Chế định hôn ước trên thế giới

07/08/2013

1. Hôn ước – đặc trưng của chế độ tài sản ước định

Khi chưa bước vào hôn nhân, hai người nam nữ là những người có tài sản riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn nhân, điều đó đã khác. Tất cả các vấn đề về tài sản của họ được điều chỉnh bởi một qui chế pháp lí có tên là “chế độ tài sản vợ chồng”. Theo một logic đơn thuần: khi chưa bước vào hôn nhân, từng cá nhân được tự do định đoạt tài sản của mình thì trong hôn nhân hai cá nhân đó cũng được thỏa thuận định đoạt chế độ tài sản vợ chồng. Có lẽ vì thế mà hầu hết các quốc gia trên thế giới cho phép những người sắp kết hôn tự thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng bằng một văn bản có tên là “hôn ước”. Khái niệm này cũng thường được gọi với tên khác như: hợp đồng tiền hôn nhân, thỏa thuận tài sản của vợ chồng…

Tại Việt Nam hiện nay chế độ tài sản vợ chồng chỉ do pháp luật qui định (chế độ tài sản pháp định). Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội, chế độ tài sản vợ chồng của Việt Nam đã có những sự thay đổi đáng kể, từ chỗ không chấp nhận bất cứ thỏa thuận nào của vợ chồng về việc xác lập tài sản (như qui định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 1959) đến chỗ cho phép vợ chồng được thỏa thuận về việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thậm chí thỏa thuận cả về hậu quả của việc chia tài sản này (Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và Nghị định số 70/2001/NĐ-CP). Sự thay đổi đó phải chăng đã khiến cho các qui định pháp luật tiến gần hơn tới chỗ chấp nhận hôn ước? Vì thế nghiên cứu về hôn ước là điều cần thiết để giải đáp câu hỏi này, đặc biệt trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài ngày một nhiều, điều đó khiến chúng ta không thể thờ ơ trước vấn đề hôn ước bởi nó đã được pháp luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận.

Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà các vấn đề về quyền sở hữu đối với tài sản của vợ chồng không thể chỉ điều chỉnh bằng các qui định chung về sở hữu tài sản thông thường. Tất cả các quốc gia trên thế giới dù chế độ xã hội khác nhau, trình độ phát triển kinh tế khác nhau, điều kiện về phong tục tập quán, truyền thống văn hóa khác nhau, tất cả các quốc gia đó dù đã qui định về quyền sở hữu tài sản thông thường nhưng ít hay nhiều cũng đều có qui định riêng về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng. Nói đến chế độ tài sản vợ chồng là nói đến vấn đề sở hữu đối với tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kì hôn nhân (từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt) và cũng do đó chế độ tài sản vợ chồng không bao gồm các vấn đề thừa kế tài sản giữa vợ và chồng, vấn đề cấp dưỡng của vợ chồng.

Về hình thức pháp lí, chế độ tài sản vợ chồng có thể được xác định theo căn cứ pháp luật (chế độ tài sản pháp định) hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định). Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng. Chế độ tài sản pháp định được pháp luật của tất cả các quốc gia trên thế giới dự liệu. Khác với chế độ tài sản pháp định, chế độ tài sản ước định[1] là chế độ tài sản mà trong đó căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận. Khi áp dụng chế độ tài sản ước định, vợ chồng được tự do thỏa thuận về  chế độ tài sản trong thời kì hôn nhân. Văn bản ghi nhận sự thỏa thuận đó là hôn ước.

Có thể hiểu hôn ước là văn bản do hai bên nam nữ lập trước khi kết hôn theo thể thức nhất định trong đó ghi nhận sự thỏa thuận của họ về chế độ tài sản vợ chồng được áp dụng trong thời kì hôn nhân và chỉ phát sinh hiệu lực trong thời kì hôn nhân.

