1. Sơ lược về hòa giải, hòa giải thương mại
1.1. Khái niệm hòa giải, hòa giải thương mại
Hòa giải là một phương thức giải quyết tranh chấp trong đó các bên yêu cầu chỉ định người thứ ba thường là hòa giải viên để giúp các bên tự tìm ra giải pháp để giải quyết tranh chấp. Ở nhiều nước trên thế giới, hòa giải đã hình thành, phát triển và chứng tỏ là một phương thức giải quyết tranh chấp hữu hiệu bởi những ưu điểm riêng.
Theo Điều 1(3) Luật mẫu của Ủy ban Pháp luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL), hòa giải là một trình tự được gọi bằng cụm từ hòa giải, trung gian hay một cụm từ khác có nghĩa tương đương, trong đó các bên yêu cầu một bên thứ ba (hòa giải viên) hỗ trợ các bên đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp; hòa giải viên không có quyền áp đặt giải pháp giải quyết tranh chấp cho các bên.
- Hòa giải thương mại:
Có thể nói hòa giải là phương thức thân thiện, tạo môi trường, xúc tác cho các bên đang có tranh chấp đi tìm tiếng nói chung. Trung gian, hòa giải ngày càng phát triển và trở thành một biện pháp giải quyết tranh chấp thương mại được các doanh nhân, doanh nghiệp ưa chuộng trong những năm gần đây. Hiện nay, ở các nước gần như ít có sự phân biệt giữa hòa giải và trung gian, nhiều khi hai thuật ngữ này được sử dụng thay thế nhau.
- Phân loại hòa giải:
Qua thực tiễn tổ chức, hoạt động hòa giải ở một số nước, có thể phân chia hòa giải theo một số hình thức chủ yếu sau đây:
+ Hòa giải tư pháp: là mô hình hòa giải tại tòa án, hòa giải gắn với tòa án.
+ Hòa giải hành chính: là mô hình hòa giải được tiến hành bởi sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực xảy ra tranh chấp, là trình tự mang tính bắt buộc trước khi khởi kiện tại tòa án.
+ Hòa giải cộng đồng: là mô hình hòa giải áp dụng đối với các tranh chấp nhỏ, thường không gắn liền với kinh doanh thương mại (ở Việt Nam, hòa giải cơ sở cũng có tính chất tương đồng với hòa giải cộng đồng).
+ Hòa giải tư nhân: là mô hình tổ chức hòa giải thường áp dụng cho lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
1.2. Phân biệt giữa hòa giải, trọng tài và tố tụng tòa án
Giải quyết tranh chấp bằng hòa giải có một số điểm khác cơ bản so với trọng tài và tòa án. Hòa giải là một cơ chế linh hoạt, mềm dẻo cho các bên tranh chấp; việc giải quyết tranh chấp theo điều kiện, thủ tục nào trong tiến trình hòa giải hoàn toàn do các bên quyết định và họ có thể kiểm soát tình hình, kết quả nhiều hơn so với thủ tục tại toà án và trọng tài. Hòa giải viên không có quyền xét xử và ra phán quyết, cũng như không đưa ra bất kỳ quyết định hoặc giải pháp nào buộc các bên phải chấp nhận, tuân theo. Một điểm khác biệt lớn nữa là quyết định công nhận hòa giải thành thường không có hiệu lực cưỡng chế thi hành như phán quyết trọng tài hay tòa án.
Trọng tài là một biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế được các doanh nghiệp ưa dùng bởi tính nhanh, mềm dẻo, linh hoạt hơn so với Tòa án. Song Tòa án và trọng tài đều là các biện pháp giải quyết tranh chấp phải thông qua việc phân xử đúng sai và đưa ra phán quyết/quyết định, do đó sau khi giải quyết tranh chấp thường có tình trạng kẻ thắng người thua nên các bên không hợp tác với nhau nữa. Khi sử dụng hoà giải để giải quyết tranh chấp, mối quan hệ giữa các bên thường thân thiện hơn, bởi lẽ không có bên thắng, bên thua mà cả hai bên đều thắng. Vì vậy, trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, thương mại, các doanh nhân có xu hướng ưa chuộng cách thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải.
