn người nào làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật.

3. Thể chế hóa những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự cho phù hợp với tinh thần Hiến pháp năm 2013.

Bộ luật TTHS năm 2003 đã có những quy định rất tiến bộ khi đảm bảo cho quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị tạm giam, tạm giữ cũng như nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo các quyền lợi ấy. Thế nhưng, xét về tổng thể, nguyên tắc suy đoán vô tội nhìn chung vẫn chưa được đảm bảo một cách toàn diện trong những quy định pháp luật cũng như thực tiễn ứng dụng. Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và phù hợp với luật pháp quốc tế. Việc thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 thì việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS là việc làm cần thiết. Tuy còn có những quan điểm khác nhau, nhưng chúng tôi đồng tình với đa số ý kiến cho rằng: Cần bổ sung nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật TTHS nhằm thực hiện mục đích của tố tụng hình sự là xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, bảo vệ quyền con người trong các hoạt động tố tụng hình sự.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng không nên quy định gộp Điều 9 và Điều 10 Bộ luật TTHS năm 2003 vào một điều luật và lấy tên là “nguyên tắc suy đoán vô tội” như một số đề xuất. Bởi vì pháp luật của Nhà nước ta là pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của số đông người dân. Luật tố tụng hình sự của nước ta thiên về tố tụng thẩm vấn và hướng đến tăng cường hoạt động tranh tụng, chứ không nhằm chuyển hẳn sang tố tụng tranh tụng. Tố tụng tranh tụng là hình thức tố tụng trọng chứng cứ hơn sự thật khách quan. Pháp luật của Nhà nước ta, bên cạnh việc công nhận quyền được im lặng, quyền bào chữa, quyền được chối tội mà không bị tăng nặng hình phạt, quyền được coi là không có tội khi các cơ quan tiến hành tố tụng không tìm đủ chứng cứ kết tội, quyền được áp dụng nguyên tắc có lợi…, thì chúng ta còn có quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bằng mọi cách phải chứng minh được sự thật khách quan của vụ án.

Vì vậy, chúng ta nên sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2003 theo hướng vẫn quy định hai nội dung trên ở hai điều luật khác nhau sẽ đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội hướng đến chân lý và sự thật khách quan hơn là nguyên tắc suy đoán vô tội đơn thuần trọng chứng cứ. Đồng thời, nên bổ sung một số quy đinh tại Điều 9 Bộ luật TTHS năm 2003 cho phù hợp với quy định tại Điều 31 Hiến pháp năm 2013 theo hướng sau:

“Điều 9: Suy đoán vô tội

Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội cho đến khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điểu tra, Viện kiểm sát, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình.

Mọi nghi ngờ về lỗi của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật nảy quy định thì phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ.

Bản án kết tội của Tòa án dựa trên những căn cứ giả định”.

Đoàn Thị Ngọc Hải

 

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Xem: Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001;

2. Xem: Hiến pháp năm 2013;

3. Xem: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;

4. Xem: Bài viết “nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013” của tác giả Minh Thảo;

5. Xem: Bài viết “Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Th.s Đinh Thế Hưng.