Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế và khả năng gia nhập của Việt Nam

15/04/2011
Trong các ngày từ 07 – 10 tháng 12 năm 2010, Bộ Tư pháp đã tổ chức một đoàn công tác liên ngành thăm và làm việc với một số cơ quan, tổ chứ quốc tế tại Hà Lan nhằm trao đổi, tìm hiểu kinh nghiệm và nghiên cứu khả năng Việt Nam gia nhập Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế và nghiên cứu khả năng gia nhập một số Công ước La Hay liên quan đến tương trợ tư pháp.

Bài viết này xin giới thiệu một số thông tin đã thu nhận được sau chuyến đi nhằm chia sẻ cho các đồng nghiệp có quan tâm và mong muốn tìm hiểu về:

· Các điều kiện gia nhập, quyền lợi, nghĩa vụ của các nước thành viên, kinh nghiệm của các nước trong quá trình nghiên cứu, gia nhập và thực hiện quy chế thành viên Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế, những điều kiện và thách thức đối với Việt Nam khi trở thành thành viên của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế; và

· Giới thiệu tổng quan về một số Công ước La Hay liên quan đến tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại như Công ước La Hay về bãi bỏ yêu cầu hợp pháp hóa tài liệu công nước ngoài ngày 05/10/1961(thường được gọi là Công ước La Hay về Miễn hợp pháp hóa giấy tờ), Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp liên quan đến dân sự và thương mại ngày 15/11/1965 (thường được gọi là Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ); những lợi ích của việc gia nhập, kinh nghiệm của các quốc gia thành viên khi chuẩn bị gia nhập (các thách thức đối với pháp luật trong nước, khả năng sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước khi tham gia các Công ước này).

1. Về Hội nghị La hay về tư pháp quốc tế (The Hague Conference)

Hội nghị La-hay về tư pháp quốc tế được thành lập từ năm 1893 và trở thành một tổ chức quốc tế liên chính phủ độc lập kể từ năm 1955 trên cơ sở Hiến chương của Hội nghị La-hay về tư pháp quốc tế.[1] Mục đích của Tổ chức này là hài hòa hóa các nguyên tắc trong tư pháp quốc tế (một lĩnh vực thường được gọi là xung đột pháp luật). Tư pháp quốc tế là một lĩnh vực rất rộng, có phạm vi ảnh hưởng tới nhiều quốc gia, tác động tới từng cá nhân hoặc pháp nhân hay tổ chức khác nhau và thường có mối liên quan với nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Trong thời kỳ toàn cầu hóa này, tính phức tạp và đan xen giữa các vấn đề pháp lý của từng quốc gia và quốc tế ngày càng tăng lên, chính điều này đã làm nảy sinh nhu cầu cấp bách về hợp tác pháp luật, tăng cường thông tin và liên kết giữa các hệ thống pháp luật vốn dĩ rất khác nhau như vừa đề cập.

Sứ mệnh của Hội nghị La-hay là tìm ra được những phương pháp tiếp cận và giải pháp nhận được sự chấp nhận và đồng thuận trên bình diện quốc tế nhằm giải quyết những xung đột pháp luật ví dụ như: tòa án nào là tòa án có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp nảy sinh giữa công dân hay pháp nhân của các quốc gia? Pháp luật nào sẽ được áp dụng để giải quyết vấn đề mang tính xuyên quốc gia đó? Vấn đề công nhận và cho thi hành các bản án của nước ngoài sẽ được thực hiện ra sao? Và làm cách nào để bảo đảm hiệu quả hoạt động phối hợp và hợp tác giữa các cơ quan hành chính và tư pháp giữa các quốc gia?

Công việc của Hội nghị La-hay bao trùm rất nhiều lĩnh vực, từ pháp luật thương mại và tài chính tới tố tụng dân sự quốc tế và hợp tác tương trợ tư pháp, từ bảo vệ trẻ em tới các vấn đề liên quan đến hôn nhân gia đình và tư cách pháp lý của cá nhân. Mục tiêu hàng đầu của Tổ chức này là làm việc không mệt mỏi để hướng tới một thế giới mà ở đó, mặc dù có những khác biệt giữa các hệ thống luật pháp, song công dân và pháp nhân của từng quốc gia đều có thể hưởng sự bảo đảm và an toàn về mặt pháp lý ở cấp độ cao. Với những đóng góp của từng quốc gia thành viên Hội nghị và nhiều quốc gia khác, cho tới này Hội nghị La-hay đã soạn thảo được 38 điều ước quốc tế đa phương, thường được gọi là các Công ước La-hay, các điều ước quốc tế này chính là các công cụ pháp lý hữu hiệu nhằm góp phần đáp ứng các nhu cầu thiết yếu về giải quyết các xung đột pháp lý toàn cầu. 

Là một tổ chức liên chính phủ độc lập, Hội nghị La-hay duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với Liên hợp quốc và nhiều cơ quan của Tổ chức này (đặc biệt là UNCITRAL, UNIDROIT và UNICEF), cộng tác với các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc và nhiều tổ chức khu vực khác nhau (trong đó có Liên minh châu Âu - EU).

Cho tới nay, Hội nghị La-hay có 70 thành viên, trong đó có 69 thành viên là quốc gia và một thành viên là tổ chức (EU). Một điều đáng lưu ý là nhiều nước láng giềng, các nước ASEAN và có quan hệ truyền thống về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự với Việt Nam đã trở thành thành viên của Hội nghị hoặc đang có xu hướng gia nhập Hội nghị (Trung Quốc, Malaysia, Philippin, Nga, Belarut, Hungary, Bungari, Ba Lan…) và các nước mà Việt Nam đang chuẩn bị ký Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự (Hàn Quốc, Ấn Độ, Anh). Ngoài 70 thành viên chính thức của Hội nghị, 60 quốc gia khác tuy chưa trở thành thành viên của Hội nghị song đã tham gia và là thành viên của ít nhất là một trong số 38 Công ước La-hay, và số lượng các quốc gia tham gia các Công ước La-hay khác nhau ngày càng tăng lên Việt Nam cũng nằm trong số các nước chưa là thành viên Hội nghị La Hay nhưng đã tham gia Công ước La Hay (cụ thể là Công ước La-hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế) và sứ mệnh của Đoàn công tác lần này cũng là chứng kiến việc Đại sứ đặc mệnh toàn quyền CHXHCN Việt Nam thay mặt cho Nhà nước Việt Nam ký gia nhập Công ước.[2]

Thủ tục trở thành thành viên của Hội nghị

Thành viên sáng lập của Hội nghị La-hay là các nước đã tham gia vào một hoặc nhiều phiên họp của Hội nghị và chấp nhận Hiến chương của tổ chức này.

Theo Điều 2 (2) và 2 (3) Hiến chương Hội nghị La-hay, bất kỳ quốc gia nào (ngoài các quốc gia sáng lập Hội nghị), trên quan điểm tư pháp, nếu thấy Hội nghị có tầm quan trọng đối với quốc gia đó thì có thể tham gia Hội nghị. Việc chấp nhận trở thành thành viên mới sẽ do các Chính phủ của các quốc gia thành viên Hội nghị quyết định bằng bỏ phiếu theo đa số trong vòng sáu tháng kể từ ngày nhận được đề xuất của một hoặc nhiều quốc gia thành viên về đề nghị gia nhập Hội nghị.

Theo truyền thống, các quốc gia khi muốn trở thành thành viên của Hội nghị La-hay thường tìm kiếm sự ủng hộ của Chính phủ Hà Lan, nước mà Hội nghị đặt trụ sở. Thực tiễn đã cho thấy, Chính phủ Hà Lan luôn sẵn sàng ủng hộ và giới thiệu các ứng cử viên mới cho Hội nghị và chưa từng có một quốc gia nào, khi đã thể hiện nguyện vọng được trở thành thành viên của Hội nghị La-hay, bị Hội nghị từ chối hay không nhận được sự ủng hộ của Chính phủ Hà Lan.[3]  

Theo Điều 15 Hiến chương Hội nghị La-hay, tuyên bố chấp nhận Hiến chương của quốc gia ứng cử viên được gửi tới Chính phủ Hà Lan, sau đó Chính phủ Hà Lan sẽ thông báo tới Chính phủ của tất cả các quốc gia thành viên khác của Hội nghị. Theo truyền thống quốc tế, tuyên bố chấp nhận thường do người đứng đầu Nhà nước hoặc do Bộ Ngoại giao của quốc gia ứng cử viên ký.

Căn cứ vào Điều 7 Hiến chương, mỗi quốc gia thành viên sẽ chỉ định một Cơ quan quốc gia. Cơ quan quốc gia này chịu trách nhiệm làm đầu mối liên hệ giữa quốc gia đó với Ban Thường trực Hội nghị (hay còn có tên gọi khác là Ban Thư ký Hội nghị).  Thông thường, các quốc gia thành viên của Hội nghị thường chọn Bộ Tư pháp hoặc Bộ Ngoại giao là Cơ quan quốc gia làm đầu mối liên hệ với Hội nghị. Ngoài ra, có một số quốc gia thành viên khác lại thành lập một ủy ban ad-hoc chịu trách nhiệm liên hệ với Ban Thư ký Hội nghị.

Nghĩa vụ tài chính của các Quốc gia thành viên

Ngân sách hàng năm của Hội nghị La-hay khoảng 3,6 triệu Euro. Mỗi quốc gia thành viên có nghĩa vụ đóng góp niêm liễn cho Hội nghị và phương pháp tính niêm liễn dựa vào cách tính của hệ thống Bưu chính toàn cầu (UPU). Theo hệ thống này, nếu Việt Nam trở thành thành viên của Hội nghị La-hay, Việt Nam có nghĩa vụ đóng góp 1 đơn vị cho ngân sách chung của Hội nghị, tương đương với 5,638.13 Euro/năm tài chính.Khoản tiền đóng góp chính xác sẽ được xác định hàng năm khi Hội nghị xây dựng Ngân sách cho năm tài chính mới. Ngoài khoản niêm liễn mà Việt Nam phải đóng góp hàng năm như trên, Việt Nam sẽ còn đóng thêm cho Quỹ hỗ trợ luân phiên (Revolving Funds) một khoản tiền đóng duy nhất một lần là 232.90 Euro.

Các khoản đóng góp của các Quốc gia thành viên sẽ được sử dụng nhằm trang trải lương cho các bộ của Hội nghị. Vào năm 2009, Hội nghị đã chuyển từ hệ thống ngân sách sang hệ thống quỹ trợ cấp lương. Tuy nhiên, tại cuộc họp ngày 06 tháng 7 năm 2010, Hội đồng đại diện ngoại giao đã quyết định các thành viên mới của Hội nghị chỉ phải đóng góp cho các nghĩa vụ trợ cấp lương hiện tại và tương lai. Khoản niêm liễn 5,638.13 Euro của Việt Nam nếu tham gia sẽ bao gồm cả phần đóng góp của Việt Nam để trang trải những nghĩa vụ này.  

Các lợi ích của thành viên

Hội nghị là một diễn đàn quốc tế dung hòa giữa các hệ thống pháp luật khác nhau

Với các công cụ pháp lý đa phương là các Công ước La-hay mà Hội nghị đã  soạn thảo và thông qua các phương pháp đánh giá, thẩm định và hỗ trợ quá trình thực hiện các Công ước đa phương đó, Hội nghị La-hay về tư pháp quốc tế được đánh giá là một trong những tổ chức liên chính phủ hoạt động có hiệu quả nhất cả về chuyên môn lẫn hiệu quả về tài chính. Một điều quan trọng là Hội nghị càng ngày càng phát triển và trở thành một diễn đàn tập hợp nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi để thiết lập nên các khuôn khổ hợp tác giữa các hệ thống pháp luật khác nhau đó nhưng vẫn bảo đảm tôn trọng tính đa dạng của từng nền văn hóa pháp lý, cho phép duy trì việc hợp tác và phối hợp dựa trên lợi ích của các cá nhân công dân, các gia đình, các doanh nghiệp và pháp nhân khác nhau.           

Các quyết định của Hội nghị dựa trên cơ sở nhất trí của các thành viên. Việc tham gia Hội nghị La-hay là cơ hội để các quốc gia thành viên bày tỏ quan điểm, chính kiến về những vấn đề liên quan đến tư pháp quốc tế, nhằm bày tỏ cam kết của quốc gia mình trong việc tạo điều kiện cho công dân của mình sinh sống trên lãnh thổ của các quốc gia khác, bảo đảm lợi ích của những người yếu thế và hỗ trợ họ bằng cách tạo lập ra các giá trị nhân bản, cũng như cung cấp các tiêu chí về tính bền vững và chắc chắn về mặt pháp lý trong các giao dịch xuyên quốc gia.

Tham gia quyết định chính sách và tương lai của Hội nghị La-hay

Một trong những lợi ích chính và cơ bản khi trở thành Thành viên của Hội nghị La-hay là được tham gia vào Hồi đồng chính sách và công vụ. Hội đồng là một thiết chế họp hàng năm, chỉ đạo các công việc của Hội nghị và của Ban Thư ký. Hội đồng quyết định các vấn đề cần được cả Tổ chức giải quyết, ví dụ như vấn đề xây dựng các công ước mới, xây dựng “luật mềm”, soạn thảo hướng dẫn và tổng hợp các thực tiễn thực hiện các Công ước…. Hội đồng còn xác định chính sách và chiến lược hoạt động cho toàn bộ Tổ chức và cho Hội đồng. Hội đồng là một thiết chế tập hợp các Đại sứ của các Quốc gia thành viên, Hội đồng cũng họp hàng năm để thảo luận và quyết về các vấn đề liên quan đến phân bổ ngân sách và tài chính.

Các dịch vụ hậu gia nhập Công ước

Hội nghị La-hay thường đi tiên phong trong việc hình thành và phát triển các phương pháp đánh giá, giám sát, hỗ trợ việc thực thi các Công ước quan trọng nhất tại từng quốc gia thành viên. Những dịch vụ quan trọng mà các quốc gia thành viên được hưởng bao gồm:

- Hỗ trợ và xây dựng mạng lưới quốc tế các cơ quan trung ương/ các cơ quan có thẩm quyền được chỉ định trong các Công ước;

- Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các quốc gia thành viên về các vấn đề pháp lý liên quan đến thực thi và các vấn đề thực tiễn gặp phải trong quá trình triển khai thực thi Công ước. Khi cần thiết và trong khả năng cho phép về tài chính của Hội nghị,  hỗ trợ kỹ thuật có có thể được cung cấp cho các chuyên gia, các công ty và cá nhân trong quá trình thực hiện;

- Tổ chức các cuộc họp, hình thành các Nhóm/ủy ban đặc biệt để thảo luận và phân tích thực tiễn thực thi Công ước.

Từ năm 2007 tới nay, việc quản lý dịch vụ đào tạo và hỗ trợ được đặt dưới sự bảo trợ của Trung tâm quốc tế về nghiên cứu tư pháp và hỗ trợ kỹ thuật (do Hội nghị La-hay thành lập). Trở thành thành viên của Hội nghị, các nước thành viên sẽ hoàn toàn có quyền được hưởng những dịch vụ mà Trung tâm này tổ chức.