1.3. Hoạt động hòa giải ở Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với chính sách hoàn thiện pháp luật và chủ trương cải cách tư pháp, các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài ngày càng được khuyến khích sử dụng ở Việt Nam. Thực trạng giải quyết tranh chấp tại Tòa án hiện nay luôn ở mức quá tải. Trong năm 2012 (tính từ 01/10/2011-30/9/2012), tòa án các cấp xét xử 332.868 vụ án các loại trong tổng số 360.941 vụ án đã thụ lý (đạt 92%). Theo số liệu của Tòa án nhân dân Tối cao (tháng 3/2013), trong tổng số gần 400 vụ án cần được xét xử giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao nhưng Hội đồng này chỉ họp toàn thể để xét xử được hơn 200 vụ. Do vậy, việc đẩy mạnh các phương thức khác ngoài tòa án để giải quyết tranh chấp sẽ góp phần giảm tải gánh nặng công việc cho hệ thống tòa án.
Bên cạnh hệ thống toà án, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài cũng đã được doanh nghiệp và người dân biết đến nhiều hơn. Hiện có 07 Trung tâm trọng tài đang hoạt động với tổng số 288 trọng tài viên. Tuy nhiên, hoạt động trọng tài còn chưa thực sự sôi động, từ khi có Luật Trọng tài thương mại năm 2010 đến nay, trung bình hàng năm các tổ chức trọng tài giải quyết gần 100 vụ. Tình trạng một số phán quyết trọng tài bị tòa án hủy vẫn là mối quan ngại của các tổ chức trọng tài và của các bên tranh chấp khi lựa chọn trọng tài. Từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại qua Tòa án và Trọng tài, có thể nhận thấy rằng, người dân và doanh nghiệp đang chờ đợi một phương thức mới nhằm giải quyết tranh chấp linh hoạt, hiệu quả, nhanh chóng, thuận lợi hơn mà vẫn đảm bảo được bí mật và giữ được quan hệ đối tác.
Hoạt động hòa giải được đề cập tại khá nhiều văn bản pháp luật, chủ yếu liên quan đến lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại. Hòa giải được thực hiện trước khi đưa một vụ việc ra trước cơ quan tài phán được áp dụng đối với một số dạng tranh chấp (lao động, đất đai); hòa giải tại Tòa án do thẩm phán thụ lý vụ việc dân sự thực hiện- đây là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự (theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Trong giai đoạn 2006-2010, ngành tòa án thụ lý 881.966 vụ việc (dân sự, kinh doanh thương mại, lao động), trong đó số lượng hòa giải thành khoảng 40% đến 50% tăng dần qua các năm.
Bên cạnh đó, còn có mô hình hòa giải cộng đồng đã hình thành và phát triển ở cấp cơ sở được điều chỉnh bởi Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở năm 1998 (nay là Luật Hòa giải cơ sở, đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp tháng 6/2013). Hình thức hòa giải này không gắn với kinh doanh, thương mại, được thực hiện thông qua Tổ hòa giải và hòa giải viên nhằm phục vụ cộng đồng, giúp giải quyết những vướng mắc, tranh chấp nhỏ phát sinh liên quan đến đời sống hàng ngày ở các khu dân cư. Có thể nhận thấy rằng, ở Việt Nam hòa giải nói chung, hòa giải thương mại nói riêng chưa thực sự trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập.
2. Xây dựng và ban hành Nghị định về hòa giải thương mại là yêu cầu cần thiết
2.1. Cơ sở pháp lý
- Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó thể hiện chủ trương “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”;
- Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO về dịch vụ hòa giải tranh chấp giữa các thương nhân (Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO, phần dịch vụ liên quan đến tư vấn quản lý);
- Luật mẫu về Hòa giải thương mại quốc tế của Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc (2002);
- Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 29 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam đến năm 2020, trong đó có phân công nhiệm vụ xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định về hòa giải thương mại.
2.2. Nhu cầu thực tiễn về hòa giải thương mại ở Việt Nam
Thực tiễn hoạt động kinh doanh, thương mại thời gian gần đây cho thấy nhu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại ngày càng đa dạng và có chiều hướng gia tăng. Các tranh chấp về hợp đồng tín dụng, hợp đồng vay tài sản, mua bán hàng hóa, các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư tài chính cũng tăng nhiều do suy thoái kinh tế, các hoạt động tín dụng, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân gặp nhiều khó khăn, dẫn tới hiện tượng chiếm dụng vốn của nhau hoặc không có khả năng chi trả các khoản nợ và các bên khiếu kiện ra Tòa.