2. Hôn ước trong pháp luật các nước trên thế giới

2.1. Hôn ước theo pháp luật của Cộng hòa Pháp

Pháp là quốc gia đầu tiên thuộc hệ thống civil law chính thức ghi nhận giá trị pháp lí của hôn ước trong văn bản qui phạm pháp luật[2], đó là bộ luật dân sự Pháp năm 1804 hay còn gọi là bộ luật Napoleon[3]. Là một sản phẩm của quá trình pháp điển hóa giữa những qui định mang tính chuẩn mực trong pháp luật La mã và một số tập quán đương thời, bộ luật dân sự Pháp thường được xem là khuôn vàng thước ngọc để các quốc gia khác học tập khi xây dựng dân luật. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn không thể phủ nhận tính mẫu mực của các qui định trong dân luật Pháp. Bộ luật dân sự Pháp dành riêng thiên V quyển thứ 3 để qui định về hôn ước và các chế độ tài sản vợ chồng. Thiên thứ V được mở đầu bằng Điều 1378: “pháp luật không điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ và chồng nếu giữa vợ chồng đã có thỏa thuận riêng mà vợ chồng cho là phù hợp và không trái với thuần phong mĩ tục hoặc với các qui định sau đây”. Vậy nên khi vợ chồng lập hôn ước, chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được điều chỉnh bằng hôn ước. Vợ chồng có thể tự do thỏa thuận về vấn đề tài sản nhưng nó phải tuân theo pháp luật cả về nội dung và thủ tục.

- Về thủ tục:

Việc lập ra, thay đổi, hủy bỏ hôn ước phải được tuân theo những thủ tục chặt chẽ để đảm bảo sự tự nguyện và việc thực hiện bản hôn ước đó.

Lập hôn ước: Hôn ước phải do hai bên nam nữ thỏa thuận và phải được lập ra trước khi kết hôn[4]. Về hình thức, nó phải được lập bằng văn bản trước mặt công chứng viên với sự có mặt và thỏa thuận chung của cả hai bên hoặc người được ủy quyền. Khi lập hôn ước công chứng viên cấp cho các bên giấy chứng nhận có ghi rõ họ tên, nơi cư trú của công chứng viên, tư cách và nơi ở của các bên kết hôn, ngày lập hôn ước, trong giấy chứng nhận cũng phải ghi rõ là phải nộp giấy này cho viên chức hộ tịch trước khi đăng kí kết hôn[5]. Để đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba trong giao dịch với vợ chồng, việc lập hôn ước có thể được ghi trong giấy đăng kí kết hôn hoặc ghi rõ trong các văn bản giao dịch với người thứ ba nếu không thì với người thứ ba vợ chồng được coi như là kết hôn theo chế độ pháp lí chung[6].

Việc sửa đổi hôn ước: Sửa đổi trước khi kết hôn: việc sửa đổi thỏa thuận về tài sản vợ chồng trước khi kết hôn phải do hai người nam nữ thỏa thuận, việc thỏa thuận này phải có mặt của các bên tham gia hợp đồng và người được ủy quyền. Bản hôn ước đã sửa đổi cũng phải đảm bảo những yêu cầu về hình thức cũng như đảm bảo quyền lợi cho người thứ ba như bản hôn ước đã lập ban đầu[7]. Sửa đổi sau khi kết hôn: sau khi kết hôn, hôn ước chỉ được sửa đổi sau 2 năm áp dụng, việc thay đổi phải được công bố cho người các con đã thành niên và các chủ nợ, nếu những người được thông báo này phản đối thì việc sửa đổi hôn ước sẽ phải thông qua thể thức phê chuẩn của tòa án nơi vợ chồng cư trú[8].

- Về nội dung:

Những chế độ tài sản vợ chồng có thể lựa chọn chế độ tài sản chung (có thể lựa chọn chế độ cộng đồng toàn sản hoặc chế độ cộng đồng động sản và tạo sản) và chế độ tài sản riêng (chế độ biệt sản, chế độ tài sản riêng tương đối). Có thể thấy, việc thỏa thuận lựa chọn trong hôn ước của pháp là lựa chọn chế độ tài sản, điều này sẽ làm mọi việc đỡ phức tạp và tiểu tiết hơn việc vợ chồng tự thỏa thuận đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng và sự chuyển hóa của các khối tài sản này như thế nào.

