Phương thức và biện pháp bảo vệ quyền đối với tên thương mại theo pháp luật Việt Nam

14/11/2013
Bảo vệ quyền đối với tên thương mại là một trong những nội dung quan trọng của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại. Việc bảo vệ tên thương mại cũng giống như bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ khác là bảo vệ quyền tài sản của các chủ thể và được hiểu dưới hai phương diện sau đây:

Thứ nhất, theo phương diện khách quan: Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là tổng hợp các quy định của pháp luật công nhận chủ sở hữu tên thương mại được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và các biện pháp xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được pháp luật thừa nhận.

Thứ hai, theo phương diện chủ quan: Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là những biện pháp cụ thể được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu tên thương mại tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại gồm việc xác định hành vi, tính chất và mức độ xâm phạm quyền đối với tên thương mại, xác định thiệt hại, yêu cầu và giải quyết yêu cầu xử lý xâm phạm, xử lý xâm phạm bằng biện pháp hành chính, kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ, giám định sở hữu trí tuệ.

1. Xác định hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại

1.1. Căn cứ xác định đối tượng được bảo hộ

Đối với tên thương mại, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở quá trình sử dụng, lĩnh vực và lãnh thổ sử dụng tên thương mại đó.

1.2. Yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại

Yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại được thể hiện dưới dạng chỉ dẫn thương mại gắn trên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ.

Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại là phạm vi bảo hộ tên thương mại được xác định trên cơ sở các chứng cứ thể hiện việc sử dụng tên thương mại đó một cách hợp pháp, trong đó xác định cụ thể về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh và sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại.

1.3. Để xác định một dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với tên thương mại hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó với tên thương mại được bảo hộ và phải so sánh sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu đó với sản phẩm, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ, dựa trên các căn cứ sau đây:

a. Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ; trong đó một dấu hiệu bị coi là trùng với tên thương mại được bảo hộ nếu giống với tên thương mại về cấu tạo từ ngữ, kể cả cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái; một dấu hiệu bị coi là tương tự với tên thương mại được bảo hộ nếu tương tự về cấu tạo, cách phát âm, phiên âm đối với chữ cái, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại được bảo hộ;

b. Sản phẩm, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ bị coi là trùng hoặc tương tự với sản phẩm, dịch vụ mang tên thương mại được bảo hộ nếu giống nhau hoặc tương tự nhau về bản chất, chức năng, công dụng và kênh tiêu thụ.

 1.4. Xác đinh thiệt hại

Thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại.

Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải chịu do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.

2. Các phương thức bảo vệ quyền đối với tên thương mại

Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền áp dụng các biện pháp sau đây để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình:

Một là, áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;

Hai là, yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại;

Ba là, yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật.

Bốn là, khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc phát hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật.

Khi gửi đơn yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm thì người có quyền bị xâm phạm phải có tài liệu, chứng cứ, hiện vật kèm theo để chứng minh chủ thể quyền, chứng minh có hành vi xâm phạm xảy ra, chứng cứ về thiệt hại do sản phẩm xâm phạm gây ra cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội, chứng cứ và hiện vật về hàng hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ hoặc sản phẩm, bộ phận sản phẩm, đề can, nhãn, mác, bao bì hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu. Chứng cứ chứng minh chủ thể quyền đối với tên thương mại là bản mô tả nội dung, hình thức sử dụng và quá trình sử dụng tên thương mại.

Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp dân sự theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.