Hầu như trong các hợp đồng các bên thường thỏa thuận sẽ tiến hành hòa giải, thương lượng ngay khi có tranh chấp xảy ra, sau đó mới lựa chọn Tòa án và trọng tài. Trên thực tế, hòa giải thương mại đã được tiến hành một cách tự phát bởi các luật sư, trọng tài viên. Một số Văn phòng luật sư, Trung tâm trọng tài và hiệp hội đã thực hiện hòa giải theo yêu cầu của khách hàng và đạt được kết quả khả quan, chứng tỏ tính linh hoạt, nhanh chóng và hiệu quả của phương thức này.Tuy nhiên, các tổ chức này chưa coi hòa giải là một hoạt động chuyên nghiệp, người đóng vai trò của hòa giải viên còn thiếu kỹ năng, phương pháp, kinh nghiệm hòa giải. Do chưa có khuôn khổ pháp lý điều chỉnh về hòa giải thương mại nên nhiều doanh nghiệp chưa mạnh dạn lựa chọn phương thức hòa giải trên thực tế bởi nhiều lý do, trong đó có lý do liên quan đến giá trị pháp lý và thi hành của biên bản hòa giải thành.
Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, việc xây dựng thể chế pháp luật về hòa giải thương mại là hết sức cần thiết nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển đa dạng cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án linh hoạt, phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như thực tiễn ở Việt Nam. Do vậy, việc xây dựng và ban hành Nghị định về hòa giải thương mại trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với nhu cầu phát triển, chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nước ta và bối cảnh hội nhập quốc tế. Tại Quyết định số 808/QĐ-TTg ngày 29 tháng 6 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp đã được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan Bộ, ngành liên quan xây dựng trình Chính phủ dự thảo Nghị định về hòa giải thương mại. Tuy nhiên, do đây là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam nên trong quá trình xây dựng Dự thảo Nghị định rất cần có sự tham khảo kỹ lưỡng mô hình tổ chức, hoạt động hòa giải nói chung, hòa giải thương mại nói riêng ở các nước phát triển; cần có sự hỗ trợ về nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế, hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia nước ngoài để Nghị định này có chất lượng, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và thông lệ quốc tế.
2.3. Tham khảo kinh nghiệm, mô hình hòa giải thương mại của một số nước
a) Về mô hình
Tham khảo mô hình tổ chức, hoạt động hòa giải ở một số nước phát triển cũng như trong khu vực châu Á là yêu cầu cần thiết để từ đó đề xuất mô hình tổ chức, hoạt động hòa giải thương mại phù hợp với điều kiện của Việt Nam:
- Mô hình tổ chức hòa giải độc lập: Kinh nghiệm của Singapore, Trung Quốc, Pháp và một số nước khác;
- Mô hình tổ chức hòa giải kết hợp với trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp thay thế khác ngoài tòa án: Kinh nghiệm của Vương quốc Anh, Úc, Thái Lan …
- Mô hình hòa giải gắn kết với tòa án: Theo kinh nghiệm của Hoa Kỳ, Hàn Quốc và một số nước khác, Trung tâm hòa giải được thành lập riêng biệt, độc lập với tòa án, có chức năng thực hiện công việc hòa giải do tòa án ủy thác hoặc hòa giải đối với các tranh chấp nhỏ, không phức tạp mà không cần qua thủ tục tố tụng tư pháp. Tòa án chỉ tiến hành xét xử trong trường hợp hòa giải không thành.
b) Các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động hòa giải:
- Bối cảnh, nhu cầu xã hội: bao gồm yếu tố lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế- xã hội. Với nền văn hóa Á Đông, hòa giải dễ được chấp nhận và sử dụng trong các mối quan hệ cộng đồng cũng như trong giao dịch kinh doanh.
- Khung pháp luật: các nước trên thế giới hình thành hai trường phái: điều chỉnh bằng pháp luật (hệ thống dân luật) hoặc không có điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động hòa giải (hệ thống luật án lệ). Song không có mô hình nào được coi là hoàn hảo để áp dụng cho các quốc gia và các dạng tranh chấp.
