Nhu cầu cấp thiết của việc ban hành chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp

02/12/2009
Ngày 30/11/2009, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã ký Tờ trình số 49/TTr-BTP của Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp.

Theo Bộ Tư pháp, trên cơ sở tổng hợp báo cáo của các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các tổ chức đại diện của doanh nghiệp [1] cho thấy, trong thời gian qua, về phía doanh nghiệp, trình độ hiểu biết luật pháp và ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận chủ sở hữu và người quản lý chưa cao; nhiều doanh nghiệp còn làm ăn không trung thực, cố tình vi phạm quy định pháp luật.... Trong tổng số 413.000 doanh nghiệp hiện nay [2] thì có đến 95% trong số này là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong tổng số 95% doanh nghiệp nhỏ và vừa này thì có trên 50% là doanh nghiệp nhỏ và nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ, vì vậy, các doanh nghiệp này thường chỉ quan tâm đến các vấn đề thị trường, mặt hàng, sản phẩm, lợi nhuận... mà chưa thực sự quan tâm đến các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, rủi ro pháp lý luôn luôn là nguy cơ tiềm ẩn đối với doanh nghiệp, ảnh hưởng tới lợi ích của doanh nghiệp và việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Nhằm tạo điều kiện cần thiết để doanh nghiệp thực thi tốt pháp luật, hạn chế rủi ro pháp lý trong kinh doanh và tăng cường sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 28/5/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 66/2008/NĐ-CP quy định các nội dung, hình thức và phương thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Nghị định quy định hai phương thức hỗ trợ pháp lý của nhà nước đối với doanh nghiệp, đó là:

Phương thức thứ nhất, hỗ trợ thường xuyên thông qua 5 hình thức: xây dựng và khai thác các cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng tài liệu giới thiệu, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật; bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp; giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp và tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật (từ Điều 7 đến Điều 11 Nghị định số 66).

Phương thức thứ hai, hỗ trợ doanh nghiệp thông qua việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, bao gồm: Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành và chương trình hỗ trợ pháp lý của Bộ, ngành và các địa phương (Điều 12).

Tuy nhiên, theo ý kiến của các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các tổ chức đại diện của doanh nghiệp thì việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo phương thức thứ nhất chưa tạo được bước đột phá nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp về hỗ trợ pháp lý trong giai đoạn hiện nay vì những lý do chủ yếu như sau:

Thứ nhất, hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa được thực hiện một cách đồng bộ và có hệ thống. Một bộ phận cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự quan tâm đến công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Vì vậy, cần xây dựng và triển khai chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp để có nguồn lực triển khai một cách bài bản, thu hút sự quan tâm của các cơ quan, tổ chức đối với công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp thực thi tốt pháp luật;

Thứ hai, đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn ít về số lượng, chưa thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và kỹ năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, đa số cán bộ làm việc kiêm nhiệm nên chất lượng công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiện nay chưa cao;

Thứ ba, kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu tập trung, chưa được thực hiện một cách đồng bộ trên cả nước, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác này;

Thứ tư, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ pháp lý chưa được đồng bộ, chặt chẽ và hiệu quả, dẫn đến tình trạng bỏ trống nhiều địa bàn hoặc không đáp ứng được yêu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là doanh nghiệp ở các địa bàn kinh tế,  xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn rất khó tiếp cận với dịch vụ tư vấn pháp luật.

Đối với phương thức thứ hai, việc hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp thông qua các chương trình hỗ trợ pháp lý cũng chưa được các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quan tâm, đầu tư đúng mức. Trên thực tế, các Chương trình, Đề án đã được ban hành từ trước đến nay chủ yếu chỉ tập trung vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung hoặc một số lĩnh vực pháp luật cụ thể như pháp luật về lao động, sở hữu trí tuệ ...[3] mà chưa có một Đề án, Chương trình toàn diện về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Việc xây dựng một chương trình toàn diện về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp sẽ tập trung nguồn lực, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện trên phạm vi toàn quốc, đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay.