Một trong những quyền hết sức quan trọng của chủ sở hữu các đối tượng sở hữu công nghiệp nói chung và tên thương mại nói riêng là quyền chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến việc sử dụng các đối tượng đó. Chủ sở hữu tên thương mại được pháp luật bảo hộ quyền lợi của mình nếu họ chứng minh được đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra trên thực tế. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên thương mại là các dạng hành vi cụ thể như: Một là, sử dụng chỉ dẫn thương mại (tên thương mại) gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh. Hành vi này nhằm mục đích lợi dụng ảnh hưởng uy tín của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác để trục lợi. Bên cạnh đó, chúng tất yếu sẽ gây thiệt hại hay làm lu mờ uy tín, danh tiếng của các cơ sở sản xuất kinh doanh và cuối cung người phải gánh chịu mọi thiệt hại trực tiếp chính là các khách hàng và người tiêu dùng do bị nhầm lẫn khi lựa chọn hàng hoá, dịch vụ cho mình thông qua các dấu hiệu, thông tin sai lệch đó. Hai là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên miền: Dạng hành vi là đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền; Loại tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại đang được bảo hộ của người khác; Mục đích của việc sử dụng này là nhằm chiếm giữ tên miền, lợi dụng uy tín, danh tiếng của tên thương mại tương ứng. Như vậy, cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến lĩnh vực sở hữu công nghiệp được pháp luật điều chỉnh chủ yếu nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu tên thương mại và những đối tượng chỉ dẫn thương mại khác như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý. Đây được coi là những yếu tố không thể thiếu đối với mọi hàng hoá, dịch vụ khi lưu thông trên thị trường. Cạnh tranh là một đặc điểm tất yếu của nền kinh tế thị trường, nhưng những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là hành vi liên quan đến các đối tượng sở hữu công nghiệp cần được phát hiện và xử lý nghiêm minh. Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh này được pháp luật trao cho các chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp để chính họ có ý thức bảo vệ tuyệt đối các quyền cơ bản của mình.

3. Biện pháp bảo vệ quyền đối với tên thương mại

Biện pháp bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại là những cách thức được chủ thể có quyền đối với tên thương mại hoặc Nhà nước sử dụng để bảo vệ  quyền đối với tên thương mại khi quyền này bị xâm phạm.

Pháp luật nước ta thừa nhận nhiều biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Để bảo vệ tên thương mại, cũng áp dụng những biện pháp đó. Vì quyền đối với tên thương mại là một trong những đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ. Nếu dựa vào chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ, có thể chia các biện pháp bảo vệ quyền đối với tên thương mại thành hai loại: Chủ thể sở hữu tên thương mại tự bảo vệ quyền đối với tên thương mại của mình (biện pháp tự bảo vệ) và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền đối với  tên thương mại (biện pháp bảo vệ tên thương mại bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Các cơ quan nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền này: Biện pháp hành chính; biện pháp dân sự; biện pháp hình sự; biện pháp kiểm soát biên giới về sở hữu công nghiệp (trong đó có tên thương mại) về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Các biện pháp này được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ và nhiều văn bản có liên quan: Văn bản pháp luật dân sự, văn bản pháp luật hành chính, văn bản pháp luật hình sự, văn bản pháp luật thương mại. Khi có hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại, việc xác định biện pháp nào sẽ được áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu dựa vào ba yếu tố: Một là, sự lựa chọn của người bị xâm hại (kể cả trường hợp người tiêu dùng bị thiệt hại báo cho cơ quan chức năng); hai là, phụ thuộc vào sự lựa chọn của cơ quan chức năng (ví dụ: Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có liên quan); ba là, dựa vào tính chất, mức độ bị xâm phạm.

Các biện pháp cụ thể được áp dụng để bảo vệ quyền đối với tên thương mại là: 

3.1. Biện pháp tự bảo vệ

Biện pháp tự bảo vệ xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của pháp luật Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 9 Bộ luật Dân sự năm 2005 và được cụ thể hóa tại Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.

Tự bảo vệ tên thương mại là việc người có quyền đối với tên thương mại tự mình tiến hành các biện pháp trong khuôn khổ của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Biện pháp tự bảo vệ cho phép chủ thể bị xâm phạm quyền được áp dụng những biện pháp nhất định để bảo vệ quyền của mình. Các biện pháp mà chủ thể bị xâm phạm quyền đối với tên thương mại có thể lựa chọn để áp dụng là: Ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại. Người có quyền đối với tên thương mại bị xâm phạm có thể sử dụng các biện pháp này bằng cách trực tiếp gặp chủ thể có hành vi vi phạm hoặc sử dụng các phương thức khác như: Gọi điện thoại, gửi thư qua bưu điện, gửi thư điện tử, gửi fax hoặc tiến hành những hành vi cụ thể để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Người bị xâm phạm quyền sở hữu có thể lựa chọn áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khác nhau để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Tuy nhiên, việc chủ thể áp dụng những biện pháp để tự bảo vệ quyền đó không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.