- Chính sách và hỗ trợ của Nhà nước: Thông qua việc ghi nhận về mặt pháp lý vai trò, vị trí của hòa giải và thể chế hóa bằng các quy định pháp luật; cũng có thể nhà nước chỉ ghi nhận hay đưa ra nguyên tắc, quy trình hòa giải, thực hiện các hỗ trợ chính sách để hoạt động hòa giải phát triển.
- Vai trò và sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức liên quan (Tòa án, Bộ Tư pháp, các tổ chức cung cấp dịch vụ, hiệp hội, cơ sở nghiên cứu khoa học …) là yếu tố góp phần không nhỏ đối với sự hình thành và phát triển của hoạt động hòa giải.
3. Một số nội dung cần quan tâm khi xây dựng dự thảo Nghị định
3.1. Về mục tiêu ban hành Nghị định
Thứ nhất, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành, phát triển tổ chức và hoạt động hòa giải thương mại, góp phần đáp ứng nhu cầu thực tiễn hoạt động kinh doanh, thương mại, thực tiễn giải quyết tranh chấp ở Việt Nam.
Thứ hai, đa dạng hóa việc lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại theo hướng linh hoạt, hiệu quả, góp phần giảm tải công việc xét xử của tòa án.
Thứ ba, thể chế hóa cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO về dịch vụ hòa giải, phù hợp với Luật mẫu về hòa giải thương mại quốc tế của UNCITRAL và điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
3.2. Về phạm vi điều chỉnh
Dự thảo Nghị định về Hòa giải thương mại cần đề cập đến một số vấn đề cơ bản như: Phạm vi hòa giải thương mại; nguyên tắc hoạt động hòa giải thương mại; các hình thức hòa giải; hòa giải viên; tổ chức cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại; trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải; quản lý về tổ chức, hoạt động hòa giải.
Cần làm rõ hơn khái niệm tranh chấp thương mại để từ đó xác định phạm vi hoạt động hòa giải thương mại (tranh chấp ở trong nước hay bao gồm cả tranh chấp thương mại quốc tế và một số tranh chấp không mang tính thương mại theo gợi ý của Luật mẫu về hòa giải thương mại quốc tế hòa giải của UNCITRAL).
3.3. Về khái niệm hòa giải thương mại, nguyên tắc hòa giải thương mại:
- Hòa giải các tranh chấp thương mại, theo đó “thương mại” hiểu theo nghĩa rộng của UNCITRAL hay theo Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam. Tham khảo khái niệm hòa giải thương mại của Luật mẫu, dự thảo Nghị định nên có quy định rõ ràng, không phân biệt giữa trung gian và hòa giải mà quy định trung gian và hòa giải thành một biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế là hòa giải thương mại.
- Nguyên tắc hòa giải thương mại: đề cao tính tự nguyện, bảo mật thông tin; các bên có quyền thỏa thuận về trình tự, thủ tục hòa giải v.v
3.4. Về tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ của hoà giải viên, việc công nhận, chỉ định hòa giải viên
Cần tham chiếu tiêu chuẩn của trọng tài viên, luật sư, thẩm phán, hòa giải viên cơ sở của Việt Nam và quy định của một số nước về tiêu chuẩn của hòa giải viên để xây dựng tiêu chuẩn của hòa giải viên phù hợp với điều kiện ở Việt Nam hiện nay: về phẩm chất đạo đức, uy tín, tính độc lập, vô tư, khách quan; về trình độ chuyên môn (hiểu biết pháp luật, kinh doanh, thương mại và các lĩnh vực khác); về kỹ năng hòa giải (cần được trang bị kỹ năng cơ bản trước khi trở thành hòa giải viên và được bồi dưỡng thường xuyên về kỹ năng trong quá trình hoạt động).
Quyền và nghĩa vụ của hòa giải viên bao gồm: bảo vệ bí mật thông tin; hòa giải viên không thể đảm nhiệm vai trò đại diện hay tư vấn cho một trong các bên; quy tắc ứng xử nghề nghiệp của hòa giải viên v.v.
Việc công nhận, chỉ định hòa giải viên, do các tổ chức hòa giải lựa chọn, lập danh sách hòa giải viên hoặc thông qua một cơ quan nhà nước công nhận tư cách hòa giải viên phù hợp với điều kiện của Việt Nam (Bộ Tư pháp, Tòa án hoặc cơ quan khác ?)