Có thể thấy rằng, Hội nghị La-hay là một Tổ chức quốc tế liên chính phủ hoạt động đơn thuần trong lĩnh vực chuyên môn tư pháp quốc tế, các Công ước do Hội nghị xây dựng ngày càng được nhiều quốc gia tham gia và quan tâm. Thủ tục tham gia Hội nghị đơn giản, nhanh gọn và nghĩa vụ mà quốc gia thành viên phải thực hiện là phù hợp, không tạo ra gánh nặng về mặt pháp lý cũng như tài chính cho các quốc gia thành viên. 

2. Về Công ước tống đạt giấy tờ

Tổng quan về Công ước

Công ước về tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại năm 1965 là công cụ quan trọng để hợp tác để truyền tài liệu tống đạt từ một nước thành viên đến một nước thành viên khác.

Công ước về tống đạt là công ước đa phương quan trọng nhất trong lĩnh vực tống đạt ra nước ngoài, với 62 quốc gia thành viên bao gồm những nước lớn như Ấn độ, Trung Quốc, Hoa Kỳ và tất cả các nước thành viên của Liên minh Châu Âu trừ Áo và Man-ta. Đặc biệt CHLB Đức và Hoa Kỳ là những nước được yêu cầu thực hiện nhiều hồ sơ ủy thác tư pháp mà Việt Nam chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước này.

Công ước về Tống đạt giấy tờ quy định quy trình để các quốc gia thành viên có thể đơn giản hóa phương pháp chuyển giao giấy tờ cần ủy thác ra nước ngoài, hình thành hệ thống thông báo các giấy tờ tới địa chỉ cần ủy thác một cách kịp thời và tạo điều kiện để việc ủy thác có hiệu quả thông qua việc cung cấp mẫu giấy chứng nhận tống đạt mà không làm ảnh hưởng đến quy định pháp luật trong nước và cũng không ngăn cản việc ký kết các điều ước quốc tế song phương giữa các quốc gia thành viên. Công ước đã quy định rất rõ, sau khi Cơ quan trung ương của nước được yêu cầu nhận được yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp thì việc thực hiện ủy thác sẽ được thực hiện theo quy trình, thủ tục của pháp luật trong nước hoặc theo một phương thức cụ thể do nươc yêu cầu đề nghị song phải phù hợp với pháp luật của nước được yêu cầu. Nói cách khác, Công ước này không gây trở ngại cho pháp luật trong nước và không yêu cầu các quốc gia thành viên phải đưa ra phương thức hoặc mô hình tống đạt mới mà chỉ thay đổi cách thức gửi/kênh chuyển giao giấy tờ tư pháp và/hoặc ngoài tư pháp của các quốc gia thành viên.

Theo đánh giá của các quốc gia thành viên, các quy định của Công ước La-hay về Tống đạt giấy tờ được thực hiện rất phổ biến, không gặp trở ngại nào và hầu như các quốc gia thành viên không phải sửa đổi pháp luật trong nước. Cũng theo số liệu mà Ban Thư ký đã thống kê, cách thức tống đạt theo quy định của Công ước nhanh và hiệu quả hơn rất nhiều lần so với cách thức tống đạt không theo Công ước. Cụ thể là, 70% số lượng yêu cầu của các quốc gia thành viên được thực hiện có kết quả chỉ trong thời gian khoảng 2 tháng.

Thực tiễn thi hành Công ước tống đạt giấy tờ ở Hà Lan

Ở Hà Lan, việc tống đạt giấy tờ được thực hiện có kết quả trong thời gian trung bình là 3 tuần. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là việc ủy thác điện tử đã góp phần không nhỏ vào việc rút ngắn thời gian và nguồn lực để triển khai thực hiện việc tống đạt. Con số thống kê nói trên của Ban Thư ký cũng như của Văn phòng Công tố La-hay thực sự gây ấn tượng đối với các thành viên trong Đoàn Việt Nam bởi lẽ, hiện nay, việc thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam đang gặp nhiều ách tắc, chủ yếu là chậm ở khâu chuyển hồ sơ giữa các cơ quan, kể cả trong nước và nước ngoài.

Thủ tục gia nhập Công ước

Việt Nam có thể tham gia Công ước tống đạt bằng phương thức gia nhập.

Để gia nhập Công ước, nước yêu cầu gia nhập phải đệ trình tài liệu gia nhập tại Bộ ngoại giao Hà Lan. Công ước chỉ có hiệu lực đối với nước gia nhập khi các nước thành viên phê chuẩn Công ước trước nước này không phản đối và sự không phản đối này được thông báo cho Bộ ngoại giao Hà Lan trong vòng 6 tháng sau ngày Bộ Ngoại giao Hà Lan được thông báo về việc gia nhập. Tại thời điểm gửi tài liệu phê chuẩn hoặc gia nhập hoặc ngày sau đó, nước gia nhập sẽ thông báo cho Bộ ngoại giao Hà Lan những vấn đề sau:

· Việc chỉ định một cơ quan trung ương, cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan khác nếu có;

· Việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền hoàn chỉnh giấy chứng nhận khẳng định rằng tài liệu đã được tống đạt theo mẫu trong phụ lục Công ước này;

· Việc chỉ định cơ quan có thẩm quyền nhận tài liệu chuyển qua con đường lãnh sự.

Tiếp đó, Bộ ngoại giao Hà Lan sẽ thông báo cho các nước liên quan về các vấn đề quy định tại Điều 31 của Công ước.

Khi không có nước nào phản đối sự gia nhập của nước mới đối với Công ước tống đạt, Công ước này sẽ có hiệu lực đối với Nước gia nhập vào ngày đầu tiên của tháng tiếp sau thời điểm hết hạn 6 tháng nêu trên.

Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi tham gia Công ước

Những thuận lợi

Nếu Việt Nam tham gia Công ước thì việc tống đạt giấy tờ và tài liệu tư pháp cũng như ngoài tư pháp sẽ hiệu quả hơn, nhanh hơn (hơn 70% yêu cầu được thực hiện trong 2 tháng, một số nước như Mỹ, Ca-na-đa, Cô-oét chỉ trong một tháng, đôi khi thậm chí chỉ trong 48 giờ), chắc chắn hơn so với việc tống đạt qua các kênh truyền thống, việc kiện tụng có yếu tố nước ngoài ít tốn kém hơn. Là một phần của Công ước, Việt Nam sẽ tham gia vào một quy trình chuyển tài liệu tống đạt và các mẫu giấy tờ tài liệu được tạo lập và hoạt động trôi chảy trên toàn cầu, hầu như không có những khó khăn lớn, thực tế khi vận hành Công ước. Mặt khác, việc tham gia Công ước góp phần vào khuyến khích sự phát triển khuôn khổ hợp tác pháp lý đáp ứng yêu cầu cụ thể của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.

Việc sử dụng Công ước Tống đạt là vấn đề được quan tâm, chú ý tại Hội nghị Châu Á Thái Bình Dương lần thứ ba. Tại kết luận và khuyến nghị của Hội nghị này có ghi: “việc hợp tác tư pháp được thúc đẩy và tăng cường để tăng số lượng các cá nhân và pháp nhân tham gia vào các hoạt động xuyên quốc gia. Công ước tống đạt là một công cụ chủ yếu để hợp tác tư pháp quốc tế và việc kiện tụng có yếu tố nước ngoài, đặc biệt cung cấp một kênh chuyển tài liệu ra nước ngoài nhanh và hiệu quả.”

Công ước về tống đạt không ảnh hưởng đến những quy định của luật trong nước của nước thành viên Công ước về vấn đề tống đạt.

Nếu là thành viên của Công ước, việc tống đạt sẽ không thu phí cho việc tống đạt theo Công ước trừ trường hợp tống đạt bằng một biện pháp cụ thể theo yêu cầu của nguyên đơn.

Từ thực tiễn thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự giữa Việt Nam và các nước trong thời gian qua[4] đã cho thấy rằng, cùng với việc hoàn thiện hơn nữa pháp luật trong nước (ban hành Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao nhằm thực hiện một số quy định của Luật tương trợ tư pháp đối với thủ tục và quy trình để thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự giữa Việt Nam với nước ngoài) và rà soát và sửa đổi các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký giữa Việt Nam và một số nước, đặc biệt là các nước XHCN trước đây, việc tham gia Công ước về tống đạt giấy tờ sẽ góp phần không nhỏ cho việc giải quyết các hồ sơ ủy thác tư pháp bị tồn đọng như con số đã thống kê trong Báo cáo Chính phủ (chưa đến 1% tổng số hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự được thực hiện có kết quả), đồng thời góp phần giảm bớt rất nhiều kinh phí cũng như nguồn lực và thời gian cho việc tiến hành đàm phán song phương với từng quốc gia riêng lẻ.

Từ số lượng các nước tham gia Công ước ngày càng tăng, đặc biệt là các nước có nền kinh tế chuyển đổi và xu thế hội nhập toàn cầu nói chung, Việt Nam tham gia Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ sẽ tạo một bước chuyển biến đột phá trong công tác tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước.

Những khó khăn

Về cơ bản, việc gia nhập Công ước là rất thuận lợi. Tuy nhiên, một khó khăn lớn là việc hiểu sâu về Công ước là rất hạn chế. Việc tìm hiểu thực tiễn thi hành Công ước của các quốc gia liên quan trên thế giới (những quốc gia có nhiều yêu cầu tống đạt từ Việt Nam) là rất cần thiết, để đảm bảo có những quy định bảo lưu phù hợp trong quá trình đàm phán gia nhập Công ước.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng khó khăn trên đây không phải là khó khăn cơ bản đối với Việt Nam khi gia nhập Công ước. Vấn đề chỉ còn là Việt Nam cần phải nghiên cứu thật kỹ kinh nghiệm của các nước trong vấn đề bảo lưu một số điều khoản bất lợi hoặc chưa thực sự phù hợp với pháp luật hoặc thực trạng thực thi pháp luật trong nước (nếu có). 

3. Về Công ước miễn hợp pháp hóa giấy tờ (The Apostille Convention)

Tổng quan về Công ước

Trong các buổi làm việc với Ban Thư ký và Tòa án khu vực La-hay, Đoàn công tác liên ngành đã được giới thiệu và trực tiếp tham khảo quy trình xem xét và cấp chứng nhận miễn hợp pháp hóa giấy tờ theo quy định của Công ước La-hay.

Công ước La-hay về miễn hợp pháp hóa giấy tờ có số lượng các nước thành viên đông nhất (99 nước) so với các công ước La Hay khác, Các quốc gia đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam hoặc các nước nơi có đông công dân Việt Nam sinh sống và làm việc mà Việt Nam mong muốn ký Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại như Hoa Kỳ, Ôxtrâylia, Canada, Nhật Bản… đều tham gia Công ước này.  Trong số các nước thành viên ASEAN có Brunei  tham gia Công ước này từ năm 1987. Hiện tại In-đô-nê-xia, Ma-lay-xia và Phi-lip-pin, một số nước khu vực Nam Mỹ cũng đang tích cực nghiên cứu việc tham gia Công ước này. Như vậy, có thể thấy rõ ràng, các nước ASEAN và các nước đang phát triển có xu thế gia nhập Công ước đa phương quan trọng này.

Theo quy định của Công ước, các nước thành viên sẽ miễn cho nhau thủ tục hợp pháp hóa đối với các giấy tờ công thuộc phạm vi của Công ước đem sử dụng tại lãnh thổ của một quốc gia thành viên khác. Để giấy tờ có thể sử dụng tại lãnh thổ của một quốc gia thành viên khác, các giấy tờ đó phải được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia thành viên gốc cấp Chứng nhận miễn hợp pháp hóa (Apostille).

Mục đích của Công ước

Công ước được xây dựng nhằm đơn giản hóa thủ tục chứng nhận tính xác thực của giấy tờ công đem sử dụng ở nước ngoài bằng việc tạo ra quy trình hợp pháp hóa một cửa (one-stop process): các giấy tờ sau khi được nước gốc cấp Chứng nhận miễn hợp pháp hóa sẽ được sử dụng trực tiếp tại nước đến mà không cần phải qua thủ tục hợp pháp hóa tại nước đến nữa.

Việc phản đối việc gia nhập Công ước

Khác với các nước sáng lập (tham dự phiên họp thứ 9 của Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế là Ai-xơ-len, Ai-len, Công quốc Lich-ten-xtai và Thổ Nhĩ Kì), các quốc gia mong muốn gia nhập Công ước khác có thể bị các nước đã là thành viên Công ước từ chối; trong trường hợp này thì Công ước sẽ chỉ có hiệu lực giữa nước gia nhập và những nước không phản đối việc gia nhập đó.

Thủ tục gia nhập Công ước

Thủ tục gia nhập Công ước miễn hợp pháp hóa giấy tờ có quy trình tương tự như quy trình gia nhập Công ước Tống đạt giấy tờ như đã sẽ trình bày ở phần 3.2 trên đây.

Chương trình Chứng nhận miễn hợp pháp hóa điện tử (e-APP) thử nghiệm

HCCH phối hợp với Hiệp hội công chứng quốc gia Hoa Kỳ phát động chương trình này năm 2006 với hai phần: (i) Cấp và sử dụng Chứng nhận miễn hợp pháp hóa điện tử (e-Apostilles); (ii) xây dựng và vận hành hệ thống đăng ký Chứng nhận điện tử (e-registers).

Mục đích của Chương trình trên là nhằm nâng cao tính an toàn và tạo ra công cụ hiệu quả chống lại gian lận đối với Chứng nhận miễn hợp pháp hóa; giúp nước nơi giấy tờ được sử dụng có thể xác minh nguồn gốc của Chứng nhận miễn hợp pháp hóa cũng như giấy tờ được chứng nhận một cách dễ dàng và an toàn qua mạng mà không cần phải liên hệ trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền đã cấp Chứng nhận đó.

Thực tiễn cấp Chứng nhận miễn hợp pháp hóa tại La-hay

Ở Hà Lan, thẩm quyền cấp Chứng nhận miễn hợp pháp hóa thuộc về các Tòa án cấp khu vực. Ban thư ký đã thu xếp cho Đoàn thăm và làm việc với Tòa án khu vực Lahay- Rechtbank s`Gravenhage. Cán bộ phụ trách vấn đề cấp chứng nhận miễn hợp pháp hóa giấy tờ của Tòa án khu vực La-hay cho biết tại Tòa án này, có từ 8 đến 10 người có thẩm quyền ký Chứng nhận miễn hợp pháp hóa. Trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm Tòa án này đã cấp khoảng hơn 20 ngàn giấy chứng nhận miễn hợp pháp hóa, mỗi ngày Tòa án cấp khoảng hơn 100 chứng nhận cho công dân và tổ chức có yêu cầu và mỗi chứng nhận miễn hợp pháp hóa giấy tờ được thực hiện chỉ trong thời gian 5 phút, có thể trả kết quả qua đường bưu điện. Chứng nhận miễn hợp pháp hóa được làm trên phần mềm Word, sử dụng những dữ liệu điện tử, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau (tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha và Hà Lan). Song song với việc cấp Chứng nhận miễn hợp pháp hóa, Hà Lan vẫn làm thủ tục cấp hợp pháp hóa đối với các giấy tờ để sử dụng tại các nước chưa là thành viên Công ước miễn hợp pháp hóa và cho những người có yêu cầu.

Trong khi tại Hà Lan, Tòa án khu vực là cơ quan có thẩm quyền cấp chứng nhận miễn hợp pháp hóa giấy tờ cũng như cấp chứng nhận hợp pháp hóa giấy tờ, ở nhiều nước khác cơ quan có thẩm quyền thực hiện công việc này có thể là Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục hoặc bất kỳ cơ quan nào do pháp luật quốc gia đó quy định. Điều này hoàn toàn phù hợp với Công ước La-hay về Miễn hợp pháp hóa giấy tờ vì Công ước này đã quy định các quốc gia thành viên tự xác định cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc cấp chứng nhận miễn hợp pháp hóa giấy tờ công vụ. Về quy trình trong nước, việc chứng nhận miễn hợp pháp hóa giấy tờ công vụ (đối với các trường hợp áp dụng theo Công ước La-hay về miễn hợp pháp hóa giấy tờ công vụ) và việc chứng nhận hợp pháp hóa (đối với các trường hợp không áp dụng Công ước) không có nhiều khác biệt, cụ thể trong cả hai quy trình, cán bộ cấp chứng nhận chỉ chứng thực chữ ký và thẩm quyền của người ký giấy tờ mà không xem xét về nội dung giấy tờ. Tại Tòa án khu vực La-hay, việc cấp chứng nhận miễn hợp pháp hóa giấy tờ công vụ và chứng nhận hợp pháp hóa lãnh sự đều được hỗ trợ bởi một phần mềm điều hành và hệ cơ sở dữ liệu về tên, tuổi, chức danh, địa chỉ, chữ ký của những cán bộ có thẩm quyền để ký các loại giấy tờ công vụ (trong đó bao gồm cả cơ sở dữ liệu tương tự của các công chứng viên, biên/phiên dịch viên hoặc các chức danh được cấp chứng chỉ hành nghề và có thẩm quyền khác). Tương tự như trong việc triển khai thực hiện Công ước La-hay về tống đạt giấy tờ, việc ứng dụng công nghệ thông tin, trong đó có áp dụng việc cung cấp chứng nhận miễn hợp pháp hóa điện tử, đăng ký điện tử các giấy tờ đã miễn hợp pháp hóa (E-APP) đã góp phần rất lớn trong việc triển khai thực hiện Công ước La-hay về miễn hợp pháp hóa giấy tờ công vụ.

Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi tham gia Công ước

Những thuận lợi

Những thông tin và số liệu thống kê mà Đoàn cán bộ liên ngành được trực tiếp tham khảo, tìm hiểu và thu nhận đã cho thấy rằng, tương tự như Công ước La-hay về Tống đạt giấy tờ với 62 quốc gia thành viên, Công ước Miễn hợp pháp hóa giấy tờ công vụ với 99 quốc gia thành viên đã được thực hiện hiệu quả trên thực tế trong nhiều năm qua. Công ước này góp phần rất lớn trong việc rút ngắn và đơn giản hóa thủ tục, chuẩn hóa quy trình và biểu mẫu giấy tờ thực hiện, góp phần giảm tải rất nhiều thời gian, nguồn lực về tài chính và con người, tạo điều kiện để thúc đẩy các quan hệ dân sự và thương mại giữa các quốc gia một cách hiệu quả, không cản trở và làm thay đổi pháp luật của các quốc gia cũng như không hạn chế việc các quốc gia và khu vực ký kết các hiệp định song phương.

Với những ưu thế đó, trong xu thế hội nhập kinh tế, thương mại và đầu tư ngày càng sâu rộng của Việt Nam với thế giới, Việt Nam cần tích cực nghiên cứu và có những đề xuất cụ thể về việc tham gia vào “sân chơi” này. 

Những khó khăn

Tuy về cơ bản việc tham gia Công ước Miễn hợp pháp hóa giấy tờ công vụ có rất nhiều điểm thuận lợi, song còn một số băn khoăn về phạm vi “loại giấy tờ công vụ” được miễn hợp pháp hóa. Trên thực tế, Việt Nam mới miễn hợp pháp hóa một số loại giấy tờ trong tương trợ tư pháp chứ chưa miễn hợp pháp hóa TẤT CẢ các loại giấy tờ công vụ. Việc nghiên cứu các điều khoản bảo lưu của Công ước hoặc sửa đổi pháp luật trong nước (nếu có) về vấn đề này sẽ phải được nghiên cứu sâu hơn.

Thứ hai, do tình trạng giấy tờ giả mạo còn nhiều nên nhiều nước đã e ngại về tính xác thực của giấy tờ công vụ của các cơ quan Việt Nam cung cấp. Do vậy, việc Việt Nam gia nhập Công ước này có thể sẽ vấp phải sự phản đối của một vài quốc gia, và nếu như vậy thì Công ước sẽ chỉ được áp dụng giữa Việt Nam và những quốc gia không phản đối chứ không thể áp dụng với tất cả các quốc gia thành viên khác.

Đây là những khó khăn cơ bản (nhưng không phải là khó khăn không thể giải quyết) mà Việt Nam cần tìm cách tháo gỡ nếu quyết tâm tham gia Công ước này.

4. KIẾN NGHỊ

Trong hơn 5 năm qua, Việt Nam đã bắt đầu tham gia một số phiên họp của Hội nghị La-hay trên phạm vi toàn cầu và khu vực châu Á – Thái Bình Dương với tư cách khách mời hoặc quan sát viên. Việt Nam đã bước đầu tìm hiểu về khuôn khổ Hội nghị La hay về tư pháp quốc tế và một số Công ước liên quan, với việc Việt Nam gia nhập Công ước La hay 1993 về bảo vệ trẻ em hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi thì Việt Nam đã thực sự tham gia vào khuôn khổ pháp luật quan trọng này.

Công cuộc cải cách pháp luật và cải cách tư pháp cũng như nhu cầu hội nhập quốc tế đã đặt ra cho Việt Nam yêu cầu cần nghiên cứu nghiêm túc khuôn khổ Hội nghị La hay về tư pháp quốc tế và những Công ước La hay có liên quan.

4.1 Về việc gia nhập Hội nghị La-hay về tư pháp quốc tế

Hội nghị La-hay về tư pháp quốc tế là một Tổ chức quốc tế liên chính phủ có uy tín trên phạm vi toàn cầu, ngày càng tỏ ra là một thiết chế hiệu quả, thiết thực và thu hút được nhiều quốc gia tham gia. Với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ nhưng đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho các nước thành viên tham gia, nghĩa vụ đóng góp của các nước thành viên là nhỏ so với những lợi ích mà các nước thành viên thu nhận được từ các hoạt động và dịch vụ hỗ trợ của Hội nghị.

Việc tham gia Hội nghị La-hay là một cơ hội để các quốc gia thành viên được trao đổi kinh nghiệm và vướng mắc trong quá trình thực hiện các Công ước La-hay, được cùng nhau thảo luận và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế và tư pháp quốc tế, đặc biệt là các quốc gia thành viên của Hội nghị sẽ được hưởng những hỗ trợ và dịch vụ hậu gia nhập các Công ước La-hay.

Việc tiến hành các bước tiếp theo để sớm gia nhập Hội nghị La hay về tư pháp quốc tế là cần thiết, cụ thể là ưu tiên việc gia nhập Hội nghị này để tạo tiền đề thuận lợi cho Việt Nam tiếp tục nghiên cứu khả năng gia nhập các Công ước cụ thể liên quan đến Tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại cũng như các Công ước khác liên quan đến bảo vệ quyền và lợi ích của các công dân nhằm thúc đẩy tiếp cận tòa án tại Việt Nam.  

4.2. Về việc nghiên cứu gia nhập Công ước tống đạt giấy tờ

Công ước tống đạt giấy tờ là Công ước cực kỳ quan trọng đối với hoạt động tương trợ tư pháp trong bối cảnh kết quả ủy thác tư pháp của Việt Nam ra nước ngoài đạt tỷ lệ rất thấp nên Việt Nam cần nghiên cứu gia nhập sớm. Việc tìm hiểu nội dung Công ước, quá trình gia nhập, các điều khoản bảo lưu của Công ước là hết sức quan trọng. Việc nghiên cứu, đề xuất gia nhập Công ước này cần được ưu tiên sau khi tham gia Hội nghị La hay về tư pháp quốc tế.

4.3.  Về việc nghiên cứu gia nhập Công ước miễn hợp pháp hóa giấy tờ

Công ước miễn hợp pháp hóa giấy tờ: Việc trở thành thành viên Công ước nêu trên rất có lợi đối với Việt Nam, do Việt Nam có đông công dân làm ăn, sinh sống ở nước ngoài có nhu cầu sử dụng giấy tờ Việt Nam tại các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại. Việc miễn hợp pháp hóa sẽ giảm bớt khối lượng lớn các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, có thể lường trước khó khăn đầu tiên và cơ bản của ta khi đặt ra vấn đề tham gia Công ước này đó là khả năng đảm bảo tính xác thực của các giấy tờ công của ta để được các nước thành viên khác chấp nhận.

Hà Ngọc Thủy Phương

Tháng 02 năm 2011


[1] Hiến chương của Hội nghị La-hay về tư pháp quốc tế được 16 quốc gia tham gia đầu tiên soạn thảo  và ký gia nhập (Áo, Anh, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, CHLB Đức, Hà Lan, I-ta-lia, Luc-xăm-bua, Na Uy, Nhật Bản, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Thụy Sỹ). Hiến chương của Hội nghị  có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 7 năm 1955 cho tới nay.

[2] Việt Nam ký gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế vào ngày 07 tháng 12 năm 2010. Hiện nay, Công ước này chưa được Việt Nam phê chuẩn.

[3] Tuyên bố chấp nhận thể hiện nguyện vọng gia nhập Hội nghị La-hay và kêu gọi sự ủng hộ từ Chính phủ Hà Lan đã được làm thành mẫu và có thể truy cập dễ dàng tại Cổng thông tin của Hội nghị La-hay về tư pháp quốc tế và tại Cổng thông tin của Bộ Ngoại giao Hà Lan.

[4] Xem Báo cáo về tình hình thực hiện Luật Tương trợ tư pháp giai đoạn 2007 – 2010 của Bộ Tư pháp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.