Biện pháp tự bảo vệ được áp dụng phổ biến trong đời sống. Trên thực tế, khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, biện pháp bảo vệ đầu tiên được áp dụng là tự bảo vệ. Trước hết, biện pháp này tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ thể. Hơn nữa, mặc dù không có sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trong chừng mực nhất định, biện pháp này cũng giúp nhanh chóng ngăn chặn, chấm dứt hành vi xâm phạm.  

Về tính kinh tế: Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp có tính kinh tế cao nhất do tiết kiệm được thời gian, chi phí tốn kém cho việc giải quyết tranh chấp. Trong khi việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp khởi kiện không chỉ tốn kém về thời gian cho việc giải quyết theo trình tự tố tụng mà còn tốn kém chi phí cho việc tham gia tố tụng, chi phí giám định.

Hiệu quả bảo vệ: Biện pháp tự bảo vệ là biện pháp mang tính kịp thời, tạo khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu. Ngay khi phát hiện ra có hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm phạm, chủ thể có thể áp dụng ngay lập tức mà không cần chờ bất kỳ một thủ tục nào. Đặc điểm này cũng phần nào tránh được vụ việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn. Biện pháp tự bảo vệ bên cạnh những ưu điểm về hiệu quả bảo vệ như nhanh chóng, kịp thời, thì một hạn chế lớn nhất của biện pháp này là hiệu quả bảo vệ không cao, do không được bảo đảm bằng tính cưỡng chế nhà nước. Yêu cầu của chủ thể không được bảo đảm bằng cơ chế mang tính quyền lực nhà nước mà hoàn toàn trông chờ, phụ thuộc vào sự tự nguyện và thiện chí của bên xâm phạm. Do vậy, nếu bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí chấm dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì biện pháp này không mang lại hiệu quả.

3.2. Biện pháp hành chính

Biện pháp hành chính được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ sở hữu tên thương mại, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, tổ chức, cá nhân phát hiện hành vi xâm phạm hoặc do cơ quan có thẩm quyền chủ động phát hiện. Biện pháp hành chính (khiếu kiện ra tòa) chỉ được áp dụng khi biện pháp dân sự không mang lại kết quả.

Hình thức, mức phạt, thẩm quyền, thủ tục xử phạt hành vi xâm phạm và các biện pháp khắc phục hậu quả tuân theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng

Xử lý vi phạm hành chính đối với quyền sở hữu công nghiệp là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp được quy định trước về xử phạt vi phạm hành chính để xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của cá nhân, tổ chức mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính được quy định tại Mục I Chương XVIII Luật Sở hữu trí tuệ, Chương IV Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ và mới nhất là Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về sở hữu công nghiệp thay thế Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006.

Tổ chức, cá nhân thực hiện một trong các hành vi sau đây vì mục đích kinh doanh gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xã hội, không chấm dứt hành vi xâm phạm quyền mặc dù đã được chủ sở hữu quyền yêu cầu thì xâm phạm quyền đối với tên thương mại của người khác và bị xử lý hành chính, các hành vi đó là: Bán; chào hàng; vận chuyển, kể cả quá cảnh; tàng trữ; trưng bày để bán hàng hóa, dịch vụ xâm phạm quyền đối với tên thương mại; Đặt hàng, giao việc, thuê người khác thực hiện những hành vi trên.

 Ngoài ra, còn có các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại như: (a) Sản xuất (bao gồm: thiết kế, chế tạo, gia công, lắp ráp, chế biến, đóng gói) hàng hóa mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối tên thương mại; (b) Gắn (bao gồm: in, dán, đính, đúc, dập khuôn hoặc bằng hình thức khác) tem, nhãn, vật phẩm khác mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với tên thương mại lên hàng hóa; (c) Nhập khẩu hàng hóa mang dấu hiệu xâm phạm quyền đối với tên thương mại; Đặt hàng, giao việc, thuê người khác thực hiện hành vi quy định tại các điểm a, b và c.

Hành vi sử dụng dấu hiệu xâm phạm quyền đối với tên thương mại trong quảng cáo hoặc thể hiện dấu hiệu đó trên giấy tờ giao dịch kinh doanh, biển hiệu, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, phương tiện quảng cáo.

