1. Từ triết lý lập pháp…
1.1. Việt Nam là một quốc gia có hệ thống pháp luật theo truyền thống pháp luật XHCN với những đặc tính nổi bật về nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản, lý tưởng nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, tính giai cấp của pháp luật... Với lối tư duy truyền thống, khép kín trước đây, pháp luật được quan niệm là một hiện tượng lịch sử, chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp, pháp luật xã hội chủ nghĩa là một sản phẩm của hành động có ý thức của con người, là biểu hiện tập trung của chính trị và là ý chí của giai cấp thống trị trong một xã hội. Pháp luật luôn có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời với nhà nước và là một loại hoạt động của nhà nước. Pháp luật sẽ vô nghĩa nếu không có bộ máy có đủ sức mạnh thực hiện việc cưỡng chế tuân thủ pháp luật. Lối tư duy này dẫn chúng ta đến hai nhận định cơ bản về pháp luật: Thứ nhất: Nhận thức, quan niệm về pháp luật với lối tư duy khá hẹp: Pháp luật thường được thuần tuý hiểu là tập hợp một cách có hệ thống những khuôn thước hành xử hiện hữu do cơ quan công quyền công bố và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Thứ hai: Đánh đồng pháp luật với hoạt động làm luật, từ đó nhấn mạnh yếu tố quyền lực và coi pháp luật chỉ là phương tiện đặc hữu của nhà nước; hoạt động sáng tạo pháp luật là lĩnh vực độc quyền nhà nước; khi nói đến pháp luật, người ta nhấn mạnh đến tính cưỡng chế, yêu cầu tuân phục hơn là huy động sự đồng thuận, thuyết phục, giáo dục và khơi dậy ý thức tự giác trong xã hội.
1.2. Chỉ một vài năm sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới (1986), tiến trình dân chủ hóa đã được triển khai cả về bề rộng và chiều sâu, tính công khai, dân chủ, ý thức về pháp quyền, công lý, công bằng xã hội đã được xây dựng và phát triển mạnh mẽ trong toàn xã hội. Với tư tưởng chủ đạo “lấy dân làm gốc”, làm cho người dân thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xí nghiệp, hợp tác xã của mình và yêu cầu nhà nước phải quản lý toàn bộ đời sống xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật, một số quan điểm về nhà nước và pháp luật truyền thống đã được áp dụng trong nhiều thập kỷ của thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp đã không còn thực sự phù hợp, từ đó đã tạo ra một “chiếc áo pháp lý” chật hẹp, gò bó, thiếu tính linh hoạt và không còn đáp ứng được đầy đủ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong giai đoạn đổi mới. Có thể nói, đổi mới tư duy kinh tế đã đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải khẩn trương, tích cực, quyết liệt và kiên trì đổi mới tư duy pháp lý nhằm góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Trọng tâm của đổi mới tư duy pháp lý trong thời kỳ đầu của giai đoạn đổi mới chính là yêu cầu nâng cao vai trò điều chỉnh xã hội của pháp luật, pháp luật phải là một “phương tiện hùng mạnh” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, là công cụ đấu tranh chống tiêu cực và bảo vệ nền dân chủ XHCN. Pháp luật cần phải được quan niệm lại, theo đó, nó không chỉ thuần tuý tồn tại với ý nghĩa là một sức mạnh cưỡng chế mà còn phải là một công cụ giáo dục tích cực nhằm khắc phục những tàn dư tư tưởng, những thành kiến coi thường pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tự giác trong cán bộ và nhân dân.