Với chế độ tài sản chung: Chế độ cộng đồng toàn sản: nếu vợ chồng thỏa thuận chọn chế độ cộng đồng toàn sản: tất cả tài sản của vợ chồng sẽ có và hiện có (bao gồm cả tài sản của riêng vợ hoặc chồng trước thời kì hôn nhân) sẽ thuộc khối tài sản qui định tại Điều 1404 (đồ dùng, tư trang cá nhân…) Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản: về cơ bản sẽ gần giống với chế độ tài sản pháp định nhưng cũng có một số điểm khác biệt, ví dụ như: vợ chồng có thể thỏa thuận về việc phân chia tài sản không đều nhau, về việc trích khấu tài sản có bồi thường[9]

Với chế độ tài sản riêng: Chế độ biệt sản: nếu lựa chọn chế độ tài sản này, vợ chồng không có tài sản cộng đồng, mỗi bên giữ quyền quản lí, hưởng dụng và định đoạt đối với khối tài sản thuộc về mình. Mỗi bên vợ, chồng chịu trách nhiệm về những khoản nợ riêng và có nghĩa vụ đóng góp vào nhu cầu chung của gia đình. Việc thực hiện theo thoả thuận hoặc theo qui định của pháp luật. Trong quan hệ với người thứ ba vợ chồng có thể dùng mọi cách để chứng minh rằng mọi tài sản thuộc về mình[10]. Chế độ tài sản riêng tương đối: Đây được coi là một chế độ tài sản hỗn hợp: tách riêng tài sản trong thời kỳ hôn nhân và cộng đồng tài sản khi chấm dứt hôn nhân. Trong thời kì hôn nhân, vợ chồng thực hiện chế độ tách riêng tài sản, mỗi bên giữ một phần tài sản riêng và quyền quản lí, hưởng dụng và định đoạt. Vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện những nghĩa vụ riêng bằng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi chấm dứt hôn nhân, mỗi bên được hưởng một nửa những tài sản được tạo ra trong thời kì hôn nhân mà hiện còn.

Ngoài những qui định chung về thủ tục và nội dung của hôn ước, hôn ước dành cho các cặp vợ chồng có một trong hai người hoặc cả hai người là thương nhân lại có những yêu cầu đòi hỏi khác do đặc thù của việc sản xuất kinh doanh[11].

Hôn ước ở Pháp được qui định rất chặt chẽ về cả nội dung và thủ tục để đảm bảo cho lợi ích của vợ chồng của người thứ ba và trật tự của xã hội. Nếu nghiên cứu pháp luật về hôn ước mà không tìm hiểu về chế định hôn ước tại Pháp thì là điều vô cùng thiếu sót.

2.2. Hôn ước theo pháp luật của Hoa Kì

Có thể nói rằng không có ở một quốc gia nào mà vấn đề lập hôn ước lại trở nên phổ biến như ở Hoa Kì. Ở Hoa Kì, những người có mức sống cao hoặc những người thừa kế giàu có thường gặp rất nhiều phiền toái với vợ/chồng cũ của mình cũng như luật sư của cô/anh ta trong suốt thời kì giải quyết việc li hôn. Thêm vào đó, những luật sư làm về luật gia đình đặc biệt là giải quyết các vụ li hôn thường có thu nhập rất cao, tổng phí phải chi trả cho một vụ li hôn thường không dưới 150.000 USD. Ngoài hôn ước (prenuptial agreement), Hoa Kì còn cho phép các cặp vợ chồng lập một thỏa thuận tương tự như hôn ước trong thời kì hôn nhân (postnuptial agreement tạm dịch là hậu hôn ước). Trong suốt thế kỉ 18 thì thông luật (common law) không cho phép vợ chồng lập hôn ước bởi vì họ cho rằng khi hai người kết hôn thì họ đã hòa làm một và không thể có giao dịch khi chỉ có một chủ thể, một lí do nữa là một người phụ nữ đã có chồng thì họ không được phép tham gia kí kết các hợp đồng trừ khi đã li thân[12]. Đến khoảng giữa thế kỉ 19 thì một số án lệ ở Hoa Kì đã cho phép sự tồn tại của hôn ước, đến tháng 7 năm 1983 một đạo luật về hôn ước (Uniform premarital agreement Act gọi tắt là UPAA[13]) đã được ban hành dựa trên kết quả của các án lệ, UPAA được chấp nhận ở đa số các bang của Hoa Kì[14], một số bang còn lại có những qui định khác hay đặc biệt hơn so với UPAA. Theo UPAA hôn ước ở Hoa Kì có một số đặc trưng sau:

Về nội dung: Các bên thỏa thuận trong hôn ước với các nội dung sau:

- Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đổi với tài sản của một bên hoặc cả hai, phát sinh tại thời điểm trước hôn nhân và sau hôn nhân.