Đối với biện pháp hành chính, cách thức bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung rất phong phú. Cụ thể bao gồm các biện pháp xử phạt hành chính (trong đó có hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung) và các biện pháp khắc phục hậu quả. Mỗi hành vi vi phạm hành chính chỉ bị áp dụng một hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền. Bên cạnh đó, tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung. Theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 97/2010/NĐ-CP, thì hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm; Đình chỉ hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm, kể cả hoạt động thương mại điện tử đối với hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại nêu trên. Ngoài ra, còn có các biện pháp khắc phục hậu quả như: Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm; buộc tiêu hủy yếu tố vi phạm, buộc tiêu hủy hàng hóa vi phạm không loại bỏ được yếu tố vi phạm; buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại hàng hóa, vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định từ khoản 1 đến khoản 12 Điều này; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam đối với hàng hóa quá cảnh xâm phạm hoặc buộc tái xuất đối với hàng hóa nhập khẩu xâm phạm sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa; buộc loại bỏ thông tin về hàng hóa, dịch vụ vi phạm trên phương tiện quảng cáo, trang tin điện tử hoặc thay đổi, thu hồi tên doanh nghiệp, tên miền chứa yếu tố vi phạm; thu hồi về ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất hợp pháp do thực hiện hành vi xâm phạm mà có.

Để bảo đảm việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại bằng các biện pháp hành chính đạt hiệu quả, Luật Sở hữu trí tuệ cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính trong những trường hợp nhất định theo quy định tại khoản 1 Điều 215 Luật Sở hữu trí tuệ: (a) Hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có nguy cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người  tiêu dùng hoặc cho xã hội; (b) Tang vật vi phạm có nguy cơ tẩu tán hoặc cá nhân, tổ chức vi phạm có biểu hiện trốn tránh trách nhiệm; (c) Nhằm bảo đảm thi hành quyết định xử phạt hành chính.

Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp yêu cầu cơ quan nào xử lý hành vi xâm phạm cũng là một vấn đề lớn cần phải được xem xét để hoàn thiện. Hiện nay, pháp luật quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính cho rất nhiều cơ quan, theo khoản 3 Điều 200 Luật Sở hữu trí tuệ thì việc áp dụng biện pháp hành chính thuộc thẩm quyền của các cơ quan thanh tra, quản lý thị trường, hải quan, Ủy ban nhân dân các cấp, cụ thể như sau: Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại nêu trên trừ hành vi xảy ra trong quá cảnh, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; Cơ quan quản lý thị trường có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm trong hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng hoá vi phạm tại thị trường trong nước; Cơ quan Hải quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm trong hoạt động quá cảnh, xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp xảy ra tại địa phương mà mức phạt, hình thức xử phạt, biện pháp xử lý áp dụng đối với hành vi đó vượt quá thẩm quyền của cơ quan thanh tra, quản lý thị trường, hải quan. Trong thực tế, các cơ quan này đôi khi hoạt động chồng chéo, đôi khi lại không cơ quan nào xử lý vi phạm. Chính vì vậy, để việc xử lý các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung đạt hiệu quả cao, đòi hỏi các cơ quan này phải độc lập với nhau, nhưng đồng thời phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt động.

3.3. Biện pháp hình sự

Khi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của cá nhân, tổ chức là hành vi nguy hiểm cho xã hội, cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự thì cá nhân, tổ chức đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc áp dụng biện pháp hình sự thuộc thẩm quyền của Toà án.

Pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay chưa quy định tội danh đối với hành vi xâm phạm tên thương mại. Tuy nhiên, trên thực tế thông qua những hành vi xâm phạm đó có thể xác định các yếu tố cấu thành tội phạm như sau: Quyền đối với tên thương mại là một khách thể được pháp luật bảo vệ, vì vậy khi khách thể này bị xâm phạm mà hành vi xâm phạm đó là do lỗi của chủ thể thực hiện hành vi, gây ra hậu quả nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn cho chủ sở hữu tên thương mại, cho người tiêu dùng và cho xã hội thì chủ thể thực hiện hành vi đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại bị xử lý hình sự khi hành vi đó gây hậu quả nghiêm trọng có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự hoặc người thực hiện hành vi đó đã bị xử phạt hành chính nay còn vi phạm.