1.3. Trên cơ sở kế thừa những kinh nghiệm xây dựng nhà nước, xây dựng pháp luật và quản lý xã hội đã có, thực hiện đổi mới tư duy pháp lý, Đảng ta đã mạnh dạn, sáng suốt lựa chọn và phát triển hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN. Đây là một mô hình nhà nước được đánh giá là phương thức tổ chức quyền lực hợp lý, có điều kiện phát huy đầy đủ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng, có khả năng tạo môi trường và điều kiện cần thiết để người dân thực sự làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Quan điểm này đã được đồng chí Đỗ Mười sớm đưa ra từ năm 1989 và gợi ý các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và phát triển. Đến năm 1994, khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN lần đầu tiên được Đảng ta chính thức sử dụng tại Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ khóa VII. Đến năm 2001, Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã chính thức định danh “Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
1.4. Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, một số quan điểm nghiên cứu đã cho rằng pháp luật không chỉ đơn thuần là sản phẩm “độc quyền” của nhà nước mà trước hết phải là sự kết tinh thiêng liêng những giá trị cao quý trong xã hội, dựa trên nền tảng dân chủ, nhân bản, lương tri và đạo lý mà không một ai bác bỏ được để trở thành lẽ phải đương nhiên như tự do, bình đẳng, công lý, công minh. Nhà nước phải thừa nhận và phục tùng lẽ phải và công lý, lấy đó làm thước đo để hướng tới sự phù hợp và hoàn thiện để củng cố lòng tin của nhân dân vào sự công minh của mình. Gần đây, trên website của Tạp chí Xây dựng Đảng, khi đánh giá văn bản số 1594/MTTW-BBT ngày 12 tháng 8 năm 2011 của Ban thường trực Uỷ ban Trung ương Mặt trận Toỏ quốc Việt Nam gửi Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Toà án nhân dân tối cao kiến nghị đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bà Trần Ngọc Sương - nguyên Giám đốc Nông trường Sông Hậu về tội danh “lập quỹ trái phép” và xử lý sai sót của bà trong lĩnh vực tài chính bằng các biện pháp hành chính và dân sự, bài viết trên Tạp chí đã nhận định: Lương tri không thay được pháp luật lại càng khổng thể đứng trên pháp luật. Nhưng nó là cái duy nhất mách bảo giải pháp đúng trong tình huống phức tạp. Cao hơn, lương tri làm cho mọi hành vi xã hội được thừa nhận và có tình người.
1.5. Theo cách tiếp cận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về mối quan hệ giữa con người và pháp luật trong chế độ dân chủ, con người luôn được coi là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Trong chế độ dân chủ, “không phải con người tồn tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người... Dấu hiệu đặc trưng cơ bản của chế độ dân chủ là như vậy”. Pháp luật là yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc, do đó nó không thể cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội, pháp luật là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do phương thức sản xuất nhất định sinh ra. Về phương pháp luận chỉ đạo các nguyên tắc hoạt động sáng tạo pháp luật trong hệ thống pháp luật XHCN, C.Mác đã khẳng định tầm quan trọng của “những quy luật nội tại của những mối quan hệ tinh thần” như những quy luật khách quan mà luật thực định phải phản ánh và cụ thể hoá trong các đạo luật: “Nhà lập pháp phải coi mình như là nhà khoa học tự nhiên. Ông ta không làm ra luật, ông ta không phát minh ra chúng mà chỉ nêu chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức. Chúng ta sẽ phải chê trách nhà làm luật là vô cùng tuỳ tiện, nếu như ông ta thay thế bản chất của sự vật bằng nhiều điều bịa đặt của mình”.
1.6. Nắm vững, vận dụng và phản ánh đầy đủ, kịp thời những “quy luật nội tại” thành những đạo luật thành văn chính là yêu cầu cốt tuỷ đối với mỗi cán bộ làm công tác pháp luật. Không hiểu; vận dụng không đúng đắn, thậm chí chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn đến những tác hại vô cùng to lớn cho xã hội. Khi đánh giá lại “Khoán Kim Ngọc” ở Vĩnh Phúc, tác giả Đặng Phong đã đánh giá về những chủ trương, chính sách, những quy định không thực sự phản ánh khách quan được những “quy luật nội tại” đã gây ra những trì trệ kinh tế, mất ổn định xã hội trong cả một giai đoạn của đất nước:
“Nếu sự quay của quả đất là một quy luật của vũ trụ, thì việc chuyển mô hình hợp tác xã cũ sang khoán hộ, mà thực chất là kinh tế tiểu nông tự chủ, là một quy luật của kinh tế.