- Quyền mua bán, sử dụng, chuyển nhượng, trao đổi, từ bỏ, cho thuê, tiêu dùng, dùng làm tài sản bảo đảm, thế chấp, cầm cố, tự định đoạt hay các quyền quản lí, kiểm soát khác đối với tài sản.

- Định đoạt tài sản khi li thân, li hôn, khi qua đời, hoặc sự biến hay bất kỳ sự kiện nào khác.

- Sự thay đổi hay chấm dứt việc cấp dưỡng giữa vợ chồng.

- Lập chúc thư, ủy thác, hay các biện pháp khác để thực hiện các nội dung của thoả thuận này.

- Quyền sở hữu và chuyển nhượng từ tiền bảo hiểm tính mạng của một người.

- Vấn đề lựa chọn luật điều chỉnh.

- Các vấn đề khác bao gồm quyền và nghĩa vụ cá nhân nhưng không được trái với chính sách công và vi phạm pháp luật

- Quyền được chu cấp của con cái không thể bị ảnh hưởng theo chiều hướng bất lợi bởi hôn ước.

Về hình thức: hôn ước phải được lập bằng văn bản và được hai bên kí vào và không cần thêm một sự xem xét nào với hôn ước.

Về hiệu lực: hôn ước chỉ có hiệu lực trong thời kì hôn nhân. Sau khi kết hôn, hôn ước có thể được các bên sửa đổi bằng cách lập thêm một văn bản khác và kí tên vào đó, sự sửa đổi này không cần thêm một sự xem xét nào cả.

Tuy nhiên theo luật một số bang, hôn ước còn có thể tự động hết hiệu lực sau 7 năm áp dụng hoặc sau khi đứa con đầu tiên ra đời, hay hôn ước chỉ được sửa đổi sau 1,5 năm áp dụng.

Mặc dù hôn ước ở Hoa Kì được qui định tương đối thoáng, nhưng trong thực tế các bên lập hôn ước lại chi trả khá nhiều tiền cho luật sư để có một hôn ước hợp pháp và chặt chẽ về thủ tục nhất.

2.3. Hôn ước theo pháp luật của Nhật Bản

Theo một cuộc khảo sát của tổ chức Master Card đã xếp loại tỉ lệ tiến bộ của phụ nữ trong 13 quốc gia và vùng lãnh thổ dựa trên ý kiến của lực lượng lao động nữ xem họ đã được học qua bậc tiểu học hay chưa, có bao nhiêu người giữ các chức vụ quan trọng trong xã hội, và thu nhập trung bình của họ thế nào: với tỉ lệ 55,5%, phụ nữ Nhật Bản được coi là kém bình đẳng giới so với các nước khác, số phụ nữ Nhật là lao động chiếm 70,3%, số người giữ các chức vụ quan trọng của nhà nước chiếm 62,2%, những người có thu nhập trung bình 51,3%[15]. Nhật Bản là một quốc gia mang nặng nhiều biểu hiện phong kiến và bất bình đẳng giới. Hôn nhân một vợ một chồng của Nhật Bản mới được ghi nhận khoảng 100 năm trước vào đầu thời kì Minh Trị, ngay cả đến thời điểm hiện nay Nhật Bản cũng chỉ cho phép phụ nữ được tái giá sau 6 tháng kể từ ngày cuộc hôn nhân trước của họ chấm dứt[16] và người vợ khi kết hôn thì phải mang họ chồng[17], luật dân sự ở Nhật Bản được coi là một trong những sản phẩm của cuộc cái cách Minh Trị 1868[18]. Hôn ước hay phần lớn những qui định trong bộ luật dân sự Nhật Bản thường do được học tập từ dân luật Đức hoặc Pháp, tuy nhiên đó là sự cấy ghép có chọn lọc chứ không phải là sự sao chép như trong dân luật Việt Nam thời kì Pháp thuộc, nó thể hiện ở những nét đặc trưng riêng trong qui định về hôn ước ở Nhật Bản.