Việc khởi tố vụ án hình sự xâm phạm tên thương mại không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu tên thương mại (trừ khi pháp luật quy định). Khi xác định hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại có dấu hiệu tội phạm, các cơ quan tố tụng có có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Cơ quan đó có thể là cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc cơ quan hải quan.

3.4. Biện pháp dân sự

Biện pháp dân sự được áp dụng để giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của chủ thể quyền đối với tên thương mại hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi tranh chấp gây ra, kể cả hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng các biện pháp hành chính hoặc hình sự. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Tranh chấp thương mại phát sinh khi có hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại (như nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại) trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác mà không được sự đồng ý của chủ thể có quyền đối với tên thương mại.

Các tranh chấp sở hữu trí tuệ nói chung và tranh chấp liên quan đến tên thương mại nói riêng là loại tranh chấp dân sự, bởi vậy, về nguyên tắc tranh chấp này được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự do Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều đặc thù của vi phạm, tranh chấp sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ quy định nhiều nội dung cụ thể hơn so với Bộ luật Tố tụng dân sự với mục đích giải quyết tốt loại vi phạm, tranh chấp này. Ví dụ, quy định về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự (Điều 203), theo đó nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền có quyền và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và theo quy định tại Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ. Nguyên đơn chứng minh mình là chủ thể quyền đối với tên thương mại bằng một trong các chứng cứ sau: Chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với tên thương mại (chứng minh điều kiện xác lập quyền và phạm vi quyền của mình; nêu rõ tên, địa chỉ của người đã thực hiện hành vi xâm phạm; cung cấp các chứng cứ về phạm vi, mức độ của việc xâm phạm đó). Trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.

Khi bị xâm phạm quyền đối với tên thương mại, thì chủ sở hữu tên thương mại có quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền của mình. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết các tranh chấp này được xác định như sau: (1) Nếu tranh chấp tên thương mại thuần tuý là tranh chấp dân sự thì thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp huyện; (2) Nếu tranh chấp tên thương mại thuần túy là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng sở hữu trí tuệ ở nước ngoài, thuộc thẩm quyền của  toà án nhân dân cấp tỉnh; (3) Nếu tranh chấp tên thương mại giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp tỉnh.

Thủ tục tố tụng dân sự cho phép chủ sở hữu tên thương mại được quyền khởi kiện yêu cầu toà án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại phải chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại… Theo biện pháp dân sự, toà án buộc cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu tên thương mại đó.

Ở nước ta, biện pháp chủ yếu được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại là biện pháp hành chính. Trong nhiều năm gần đây, các hành vi xâm phạm quyền đối với tên thương mại chủ yếu được giải quyết bằng biện pháp hành chính. Thực tế ở nước ta cho thấy rằng, so với biện pháp hình sự và biện pháp dân sự, thì áp dụng biện pháp hành chính để xử lý những hành vi xâm phạm đem lại hiệu quả cao do không tốn thời gian, tiền bạc. Số vụ việc được giải quyết bằng biện pháp dân sự và đặc biệt là biện pháp hình sự còn rất ít. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản sau:

Thứ nhất, trước đây cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nói chung bằng biện pháp dân sự chưa đầy đủ.

Thứ hai, pháp luật quy định phạm vi rất rộng các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể xử lý bằng các biện pháp hành chính.

Thứ ba, cá nhân, tổ chức bị xâm phạm quyền chưa tin tưởng vào khả năng giải quyết vụ việc của các thẩm phán.

Thứ tư, do tâm lý hầu hết người Việt Nam là ngại kiện ra toà vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong việc hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ cũng như cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, tuy nhiên Việt Nam vẫn bị coi là quốc gia có hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ chưa tốt (đến năm 2007, Hiệp hội Sở hữu trí tuệ quốc tế vẫn xếp Việt Nam trong danh sách các nước có hệ thống sở hữu trí tuệ chưa tốt và cần phải theo dõi). Để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nói chung, đòi hỏi sự nỗ lực và hợp tác chặt chẽ của Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân.

Bùi Huyền - Tạp chí Dân chủ và pháp luật

Tài liệu tham khảo

1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005

2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005

3. Nghị định số 97/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về sở hữu công nghiệp

4. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam, tr. 240-249, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.

5. Website: “International Intellectual Property Alliance 2006, Special   Report 301”.