3.5. Về tổ chức cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại
a) Về địa vị pháp lý của tổ chức hòa giải thương mại, có thể cân nhắc một vài mô hình sau đây:
- Tổ chức hòa giải thương mại có tư cách độc lập: Trung tâm hòa giải thương mại ở cấp quốc gia hoặc các Trung tâm hòa giải thương mại được thành lập ở các địa phương có đủ điều kiện nhất định;
- Bộ phận hòa giải được thành lập trực thuộc các Trung tâm trọng tài hiện có ở Việt Nam;
- Mô hình khác phù hợp với điều kiện của Việt Nam: Ngoài tổ chức chuyên cung cấp dịch vụ hòa giải thương mại, có quan điểm cho rằng nên cho phép một số tổ chức khác (hiệp hội, doanh nghiệp ...) cũng được tiến hành hòa giải khi có đủ điều kiện về nhân lực, về căn cứ hòa giải.
Dù được thành lập theo mô hình nào cũng cần có sự xem xét trong mối liên hệ giữa tổ chức hòa giải với tòa án và các tổ chức dịch vụ nghề nghiệp khác ở Việt Nam hiện nay như: Trung tâm trọng tài, tổ chức hành nghề luật sư.
b) Việc thành lập, đăng ký hoạt động của tổ chức hòa giải thương mại.
Trên cơ sở tham khảo cách thức thành lập tổ chức trọng tài theo pháp luật hiện hành của Việt Nam và cách thức thành lập, hoạt động của tổ chức hòa giải thương mại tại Singapore, Trung Quốc, cần thể hiện theo hướng đơn giản về thủ tục hành chính và đề cao tính chất tự quản, tự chịu trách nhiệm của tổ chức hòa giải.
3.6. Về trình tự, thủ tục hòa giải
Một số vấn đề cơ bản cần lưu ý trong trình tự, thủ tục tiến hành hòa giải:
a) Căn cứ tiến hành hòa giải: Thỏa thuận được ký kết giữa các bên trước hay sau khi phát sinh tranh chấp (điều khoản lựa chọn giải quyết tranh chấp bằng hòa giải); hoặc nghĩa vụ phát sinh theo pháp luật hoặc theo yêu cầu hay đề nghị của Tòa án, Hội đồng trọng tài hay của một cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
b) Thủ tục tiến hành hòa giải: Bắt đầu thủ tục hòa giải; Các phương thức tiến hành hòa giải mà các bên có thể thỏa thuận; Lựa chọn/chỉ định hòa giải viên; Cung cấp thông tin; việc sử dụng chứng cứ trong quá trình hòa giải; Trách nhiệm của hòa giải viên và các bên liên quan; Chấm dứt thủ tục hòa giải.
c) Bảo mật thông tin: Đây là yếu tố cốt lõi thể hiện ưu thế của hòa giải so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác, vì vậy, cần được chú trọng và quy định hết sức chặt chẽ.
d) Mối liên hệ giữa hòa giải thương mại với trọng tài và thủ tục tố tụng tư pháp: Không áp dụng tố tụng trọng tài, tố tụng tòa án khi đang tiến hành hòa giải; Các bên có thỏa thuận rõ ràng về việc từ bỏ quyền tiến hành tố tụng trước Trọng tài hay Tòa án. Có thể đưa ra tố tụng trọng tài hoặc Tòa án nếu một bên thấy cần thiết phải tiến hành bảo vệ quyền lợi của mình v.v
đ) Hiệu lực thi hành của thỏa thuận đạt được sau thủ tục hòa giải:
Nguyên tắc của Luật mẫu là nếu các bên đạt được thỏa thuận hòa giải thành để giải quyết tranh chấp thì thỏa thuận hòa giải thành đó có hiệu lực bắt buộc đối với các bên và có thể đưa ra thi hành. Trong quá trình nghiên cứu để nội luật hóa, mỗi quốc gia cần chỉ ra phương thức cụ thể để thi hành thỏa thuận hòa giải thành (thủ tục thi hành bắt buộc) hoặc dẫn chiếu các quy định liên quan đến việc thi hành thỏa thuận đó, ví dụ: thông qua quyết định công nhận của tòa án đối với việc hòa giải thành để thi hành án.
Theo kinh nghiệm của Pháp thì thỏa thuận đạt được sau khi hòa giải thành có giá trị như một hợp đồng mới, các bên tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này. Trường hợp một bên không thực hiện hoặc có vi phạm thì bên kia có quyền khởi kiện như đối với hợp đồng.
Ở Việt Nam, cần nghiên cứu và thể hiện vai trò hỗ trợ của hệ thống tư pháp hiện hành (tòa án, cơ quan thi hành án …) đối với việc thi hành thỏa thuận hòa giải thành nhằm huy động tối đa các nguồn lực của xã hội.
Có ý kiến cho rằng sau khi hòa giải thành, nên thông qua các tổ chức trọng tài ở Việt Nam hiện nay để ra quyết định công nhận hòa giải thành, như vậy quyết định của trọng tài sẽ được hỗ trợ thi hành bởi cơ quan thi hành án dân sự. Đây là ý tưởng hỗ trợ hoạt động hòa giải cần được cân nhắc, thảo luận thêm, nhằm giảm thiểu sự lệ thuộc vào tòa án, vì trên thực tế nếu sự có can thiệp sâu của toà án thì khó đảm bảo tính linh hoạt của các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng tòa án.
3.7. Về phí hòa giải
Hòa giải thường có chi phí thấp hơn so với trọng tài và tòa án, song cần có quy định về phí hòa giải trong dự thảo Nghị định này để đảm bảo điều kiện cần thiết cho tổ chức hòa giải, hòa giải viên trong quá trình hoạt động (tham khảo cách thức quy định về phí trọng tài tại Luật Trọng tài thương mại).
3.8. Về quản lý đối với tổ chức, hoạt động hòa giải thương mại
Hiện nay còn có quan điểm khác nhau về sự cần thiết quản lý đối với hòa giải thương mại. Đây là một dịch vụ mang tính xã hội, sự tác động của nhà nước ở mức độ hợp lý sẽ góp phần khuyến khích, thúc đẩy hoạt động hòa giải thương mại phát triển (hỗ trợ về thể chế, chính sách, đào tạo nguồn nhân lực, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong xã hội sử dụng dịch vụ hòa giải ...). Ở đây, vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, hiệp hội sẽ quyết định phần lớn đối với năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động này. Vì vậy, sự kết hợp giữa cơ chế tự quản và định hướng quản lý của nhà nước là điểm cần được lưu ý trong quá trình xây dựng thể chế pháp lý về hòa giải thương mại. Trong giai đoạn đầu hình thành, cần có vai trò “bà đỡ” của các cơ quan có thẩm quyền nhà nước; có thể đầu mối quản lý là một cơ quan thuộc hệ thống hành pháp, gắn với chức năng quản lý, hỗ trợ các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng tòa án.
Bên cạnh đó, vai trò của Tòa án cũng như các cơ quan, tổ chức có liên quan sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy hoạt động hòa giải ở nước ta, tạo sự gắn kết của một mạng lưới dịch vụ nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Nghị định về Hòa giải thương mại, việc đánh giá tác động của Nghị định này cần được thực hiện theo phương pháp khoa học, nghiêm túc, đảm bảo phản ánh đầy đủ sự tác động của các phương án, các nội dung quy định với góc nhìn đa chiều. Bên cạnh thiết chế tòa án, trọng tài thương mại hiện nay, sự hình thành và phát triển của hoạt động hòa giải thương mại ở Việt Nam phải được đặt nền móng vững chắc từ những bước đi đầu tiên, theo một lộ trình hợp lý, tránh sự khập khiễng, kém khả thi hoặc đi đường vòng.
Hoàng Anh
----------------------------------------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật mẫu về Hòa giải thương mại quốc tế của Ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc (2002).
2. Hòa giải thương mại và xu hướng phát triển tại Việt Nam, Tiến sỹ Nguyễn Thị Minh- Bộ Tư pháp, 2012.
3. Hoàn thiện cơ chế hòa giải ở Việt Nam – Bài học từ kinh nghiệm các nước, Thạc sỹ Lê Thị Hoàng Thanh – Thông tin Khoa học Pháp lý số 9 và 10/2012, Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp.
4. Kỷ yếu Hội thảo định hướng xây dựng dự thảo Nghị định về Hòa giải thương mại – Bộ Tư pháp - ngày 10/7/2013 tại Thành phố Hồ Chí Minh./.