Từ thực trạng nêu trên, theo ý kiến của Bộ Tư pháp, các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các tổ chức đại diện của doanh nghiệp nhất trí cao về sự cần thiết xây dựng Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành để ưu tiên nguồn lực, tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện thúc đẩy hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cần thiết để doanh nghiệp thực thi tốt pháp luật, đáp ứng yêu cầu phòng, chống, giảm thiểu rủi ro pháp lý, giúp doanh nghiệp tăng cường năng lực cạnh tranh và sản xuất, kinh doanh hiệu quả.

Từ các lý do trên cho thấy, việc xây dựng Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp là cần thiết nhằm giải quyết các vấn đề chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tăng cường năng lực cho các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua các hoạt động như: bố trí, bồi dưỡng cán bộ; đầu tư cơ sở vật chất, hỗ trợ trang thiết bị cho các cơ quan này;

Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận với thông tin pháp lý [4]; khắc phục tình trạng doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận với văn bản quy phạm pháp luật;  

Thứ ba, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp[5], tạo thói quen chủ động tìm hiểu và sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật để giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp;

Thứ tư, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp thông qua việc cập nhật thường xuyên, có hệ thống kiến thức pháp luật cho họ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ pháp chế doanh nghiệp có đủ trình độ, năng lực và kiến thức pháp luật để tư vấn cho người quản lý doanh nghiệp;

Thứ năm, xây dựng và hình thành mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn nhằm giúp các doanh nghiệp ở các địa phương này được tiếp cận với dịch vụ tư vấn pháp luật, đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh, góp phần thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước về đầu tư phát triển đồng đều các vùng trong cả nước.

Hoạt động của Chương trình được xác định cụ thể theo 03 dự án sau đây:

Dự án 1: Tăng cường năng lực cho các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp

Nội dung của dự án này nhằm hỗ trợ cho các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các Bộ, ngành Trung ương, địa phương và tổ chức đại diện cho doanh nghiệp để có đủ năng lực thực hiện chức năng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo quy định của Nghị định số 66.

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang triển khai ‘‘Đề án củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước” (ban hành kèm theo Quyết định số 270/QĐ-TTg  ngày 27/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ); Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang triển khai ‘‘Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp từ năm 2009 đến 2012” (ban hành kèm theo Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg ngày 24/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ), đây là các hoạt động có liên quan đến Dự án 1, tuy nhiên, đối tượng, phạm vi và nội dung các hoạt động của các đề án này không trùng lặp với Chương trình. Để tăng cường hiệu quả của các Đề án, sau khi Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp được phê duyệt, Ban Chỉ đạo sẽ phối hợp, tận dụng tối đa nguồn lực, lồng ghép các hoạt động của các Đề án với các nội dung của Chương trình để đảm bảo kết hợp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư của nhà nước.

Dự án 2: Hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạt động thông tin pháp lý cho doanh nghiệp

Trên thực tế, hoạt động thông tin pháp lý cho doanh nghiệp còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Việc cập nhật, thông tin pháp luật một cách kịp thời có hệ thống sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc nắm bắt và tuân thủ, thực thi pháp luật đáp ứng yêu cầu của hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời góp phần nâng cao ý thức pháp luật, thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật của người quản lý doanh nghiệp.

Xuất phát từ nhu cầu trên, Dự án về thông tin pháp luật cho doanh nghiệp gồm các hoạt động: điều tra, khảo sát, đánh giá hoạt động thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; hỗ trợ phát triển một số trang thông tin điện tử của các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức được cộng đồng doanh nghiệp sử dụng, bao gồm việc phát triển trang thông tin  chính thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; hỗ trợ các chương trình phổ biến pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp trên một số phương tiện phát thanh, truyền hình; tổ chức các hội thảo, diễn đàn, toạ đàm về các chuyên đề pháp luật kinh doanh nhằm trao đổi kinh nghiệm, khuyến cáo các doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật.