Khác với quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế vận động qua con người, nên có lúc nhanh, lúc chậm. Xét về một phương diện nào đó thì sự vùi dập sáng kiến đối với Vĩnh Phúc đã làm chậm quá trình phát triển của nông nghiệp Việt Nam hàng thập kỷ: Nếu tính từ khoán Vĩnh Phúc năm 1966 tới khoán của Đoàn Xá (Hải Phòng) năm 1976, đã có 10 trôi qua. Nếu tính từ Thông tri 224-TT/TW của Ban Bí thư năm 1968 tới Chỉ thị số 100-CT/TW cũng của Ban Bí thư năm 1981, đã có 13 năm trôi qua và đến Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị thì mất đi 20 năm.
Nhưng cuối cùng thì nền nông nghiệp Việt Nam cũng đã thoát khỏi cái “vòng kim cô” của những giáo điều cũ kỹ để đi vào quỹ đạo của những quy luật kinh tế, đi vào con đường tăng trưởng, phồn vinh và hội nhập với thị trường thế giới”.
Nắm vững, vận dụng và phản ánh khách quan, đầy đủ, kịp thời những “quy luật nội tại” thành những đạo luật thành văn chính là yêu cầu cốt tuỷ đối với mỗi cán bộ làm công tác pháp luật. Luật pháp không phải là làm ra mà là tìm ra ngay từ bản chất của sự vật, hiện tượng. Sẽ là tuỳ tiện, là bịa đặt nếu các đạo luật thành văn không phải là sự biểu hiện khách quan, trung thực, đầy đủ, kịp thời những “quy luật nội tại” của các sự vật, hiện tượng. Một nhà tư tưởng thời Hy Lạp cổ đại theo trường phái pháp luật tự nhiên đã khẳng định: Luật pháp đã nằm ngay trong bản chất của mọi sự vật, hiện tượng. Luật pháp sẽ là một thứ chuyên chế nếu chúng buộc con người hành động trái với bản tính của mình.
Triết lý lập pháp là vậy!
2. Đến yêu cầu đổi mới tư duy tuyển dụng công chức làm công tác xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay…
2.1. Công tác tư pháp và xây dựng pháp luật đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm ngay từ những ngày đầu thành lập Nhà nước cách mạng Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu cách mạng, các cơ quan tư pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là “một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp phần mình thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ. Đồng thời, ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu, phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân”. Ngày nay, thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, vị trí và vai trò của đội ngũ cán bộ tư pháp trong quá trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN ngày càng giữ một vai trò quan trọng.
2.2. Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp luật ở nước ta được đánh giá là một trong những ngành đào tạo phát triển khá chậm trễ. Trường Đại học pháp lý đầu tiên được thành lập vào cuối năm 1948 tồn tại đến năm 1950 nhưng công tác đào tạo hầu như không được thực hiện nhưng do đất nước hoàn cảnh chiến tranh. Đến năm 1976, Khoa Luật Trường Đại học Tổng hợp được thành lập. Ngày 10/11/1979, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 405-CP thành lập trường Đại học pháp lý trên cơ sở thống nhất khoa Pháp lý Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Trường Cao đẳng pháp lý. Cho đến nay, các cơ sở đào tạo luật lớn cần được kể đến là Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh và Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Chương trình đào tạo chính của các cơ sở đào tạo này tập trung chủ yếu vào “phần ngọn” của công tác xây dựng pháp luật, bao gồm: lý luận, kỹ thuật xây dựng văn bản và các quy định của pháp luật thực định trong các lĩnh vực chuyên ngành.
2.3. Trong nhiều năm qua, công tác tuyển dụng công chức tư pháp được thực hiện chủ yếu từ nguồn sinh viên tốt nghiệp đại học luật. Ngày 26 tháng 7 năm 1993, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 483/TCCB-QĐ ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ của các ngạch công chức hành chính ngành tư pháp với các ngạch chuyên viên cao cấp pháp lý, chuyên viên chính pháp lý, chuyên viên pháp lý, cán sự pháp lý để làm cơ sở cho công tác tuyển dụng, tiếp nhận, đánh giá công chức và kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật. Theo quy định này, trình độ chuẩn đối với công chức làm công tác xây dựng pháp luật là phải có tốt nghiệp đại học luật. Trong thời gian qua, trước yêu cầu đặc thù của các vị trí công tác, Bộ Tư pháp đã thực hiện chủ trương đa dạng hoá nguồn tuyển dụng đối với một số vị trí công tác đặc thù như công tác lễ tân, công tác tiền lương, kiểm soát thủ tục hành chính… Tuy nhiên, đối với đội ngũ chuyên viên pháp lý, nguồn tuyển dụng hầu hết vẫn là sinh viên tốt nghiệp đại học luật.
Có thể nhận thấy, việc đội ngũ công chức tư pháp, đặc biệt là đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật được tuyển chọn hầu hết từ những sinh viên tốt nghiệp luật không phải là sự đảm bảo tối ưu cho công tác xây dựng pháp luật theo triết lý lập pháp chúng ta đã bàn luận. Tại Hoa Kỳ, đào tạo cử nhân luật được coi là một ngành đào tạo sau đại học sau khi sinh viên đó đã tốt nghiệp một chuyên ngành nhất định. Có như vậy, sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể có kiến thức chuyên sâu về bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng và kỹ năng thể hiện, phản ánh đầy đủ, trung thực, khách quan những quy luật đó thành luật thực định.
2.4. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã khẳng định mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch. Bộ Tư pháp và cơ quan pháp chế bộ ngành là các cơ quan có chức năng chính là thực hiện công tác xây dựng pháp luật. Trở lại với triết lý lập pháp chúng ta đã bàn luận: Nắm vững, vận dụng và phản ánh khách quan, đầy đủ, kịp thời những “quy luật nội tại” thành những đạo luật thành văn chính là yêu cầu cốt tuỷ đối với mỗi cán bộ làm công tác pháp luật. Yêu cầu phát triển của đất nước trong thời gian tới đòi hỏi chúng ta không chỉ phát triển một đội ngũ “chuyên viên pháp lý thuần tuý” mà cần phải có một định hướng lâu dài, một chiến lược dài hạn để xây dựng và phát triển đội ngũ công chức chuyên sâu công tác xây dựng pháp luật trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề. Đã đến lúc chúng ta cần dành một tỷ lệ biên chế và những chính sách đặc thù nhất định để tuyển chọn những cán bộ, những sinh viên có chuyên ngành khoa học quan trọng khác trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như năng lượng, tài nguyên, môi trường, kinh tế, tài chính, thậm chí cả các ngành vũ trụ, hạt nhân…, để đào tạo, bồi dưỡng luật ngắn hạn trước khi tuyển dụng thành những chuyên viên pháp lý làm công tác xây dựng pháp luật.
Phải chăng đã đến lúc con đường làm luật cần được mở ra đối với mọi ngành khoa học?
Ths. Nguyễn Xuân Tùng - Trưởng phòng Công tác cán bộ - Vụ TCCB
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
2. Bài phát biểu của đồng chí Đỗ Mười, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tại Hội nghị Tư pháp năm 1989. Xem: Bộ Tư pháp: Xây dựng hệ thống pháp luật và nền tư pháp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng - Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005.
3. GS.TS. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên): Bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2010.
4. TS. Huỳnh Văn Thới: Pháp luật được “tìm ra” hay “làm ra”, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh số ngày 31 tháng 01 năm 2010.
5. Raymond Wacks: Triết học luật pháp, Nxb. Tri thức năm 2011 (bản dịch của Phạm Kiều Tùng).
6. Đặng Phong: “Phá rào” trong kinh tế vào đêm trước đổi mới, Nxb. Tri thức năm 2009.
7. Bộ Tư pháp: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “50 năm ngành tư pháp Việt Nam”./