Về hình thức, không giống như pháp luật các quốc gia khác, Nhật Bản có riêng một văn bản pháp luật điều chỉnh về hình thức của hôn ước và vấn đề đăng kí hôn ước[19] (Mặc dù tên tiếng anh của văn bản này được dịch theo các cách khác nhau: “Family Registration Act” hay “Matrimonial property agreement Registration Act” nhưng toàn bộ nội dung của nó chỉ nói về việc đăng kí hôn ước và hình thức của hôn ước).

Về nội dung, nội dung của của hôn ước được qui định trong bộ luật dân sự (Civil Code) Điều 755 Bộ luật dân sự Nhật Bản ghi nhận quyền được lập hôn ước của các cặp vợ chồng: các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng sẽ được tuân theo các qui định dưới đây nếu như vợ chồng không kí vào một hợp đồng qui định trước về tài sản của họ trước khi đăng kí kết hôn. Luật cũng qui định: Nếu vợ chồng có một thỏa thuận về tài sản mà trong đó qui định khác với chế độ tài sản pháp định thì hôn ước này không được chống lại người thừa kế hàng thứ nhất của vợ hoặc chồng hoặc người thứ ba trừ khi nó được đăng kí trước khi đăng kí kết hôn[20].

Việc thay đổi và hủy bỏ hôn ước: Hôn ước không thể thay đổi trong thời kì hôn nhân trừ khi vợ hoặc chồng là người quản lí tài sản mà có hành vi phá tán tài sản và để thay đổi hôn ước, các bên phải có đệ đơn lên tòa án[21]. Ở Nhật có một tòa án riêng biệt chuyên giải quyết các vấn đề về gia đình.

2.4. Hôn ước theo pháp luật của Thái Lan

Trong các quốc gia Đông Nam Á, có thể nói Thái Lan là quốc gia dễ tiếp nhận và thích nghi với những yếu tố được du nhập nhất. Việc hình thành pháp luật ở Thái Lan chủ yếu cũng là do tiếp thu từ pháp luật nước ngoài. Ban đầu, pháp luật Thái thực thụ được hình thành từ văn hóa và tập quán cổ truyền, đó là thời kì mẫu hệ và pháp luật phản ánh, phát sinh từ chính xác những nhu cầu xã hội thời bấy giờ, đến thời người Thái di cư vào Đông Dương thì pháp luật Thái lại tiếp nhận nhiều nét văn hóa của Ấn Độ, các bộ luật Thái cổ tiếp thu nhiều ảnh hưởng của pháp luật Ấn Độ. Từ triều đại Rama V trở đi, pháp luật Thái tiếp thu ảnh hưởng của Pháp luật phương Tây: ban đầu là tiếp nhận pháp luật Anh vào giải quyết từng vụ việc, sau đó là xây dựng bộ luật hình sự và dân sự đầu tiên theo kiểu Pháp, sau đó bộ luật dân sự và thương mại được xây dựng theo pháp luật Pháp còn bộ luật hình sự được phỏng theo pháp luật của Đức[22].

Mặc dù Thái Lan là một đất nước phương Đông, theo đạo phật, nhưng với khả năng dễ tiếp nhận và thích nghi thì hôn ước tồn tại trong pháp luật Thái Lan cũng không phải là điều khó hiểu. Hôn ước được qui định trong phần tài sản vợ chồng trong Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan (các Điều từ 1465 đến 1493). Điều 1465 của Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan qui định: “trong trường hợp vợ chồng trước khi kết hôn không có thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ (hôn ước) thì quan hệ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi những qui định chung của chương này. Hôn ước sẽ vô hiệu nếu có bất cứ điều khoản nào trái với trật tự công hoặc đạo đức xã hội hoặc qui định rằng quan hệ tài sản của họ sẽ được điều chỉnh bởi luật nước ngoài”. Như vậy về nội dung, ngoài những đặc điểm chung như hôn ước ở nhiều nước, hôn ước ở Thái Lan còn có thêm điều kiện về luật áp dụng điều chỉnh, trong đó ở một số quốc gia đã cho phép vợ chồng được chọn luật áp dụng là luật nước ngoài.

Về hình thức, hôn ước ở Thái Lan phải được đăng kí cùng với thời điểm đăng kí kết hôn, phải được làm bằng văn bản và có ít nhất 2 người làm chứng, phải được nộp cùng thờ điểm đăng kí kết hôn[23].

Sửa đổi hôn ước: Điều 1467 qui định sau khi kết hôn hôn ước không thể sửa đổi trừ khi được sự chấp thuận của tòa án có thẩm quyền, và khi có quyết định cuối cùng về việc sửa đổi hay hủy bỏ hôn ước, tòa án phải thông báo với nơi đăng  kí kết hôn về vấn đề đó. Mặc dù được sửa đổi hoặc hủy bỏ bởi tòa án nhưng một số điều khoản của hôn ước sẽ không có hiệu lực với người thứ ba có thiện chí.

Theo khảo sát thì hôn ước của các cặp vợ chồng Thái Lan thường hay bị tuyên vô hiệu và không được chấp thuận bởi mười lí do phổ biến sau[24]:

- Các bên không lập hôn ước thành văn bản

- Tài sản của các bên liệt kê trong hôn ước không được coi là hợp pháp

- Có sự lừa dối: bị chồng (vợ) hoặc gia đình hoặc luật sư của chồng (vợ) lừa dối để kí vào hôn ước.

- Chưa đọc hôn ước: sở dĩ có lí do này là bởi vì có thể xảy ra trường hợp vợ hoặc chồng được đề nghị kí rất nhiều giấy tờ trong đó có cả hôn ước mà họ lại không đọc nó.

- Các bên chưa có đủ thời gian để suy nghĩ về hôn ước: nếu như các bên chỉ đọc qua loa về hôn ước  và kí vào đó thì rất có khả năng hôn ước sẽ bị vô hiệu.

- Hôn ước có một số điều khoản bị cấm.

- Các thông tin trong hôn ước bị sai lệch ví dụ thu nhập của các bên, tài sản, năng lực….

- Các thông tin trong hôn ước chưa được hoàn thành hết, như chưa kê đầy đủ tài sản trước khi kết hôn…

- Các bên không được độc lập về ý chí: khi một bên hoặc cả hai bên không được độc lập về ý chí mà phải phụ thuộc vào bên kia hoặc gia đình hoặc luật sư…

- Hôn ước không phù hợp với đạo đức xã hội thông thường: một hôn ước quá thiên vị cho một bên ví dụ trong đó qui định rằng khi li hôn một bên sẽ được tất cả tài sản hoặc một bên sẽ chịu thanh toán tất cả các khoản nợ hoặc trong đó qui định miễn nghĩa vụ cấp dưỡng cho một bên… rất có khả năng bị tuyên vô hiệu./.

Trương Hồng Quang


[1] Hiện nay pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam chưa ghi nhận chế độ tài sản vợ chồng này.

[2] Là một bộ phận của Vương quốc phong kiến Frăng, hôn ước đã là một trong những điều được coi là hiển nhiên trong truyền thống của Pháp nên việc ghi nhận nó trong bộ luật dân sự đầu tiên cũng là đương nhiên.

[3] Hôn ước được ghi nhận tại thiên thứ 5 quyến thứ 3 Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804, xem:

http://www.napoleonseries.org/research/government/code/book3/c_title05.html

[4] Xem Điều 1395 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp

[5] Điều 1394 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp

[6] Điều 1394 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp

[7] Điều 1396 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp

[8] Điều 1397 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp (đã sửa đổi năm 2006): “Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản, vì lợi ích của gia đình, vợ chồng có thể thỏa thuận sửa đổi hoặc thậm chí thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản bằng chứng thư công chứng. Chứng thư thay đổi này phải bao gồm việc thanh toán chế độ tài sản bị thay đổi, nếu không sẽ bị vô hiệu, khi việc thanh toán đó là cần thiết; Các bên trong hôn ước bị sửa đổi và các con đã thành niên của mỗi bên vợ chồng được thông báo riêng về sự sửa đổi dự kiến. Mỗi người có thể phản đối sự thay đổi đó trong thời hạn ba tháng; Các chủ nợ được thông báo về sự thay đổi dự kiến bằng việc công bố trên tờ báo tiếp nhận những thông báo pháp lý trong huyện hoặc tỉnh nơi cư trú của vợ chồng. Họ có thể phản đối sự thay đổi trong thời hạn ba tháng kể từ khi công bố; Trong trường hợp có phản đối, chứng thư công chứng phải tuân theo thể thức phê chuẩn của tòa án nơi cư trú của vợ chồng. Yêu cầu và quyết định phê chuẩn được công bố theo những điều kiện và chế tài được dự liệu tại Bộ luật tố tụng dân sự; Nếu một bên vợ, chồng có con chưa thành niên, chứng thư thay đổi bắt buộc phải tuân theo thể thức phê chuẩn của tòa án nơi cư trú của vợ chồng; Sự thay đổi có hiệu lực đối với các bên kể từ ngày ra chứng thư hoặc ngày ra bản án và đối với người thứ ba thì sau ba tháng kể từ ngày sự thay đổi được ghi chú bên lề giấy chứng nhận kết hôn. Tuy nhiên, kể cả khi không có sự ghi chú, những thay đổi vẫn có hiệu lực đối với người thứ ba nếu trong những giao dịch với họ, vợ chồng đã tuyên bố về sự thay đổi chế độ tài sản của mình; Trong trường hợp vợ hoặc chồng đang trong quy chế được bảo trợ pháp lý theo những thể thức được quy định tại phần XI quyển I, sự sửa đổi hoặc thay đổi chế độ tài sản phải được sự cho phép trước của Thẩm phán về giám hộ hoặc của Hội đồng gia tộc nếu có; Phải ghi chú sự sửa đổi vào bản chính hôn ước bị sửa đổi; Các chủ nợ đã không phản đối, nếu thấy có sự gian lận đến quyền của mình, có thể chống lại sự thay đổi chế độ tài sảncủa vợ chồng theo những quy định của điều 1167; Những thể thức áp dụng điều luật này được quy định trong sắc luật của Hội đồng nhà nước.” (Bản dịch từ văn bản tiếng Pháp của ThS. Bùi Minh Hồng, giảng viên khoa Luật dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội)    

[9] Xem mục IV và mục V chương 2 thiên thứ V Bộ luật dân sự cộng hòa Pháp.

[10] Điều 1538 bộ luật dân sự cộng hòa Pháp

[11] Về vấn đề này, xem thêm tại Th.S Bùi Minh Hồng, Quan hệ về tài sản của vợ chồng trong hoạt động hợp tác sản xuất, kinh doanh theo pháp luật của Cộng hòa Pháp, Đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh (chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Phương Lan), Trường ĐH Luật Hà Nội, năm 2008

[12] Ronald B. Standler (Copyright 2003), Prenuptial and Postnuptial contract Law in the USA, page 3 www.rbs2.com/dcontract2.pdf

[14] Mahar, Heather, Why Are There So Few Prenuptial Agreements?. Harvard Law School John M. Olin Center for Law, Economics and Business Discussion Paper Series. Paper 436, http://lsr.nellco.org/harvard_olin/436, page 3

[15] Xem: Phụ nữ Nhật Bản tụt hậu về bình đẳng giới, www.tienphong.vn ngày 15/3/2005

[16] Điều 733 A Bộ luật dân sự Nhật Bản, Luật dân sự số 89 năm 1896 sửa đổi bằng luật số 78 năm 2006, tìm bản tiếng anh tại link sau: http://www.japaneselawtranslation.go.jp

[17] Điều 150 Bộ luật đân sự Nhật Bản,

[18] Trong cuộc cải cách này họ đã chủ trương từ bỏ những tập tục có hại để học hỏi những tiến bộ của phương Tây

[19] Tìm bản tiếng Nhật tại link sau: http://law.e-gov.go.jp (Luật này chưa được dịch chính thức sang tiếng Anh)

[20] Điều 756 Bộ luật dân sự Nhật Bản.

[21] Điều 761 Bộ luật dân sự Nhật Bản

[22] Xem thêm về phân kì lịch sử pháp luật của Thái Lan: Nguyễn Quế Thương, Suy nghĩ về phân kì lịch sử Thái Lan và phân kì lịch sử pháp luật Thái Lan, website Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Viện khoa học xã hội Việt Nam, http://www.iseas.org.vn/module/news/viewcontent.asp?ID=18&langid=2

[23] Điều 1466 Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan, năm 1925 sửa đổi năm 2009, nguồn:

http://www.samuiforsale.com/Civil_Code_text_English_I.html