Dự án 3: Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên một số hoạt động cụ thể

Theo tổng kết cho thấy, một bộ phận lớn người quản lý doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn hạn chế kiến thức về pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế chưa có hoạt động hỗ trợ cần thiết trong lĩnh vực này. Thời gian vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2004-2008 và Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp từ năm 2009 đến 2012, tuy nhiên, các Chương trình và đề án trên chỉ nhằm mục đích đào tạo nguồn nhân lực nói chung, cũng như phổ biến pháp luật chủ yếu liên quan đến lĩnh vực pháp luật lao động, an toàn lao động... cho người lao động và người sử dụng lao động mà chưa có các hoạt động hỗ trợ pháp lý một cách toàn diện, có hệ thống cho doanh nghiệp để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đồng thời, theo đánh giá của các cơ quan Nhà nước thì hiện nay, hoạt động dịch vụ tư vấn pháp luật về pháp luật kinh doanh còn nhiều bất cập, đặc biệt là ở các địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tại các địa bàn này đa số các doanh nghiệp đều là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, có nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ, vì vậy, các doanh nghiệp trên rất khó tiếp cận với dịch vụ tư vấn pháp luật. Tính đến ngày 31/12/2008, trên cả nước có 5300 luật sư chủ yếu hành nghề tập trung ở các thành phố lớn như thành phố Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Trong khi đó, tại những địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn [6], luật sư có khả năng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp thiếu về số lượng, hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ.

Từ thực tế nêu trên, Chương trình sẽ triển khai trên một số hoạt động cụ thể nhằm mục đích điều tra, khảo sát, xác định nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên một số lĩnh vực để hỗ trợ cung cấp cho người quản lý doanh nghiệp những kiến thức cơ bản về pháp luật kinh doanh, nâng cao nhận thức của người quản lý doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc tuân thủ pháp luật trong kinh doanh từ đó giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro pháp lý trong kinh doanh. Tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế doanh nghiệp để giúp cán bộ pháp chế, người tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp có đủ năng lực tham mưu cho lãnh đạo doanh nghiệp về các vấn đề có liên quan đến việc thực thi pháp luật trong doanh nghiệp. Hỗ trợ thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, trong đó ưu tiên các địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

Kinh phí thực hiện Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp được bố trí trong dự toán ngân sách hàng năm cho các Bộ, cơ quan Trung ương chủ trì theo quy định của pháp luật về Ngân sách nhà nước và huy động từ sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Tæng kinh phÝ thực hiện Ch­¬ng tr×nh từ năm 2010 – 2012 do Ngân sách nhà nước cấp dự tính là  250 tỷ đồng.

Trần Minh Sơn


[1] Tính đến ngày 30/5/2009, đã có 12 Bộ, 34 Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và 02 tổ chức đại diện cho doanh nghiệp [1] có công văn về thực trạng và nhu cầu hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và đề xuất các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong phạm vi do mình quản lý gửi Bộ Tư pháp tổng hợp vào Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp.

[2] Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Cục phát triển doanh nghiệp) tính đến tháng 6/2009 trên cả nước có khoảng 413.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động.

[3] Quyết định số 68/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ngày 4/4/2005 về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp; Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012); Quyết định số số 143/2004/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2004-2008, Quyết định số 31/2009/QĐ-TTg ngày 24/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp từ năm 2009 đến 2012; Quyết định số 270/QĐ-TTg  ngày 27/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước”.

[4] Theo kết quả điều tra về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức các năm 2005 và 2006 thì có khoảng 30% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng việc tiếp cận với văn bản pháp luật là khó hoặc không thể (theo báo cáo năm 2007, chỉ số này là 25%).

[5] Kết quả điều tra của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy trong số 1237 doanh nghiệp được khảo sát thì có khoảng 70 đến 80% số doanh nghiệp không hiểu hoặc hiểu không đầy đủ các quy định pháp luật cơ bản về kinh doanh; có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về pháp luật.

[6] Gồm 54 địa phương theo Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư.