Diễn đàn đối tác pháp luật thường niên lần thứ Bảy

13/09/2010
Diễn đàn đối tác pháp luật thường niên lần thứ Bảy
Diễn đàn đối tác pháp luật thường niên lần thứ Bảy do Bộ Tư pháp phối hợp Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức vào sáng nay, 13 tháng 9 năm 2010 tại Hà Nội trong khuôn khổ Dự án hợp tác giữa Chính phủ Việt Nam và UNDP “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam”. Diễn đàn là cơ hội để các cơ quan Việt Nam và các đối tác quốc tế cùng nhau trao đổi, thông tin cho nhau về tiến độ thực hiện các chương trình cải cách trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, và thảo luận kế hoạch hợp tác nhằm thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp ở Việt Nam.
 

Tham gia Diễn đàn lần này gồm hơn 160 đại biểu đại diện cho Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, các ủy ban của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ ngành ở trung ương và địa phương, một số Sở Tư pháp địa phương, đại diện giới chuyên gia nghiên cứu pháp luât, luật gia và luật sư trong nước, đại diện các tổ chức quốc tế, các đoàn ngoại giao nước ngoài, các chuyên gia pháp luật quốc tế, các tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế tại Việt Nam. Tham gia và đồng chủ tọa diễn đàn gồm có Ông Hoàng Thế Liên - Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp, ông Nguyễn Văn Hiện - Phó trưởng Ban thường trực Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp trung ương, ông John Hendra – Điều phối viên thường trú của Liên Hợp quốc tại Việt Nam.

Như thường lệ, Diễn đàn đối tác pháp luật là một diễn đàn mở để các cơ quan Việt Nam và các đối tác nước ngoài trao đổi về những thành tựu nổi bật đã đạt được cũng như những thách thức cần phải vượt qua trong việc thực hiện hai Chiến lược cải cách pháp luật và Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam trong năm qua. Hội nghị năm nay tập trung vào trao đổi hai chủ đề chính: (1) Cập nhật thông tin về tình hình thực hiện hai Chiến lược và (2) Giới thiệu về kết quả nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam về cách tiếp cận mới nhằm nâng cao khả năng tiếp cận hệ thống pháp luật và tư pháp, nói rộng và bao quát hơn là nâng cao khả năng tiếp cận công lý, đó là trao quyền pháp lý cho mọi người, trong đó chú trọng tới người nghèo.

Trong phiên thảo luận thứ nhất, các đại biểu thảo luận về một chủ đề truyền thống của Diễn đàn đối tác pháp luật thường niên, đó là cập nhật tình hình thực hiện Chiến lược cải tư pháp tư pháp đến năm 2020 và Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Trong phiên thảo luận này, Diễn đàn được nghe và trao đổi về:

(1) Cập nhật thông tin về tình hình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp. Cụ thể, các đại biểu đã được nghe Ts. Nguyễn Văn Quyền, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Ủy viên thường trực Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương chia sẻ thông tin về tình hình, kết quả công tác cải cách tư pháp từ năm 2009 đến nay và dự kiến một số hoạt động trọng tâm từ nay đến hết năm 2010:

Trên cơ sở định hướng của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, từ năm 2009 đến nay, công tác cải cách tư pháp đã đạt được một số kết quả trong các lĩnh vực:

(1) Hoàn thành việc xây dựng 7 văn bản luật, pháp lệnh và hơn 10 đề án trong lĩnh vực tư pháp; (2) Hoàn thiện một bước nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp; (3) Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp ngày càng đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp; (4) Tổ chức, hoạt động của cơ quan bổ trợ tư pháp và cán bộ bổ trợ tư pháp có nhiều chuyển biến tích cực; (5) Hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật tiếp tục được tăng cường và phát triển với nhiều đối tác truyền thống, song phương và đa phương.

Theo đó, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đề ra một số hoạt động trọng tâm trong thời gian tới như sau: 

·         Thảo luận và cho ý kiến về dự thảo Đề án mô hình tố tụng hình sự Việt Nam; dự thảo Đề án đổi mới và nâng cao chất lượng bồi dưỡng Hội thẩm nhân dân và Đề cương Báo cáo kết quả 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW.

·         Thảo luận và cho ý kiến về Đề án xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý và dự thảo Báo cáo kết quả 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW .

·         Ban Chỉ đạo sẽ họp để xem xét, cho ý kiến các đề án, chương trình sau: Chương trình trọng tâm công tác tư pháp 2011-2015; công tác đào tạo các chức danh tư pháp; về việc thí điểm hay không thí điểm tổ chức toà án nhân dân sơ thẩm khu vực; về một số chủ trương, quan điểm về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự...

·         Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để từng bước triển khai các công việc nêu trong Đề án “Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” vừa được thông qua.

·         Chuẩn bị xây dựng các dự án luật, pháp lệnh liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội.

·         Xây dựng Báo cáo tổng thuật nghiên cứu so sánh hệ thống tư pháp một số nước trên thế giới; xây dựng kế hoạch khảo sát trong nước về thực trạng công tác quản lý hành chính tòa án ở Việt Nam.

(2) Dự thảo Báo cáo của Chính phủ về sơ kết việc triển khai kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hòan thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Phần báo cáo này do GS. Ts. Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý trình bày:

Báo cáo đã tập trung đánh giá khái quát về những thành tựu cơ bản, những hạn chế, bất cập chính và nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, bất cập sau 5 năm triển khai Nghị quyết 48. Nghị quyết 48-NQ/TW đã bước đầu tạo nên những chuyển biến khá cơ bản, tích cực cả về nội dung, hình thức của hệ thống các văn bản pháp luật và kỹ thuật lập pháp làm cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của phát triển kinh tế- xã hội bền vững, hội nhập quốc tế.

Từ kết quả triển khai Nghị quyết 48-NQ/TW tại các Bộ, ngành và địa phương, Chính phủ rút ra 6 bài học kinh nghiệm cơ bản về nhận thức, về công tác chỉ đạo, điều hành, công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW... và đề ra hai nhóm định hướng, giải pháp cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật giai đoạn 2011-2020.

Từ đó, kiến nghị Chính phủ đẩy mạnh triển khai Nghị quyết 48-NQ/TW trong thời gian tới:

·         Chính phủ sẽ dành nhiều thời gian hơn cho việc thảo luận tập thể các dự án luật, các đề xuất pháp luật trước khi trình ra Quốc hội. Chính phủ tập trung xem xét, quyết định những vấn đề mang tính quan điểm, chính sách và những vấn đề liên ngành có ý kiến khác nhau. 

·         Chính phủ chỉ đạo sát sao việc hoàn thiện thể chế về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hợp nhất các luật ban hành văn bản QPPL của Trung ương và địa phương; giao Bộ Nội vụ phối hợp với Bộ Tư pháp nghiên cứu mô hình chuyên nghiệp hoá hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ theo hướng thành lập một cơ quan thuộc Chính phủ hoặc Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm chuyên trách, chủ trì việc “quy phạm hoá” các chính sách do các Bộ, ngành đề xuất và đã được Chính phủ phê duyệt đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

·         Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh các giải pháp về nâng cao hiệu quả công tác thi hành pháp luật, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện thể chế quản lí nhà nước về thi hành pháp luật đảm bảo đồng bộ với hoàn thịên thể chế về xây dựng pháp luật .

Kiến nghị Bộ Chính trị đẩy mạnh triển khai Nghị quyết 48-NQ/TW trong thời gian tới:

·         Kiến nghị những nội dung cụ thể về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 liên quan đến xây dựng nhà nước và pháp luật. Thực tiễn tổ chức thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW cho thấy tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã và đang bộc lộ nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong khi  nhiều định hướng, chủ trương giải pháp cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính đúng đắn nhưng bị giới hạn trong khuôn khổ qui định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), nên chỉ mang tính tình thế, chưa giải quyết một cách triệt để các khiếm khuyết, hạn chế đang tồn tại. Do đó, Chính phủ đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung cơ bản liên quan đến pháp luật và tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến pháp 1992 với những vấn đề cụ thể được nêu trong báo cáo.

·         Ban hành Kết luận về 5 năm thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW, trong đó: cần xác định trách nhiệm của các cơ quan Đảng ở trung ương (Văn phòng Trung ương, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự Đảng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện Kiểm sát nhân dân tối cao..), các cấp uỷ Đảng địa phương trong việc lãnh đạo thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW; đổi mới cơ chế chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện  Nghị quyết 48-NQ/TW nhằm khắc phục những hạn chế trong tổ chức thực hiện Nghị quyết trong 5 năm qua.

·         Tăng cường công tác chỉ đạo, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đặc biệt là việc cần thiết phải thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW tương tự như Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Trưởng ban Chỉ đạo có thể là Chủ tịch Quốc hội, để đảm bảo tính đồng bộ và hiệu quả chung của hai nghị quyết quan trọng và có quan hệ mật thiết với nhau trong lĩnh vực pháp luật, thực thi pháp luật, cải cách tư pháp.

·         Đề xuất tổ chức một Hội nghị TW khoá XI về các chuyên đề (i) tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền (ii) sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992.

·         Chỉ đạo Đảng đoàn Quốc hội một số vấn đề: Nghiên cứu tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng pháp luật ở các giai đoạn của Quốc hội theo hướng tăng cường tính chuyên nghiệp, chuyên trách của các đại biểu Quốc hội; Tăng cường giám sát thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước nhất là giám sát theo chuyên đề đối với các lĩnh vực quản lí nhà nước có nhiều vướng mắc trong thể chế cũng như trong phối hợp tổ chức thực hiện gây ảnh hưởng không tốt đối với đời sống xã hội; Quốc hội cần có giải pháp kiên quyết giảm bớt việc uỷ quyền lập pháp cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để Uỷ ban tập trung thực hiện đúng và đầy đủ chức năng là cơ quan thường trực của Quốc hội giữa hai kỳ họp.

(3) Dự thảo Báo cáo của hai nhóm chuyên gia độc lập nghiên cứu đánh giá về tình hình thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW trong lĩnh vực hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và pháp luật về quyền con người và trong lĩnh vực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. Đây là hai trong số năm nhóm nghiên cứu về kết quả cũng như hiệu quả triển khai Nghị quyết số 48-NQ/TW trong gần 5 năm vừa qua, hai báo cáo kết quả đánh giá do GS.Ts. Trần Ngọc Đường, Chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu lập pháp và  PGS.Ts. Phạm Duy Nghĩa thay mặt các nhóm chuyên gia trình bày và trao đổi với Diễn đàn:

Mục đích của Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW trong lĩnh vực hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước và pháp luật về quyền con người:

·         Góp thêm góc nhìn của nhóm chuyên gia độc lập nhằm đánh giá khách quan quá trình thực hiện Nghị quyết 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam;

·         Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước phải thể chế hoá các quan điểm về “xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; cụ thể hoá đầy đủ nguyên tắc hiến định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền Lập pháp, hành pháp, tư pháp”;

·         Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người cần “xây dựng  ban hành kịp thời, đồng bộ và tổ chức thực hiện các pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về quyền con người, quyền công dân…”, nhiều giá trị tiến bộ của nhân loại về quyền con người trong các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội quy định trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên đã được thừa nhận và từng bước được nội luật hoá. (Nghị quyết số 48);

·         Ưu tiên vào các lĩnh vực:

     ./. Về tổ chức bộ máy nhà nước: Sửa đổi bổ sung một cách căn bản Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi một số điều năm 2001); Sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức chính quyền địa phương theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi; Xây dựng và hoàn thiện các đạo Luật về kiểm soát quyền lực nhà nước (Luật về cơ quan bảo hiến độc lập (Toà án Hiến pháp), Luật về quyền tiếp cận thông tin, Luật giám sát của nhân dân, Luật tố cáo; bổ sung hoàn thiện các Luật hiện có: Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật thanh tra Chính phủ; Luật phòng chống tham nhũng, Luật báo chí); Xây dựng và hoàn thiện các Luật về dân chủ hoá bộ máy nhà nước (Luật về công khai minh bạch tổ chức và hoạt động của nhà nước; Luật trưng cầu dân ý; Luật bảo vệ người đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực trong bộ máy nhà nước; Luật phản biện xã hội và tham vấn nhân dân; Luật dân chủ cơ sở);  Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quy trình thủ tục tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (Xây dựng Luật về quy trình  Lập hiến, Luật về quy trình quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước; sửa đổi bổ sung các Luật về tổ tụng tư pháp (Bộ Luật tố tụng hình sự, Bộ Luật tố tụng dân sự; Luật về thủ tục giải quyết các tranh chấp về lao động, hành chính); Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về công chức, công vụ, chế độ chính sách đối với công chức: Xây dựng Bộ luật về chế độ chính sách đối với cán bộ công chức…

     ./. Về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật thể hoá các quyền hiến định (Xây dựng Luật về quyền lập hội, Luật biểu tình, Luật tiếp cận thông tin, Luật trưng cầu dân ý. Hoàn thiện các Luật về tố tụng dân sự, hình sự, lao động, hành chính); Xây dựng và hoàn thiện pháp luật đối với những nhóm người dễ bị tổn thương (xây dựng Luật về những người khuyết tật; Luật bảo bộ quyền của những người chuyển đối giới tính, đồng tính, lưỡng tính; Luật bảo hộ đối với công dân Việt Nam đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền trẻ em, Luật phòng chống bạo lực trong gia đình; Luật bảo vệ người tiêu dùng; Luật tôn giáo, tín ngưỡng)

Mục đích của Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW trong lĩnh vực hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường:

·         Góp thêm góc nhìn của nhóm chuyên gia độc lập nhằm đánh giá khách quan quá trình thực hiện Nghị quyết 48/NQ-TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

·         Báo cáo tập trung vào việc đánh giá Mục 3, Phần II của Nghị quyết 48, có tiêu đề: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”

·        Ưu tiên vào các lĩnh vực: pháp luật sở hữu, trong đó cần phải xác định rõ hơn và chính xác hơn khái niệm sở hữu toàn dân;  pháp luật tự do kinh doanh và kiểm soát độc quyền, kiểm soát đầu tư công, tài chính công, vai trò và cách tổ chức sự điều tiết của Nhà nước nhằm giải quyết khuyết tật của thị trường vì một nền kinh tế có tính cạnh  tranh cao, phát triển bền vững và bảo đảm phúc lợi xã hội được phân phối công bằng.

(4)  Cập nhật thông tin về tình hình thực hiện Chiến lược Cải cách pháp luật: Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2011 của Quốc hội và những định hướng xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa tới. Phần thông tin này do Ts. Đặng Đình Luyến, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Văn phòng Quốc hội trình bày:

Ts. Đặng Đình Luyến cho biết, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2 (tháng 11/2007), gồm 128 dự án luật, pháp lệnh, trong đó có 93 dự án thuộc Chương trình chính thức (gồm 83 dự án luật, 10 dự án pháp lệnh) và 35 dự án luật thuộc Chương trình chuẩn bị. Với khả năng xem xét, thông qua các dự án luật trong những năm gần đây cho thấy tại mỗi kỳ họp Quốc hội xem xét thông qua được khoảng 10 văn bản luật. Do đó vấn đề đặt ra là cần tổ chức triển khai thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII như thế nào để bảo đảm hiệu quả, bảo đảm tính khả thi cao.

Qua thực tiễn, có một số dự án không được trình đúng tiến độ, không bảo đảm chất lượng là do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là các nguyên nhân chủ quan. Cụ thể là việc chuẩn bị dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh còn chưa sát thực tế, chưa dự báo đầy đủ yêu cầu thực tiễn, vẫn còn có sự nể nang, thiếu kiên quyết của các cơ quan có trách nhiệm trong việc xem xét, quyết định đưa dự án vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, cũng như tổ chức triển khai thực hiện Chương trình. Một số dự án khi đưa vào Chương trình chưa xem xét một cách toàn diện về nội dung, phạm vi điều chỉnh, chưa tính kỹ khả năng, điều kiện thực tế soạn thảo, cho ý kiến, hoàn thiện dự án để các cơ quan có thẩm quyền xem xét thông qua, cũng như chưa tính đến những đặc thù của lĩnh vực cần xây dựng dự án. Bên cạnh đó, một số cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan tham gia soạn thảo chưa dành nhiều thời gian hợp lý và chưa đề cao tinh thần trách nhiệm trong việc chuẩn bị dự án. Một số dự án chuẩn bị không kỹ, không bảo đảm chất lượng. Trong không ít trường hợp sự phối hợp giữa cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và các cơ quan, tổ chức hữu quan chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ. Đây là bài học kinh nghiệm cho việc lập, xem xét thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, cũng như tổ chức triển khai thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.

Trong phiên thảo luận thứ hai, các đại biểu đã nghe các chuyên gia quốc tế và Việt Nam giới thiệu về:

(1)  Báo cáo “Pháp luật cho mọi người” của Ủy ban Trao quyền pháp lý cho người nghèo của Liên hợp quốc do ông Nicholas Booth, Cố vấn về tiếp cận công lý và pháp quyền của UNDP trình bày: 

Ủy ban chuyên trách trao quyền pháp lý cho người nghèo là sáng kiến toàn cầu đầu tiên tập trung đặc biệt vào việc kết nối các vấn đề đói nghèo, các đối tượng bị tách ngoài lề xã hội và pháp luật. Ủy ban do cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Madelaine Albright và nhà kinh tế học người Pê-ru Hernando de Soto đồng chủ tịch. Ủy ban gồm một nhóm các học giả, các cựu nguyên thủ quốc gia, các nhà hoạch định chính sách cấp cao và các tư tưởng gia nổi tiếng đã cùng nghiên cứu vấn đề trao quyền pháp lý cho người nghèo tham gia và cùng xây dựng nên Báo cáo Pháp luật cho mọi người. Báo cáo này đề cập đến các vấn đề có ảnh hưởng to lớn đến tiềm năng và tiến bộ của nhân loại nhằm hướng tới các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.

Như bản Báo cáo đã nêu rõ, có nhiều nguyên nhân mang tính đặc thù của từng quốc gia khiến người nghèo bị đặt ra ngoài sự bảo vệ của luật pháp. Tuy nhiên, có bốn nội dung xuyên suốt đó là:

(i) Việc trao quyền pháp lý sẽ không thể có được trong trường hợp người nghèo không được tiếp cận với một hệ thống tư pháp có hiệu lực.

(ii) Phần lớn người nghèo trên thế giới không có quyền sở hữu tài sản trên thực tế, trong khi đó tiềm năng kinh tế vốn có của những tài sản này vẫn chưa được khai thác.

(iii) Người nghèo, nhất là phụ nữ và trẻ em, phải làm việc trong các điều kiện thiếu an toàn do giới chủ thường hoạt động ngoài phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật chính thức.

(iv) Người nghèo thường không có được các cơ hội về kinh tế vì tài sản và công ăn việc làm của họ không được công nhận về mặt pháp lý. Họ không thể tiếp cận được với các nguồn tín dụng, đầu tư cũng như các thị trường trong nước và quốc tế.     

Báo cáo cũng nhấn mạnh, Công cuộc trao quyền pháp lý không phải là quá trình viện trợ, mà là việc giúp dân nghèo tự thoát khỏi cảnh đói nghèo bằng cách phấn đấu để có những cuộc cải cách về chính sách và thể chế nhằm mở rộng cơ hội và bảo vệ về  mặt pháp lý cho họ.  

“Người nghèo” là từ gọi tắt để chỉ rất nhiều người có thu nhập thấp và phải vật lộn với các vấn đề như đói khổ, ốm yếu và chui rúc ở những nơi ổ chuột. Họ sống ở những làng mạc nông thôn xa xôi hẻo lánh cũng như nhà ổ chuột ở thành phố. Họ là những người ở giúp việc trong gia đình, nông dân cày sâu quốc bẫm, những người lao động nông nhàn, những người bán dạo ngoài đường phố và những người gom rác. Nhiều người trong số họ thuộc các dân tộc ít người không có đại diện - thường là những người di cư trong nước và quốc tế. Họ di chuyển tới một nơi mà họ không có tư cách pháp nhân rõ ràng. Nhiều người phải rời bỏ nhà cửa vì chiến tranh hoặc loạn lạc dân sự. Còn nhiều người khác là những dân bản địa bị xã hội gạt ra bên lề. Dân nghèo đa số là phụ nữ. 

“Chấm dứt tình trạng nghèo đói cùng cực thiết yếu không chỉ là vấn đề thương cảm. Nền kinh tế thế giới sẽ được lợi to lớn từ những đóng góp của những người có khả năng chuyển từ tình trạng phụ thuộc sang tư cách được tham gia đầy đủ… Sứ mệnh của Uỷ ban là rất khó khăn nhưng cũng quan trọng có tính chất sống còn vì đảm bảo quyền pháp lý có thể bổ sung rất nhiều cho kho hậu cần của thế giới trong cuộc đấu tranh đang tiếp diễn nhằm cứu trợ và làm phong phú cuộc sống con người”.

 (2) Tổng quan báo cáo kết quả khảo sát về tiếp cận công lý từ quan điểm của người dân do UNDP tiến hành trong năm 2010 do ông Nguyễn Tiến Lập, đại diện nhóm chuyên gia độc lập trình bày; và

(3) Tổng quan Báo cáo về tiếp cận luật sư và luật sư chỉ định trong các vụ án hình sự ở Việt Nam do Hội Luật gia tiến hành trong khuôn khổ dự án “Tăng cường năng lực của Hội Luật gia Việt Nam” do UNDP hỗ trợ.  

Vào giữa năm 2003, cuộc khảo sát đầu tiên do UNDP tài trợ về nhận thức của người dân về việc tiếp cận công lý tại Việt Nam đã được các nhà tư vấn độc lập tiến hành. Mục đích của cuộc khảo sát là nhằm phỏng vấn một nghìn người dân thuộc các nhóm xã hội khác nhau, sinh sống ở các khu vực địa lý khác nhau để khám phá hai khía cạnh sau:

Trước tiên, những người đã tiếp cận hay thực tế đã tham gia vào hệ thống tư pháp được mời đánh giá về việc tiếp cận công lí dựa trên kinh nghiệm của chính họ; và

Thứ hai, đánh giá của người dân về tiếp cận công lý ở Việt Nam được thu thập từ những người chưa tham gia vào hệ thống tư pháp hay chưa được tiếp cận hệ thống tư pháp. 

Số liệu từ 1000 cuộc phỏng vấn được xử lí, phân tích và trình bày trong Báo cáo “Khảo sát Tiếp cận Công lý từ Quan điểm của Người dân” năm 2004. Báo cáo phác thảo đánh giá của người dân về năm vấn đề chính như sau:

- Tiếp cận thông tin pháp luật

- Tiếp cận các cơ quan pháp luật

- Tiếp cận các tổ chức hỗ trợ

- Các khía cạnh giáo dục, văn hoá và tâm lý ảnh hưởng tới tiếp cận công lí; và

- Cánh giá về những cải cách pháp luật đang diễn ra.

Kể từ báo cáo năm 2004 tới nay, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể. Mục tiêu của cuộc khảo sát năm 2010 trong báo cáo này là nhằm khám phá liệu những thay đổi đó có ảnh hưởng không và nếu có thì ảnh hưởng như thế nào tới tình hình tiếp cận công lý ở Việt Nam và nhận định cũng như đánh giá của người dân về điều đó.

Là một cuộc khảo sát cập nhật của năm 2003, nên phần lớn các phương pháp luận của cuộc khảo sát năm 2010 vẫn tương tự về mặt mẫu bảng hỏi, địa điểm, cấu trúc nhân khẩu học, xử lí số liệu và phương pháp phân tích.

Dựa trên phân tích sơ bộ về số lượng lớn số liệu thu thập được từ cuộc khảo sát này, Nhóm Nghiên cứu đã đi đến một số nhận định và quan sát chung ban đầu như sau:

1. Nhìn chung, nhận thức của người dân về các thể chế pháp luật hiện nay đã tăng lên và đánh giá của người dân về tiếp cận công lí đã thay đổi quan trọng theo chiều hướng tích cực hơn kể từ năm 2003.

2. Trong nhiều câu hỏi chính, người dân ở khu vực nông thôn dường như lạc quan hơn người dân thành thị trong việc đánh giá về tiếp cận công lý.

3. Tỉ lệ người dân nhận thấy hoạt động chung của cơ quan pháp luật là tích cực không tương ứng với tỉ lệ người dân công nhận những thay đổi tích cực của những cơ quan đó trong đánh giá của mình trong vòng năm năm qua. Trong bối cảnh của cải cách pháp luật đang diễn ra, những thay đổi tích cực của các thiết chế pháp luật theo thời gian là điều được mong đợi, điều này chỉ ra một điều thú vị là một mặt hình ảnh chung về cơ quan pháp luật đã và đang đượccải thiện, nhưng mặt khác, sự hài lòng của từng cá nhân người dân với các cơ quan đó chưa tăng lên tương ứng. Nói cách khác, những thay đổi của các thiết chế pháp luật tương ứng có thể vẫn chưa đáp ứng được mong muốn của người dân.

4. Người dân công nhận có sự cải thiện của các thiết chế tư pháp, tuy nhiên những cải thiện đó dường như còn kém rất xa so với cải cách hành chính. 

5. Nhóm yếu thế vẫn gặp bất lợi trong các vụ kiện trước các cơ quan bảo vệ pháp luật mà vẫn không có cải thiện nào kể từ năm 2003 trong khi hoạt động trợ giúp pháp lí chưa được cải thiện như mong đợi.

6. Người dân dường như sẵn sàng tranh đấu để giành được công bằng và xây dựng một xã hội công bằng nhưng cần có những biện pháp đầy đủ hơn từ phía nhà nước để hỗ trợ họ.

7. Báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức xã hội dân sự đóng vai trò ngày càng tăng trong bảo vệ quyền lợi của người dân và đánh giá của người dân về những chế định này ngày càng thay đổi tích cực trong những năm gần đây.

8. So với năm 2003, tỉ lệ người dân có đánh giá tích cực về công cuộc cải cách pháp luật hiện nay dường như đã tăng lên mặc dù trên thực tế thông tin về cải cách pháp luật chưa được phổ biến tới họ một cách tốt hơn.   

(Những nhận định trên đây có tính chất sơ bộ, cần phải được phân tích cũng như nghiên cứu toàn diện và sâu sắc hơn. Kết quả cuối cùng sẽ là một bản phân tích so sánh sâu hơn các vấn đề từ những khía cạnh khác nhau gồm nghề nghiệp, giới tính, thu nhập, trình độ và độ tuổi của người tham gia trả lời).  

Mặc dù thời lượng của Diễn đàn chỉ vẻn vẹn trong nửa ngày, song những vấn đề mang tầm khái quát và vĩ mô phục vụ thiết thực những nhu cầu pháp lý của xã hội đã được thảo luận sôi nổi.  Đặc biệt, các đại biểu quan tâm thảo luận về nội dung và thời gian triển đề án “Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” do Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp trung ương tiến hành. Theo đó, trong thời gian tới, hệ thống các cơ quan tư pháp được đổi mới theo hướng hệ thống tòa án nhân dân được tổ chức thành 4 cấp (Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực; Toà án nhân dân cấp tỉnh; Toà án nhân dân cấp cao; và Toà án nhân dân tối cao) và  hệ thống viện kiểm sát nhân dẫn cũng được tổ chức thành 4 cấp, tương ứng với địa hạt tư pháp từng cấp của hệ thống toà án nhân dân; trong khi đó, hệ thống cơ quan điều tra về cơ bản giữ như hiện nay nhưng được kiện toàn một bước nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra.

Vấn đề sửa đổi Hiến pháp cũng được các đại biểu hết sức quan tâm. Ts. Nguyễn Văn Quyền và Ts. Lê Hồng Hạnh đều cho rằng sửa đổi Hiến pháp là một yêu cầu cấp bách và xã hội đã thấy rõ nhu cầu này. Tuy nhiên, mức độ sửa đổi còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó phụ thuộc vào các vấn đề được đề xuất trong Báo cáo đánh giá của Chính phủ, phụ thuộc vào kết quả nghiên cứu, khảo sát, đánh giá tổng kết việc thực hiện Hiến pháp 1992 để từ đó xác định được các  định hướng và tầm nhìn dài hơn cho vấn đề sửa đổi Hiến pháp. Ngoài ra, quy trình sửa Hiến pháp rất chặt chẽ, phải thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, sau khi có dự thảo Hiến pháp phải đưa ra lấy ý kiến của toàn thể nhân dân. Chính vì những lý do như vậy, mặc dù nhu cầu sửa đổi là rõ ràng song sửa đổi những nội dung nào trong Hiến pháp hiện hành vẫn cần được thận trọng cân nhắc.

Như ông John Hendra – Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc đã chia sẻ: “Năm năm kể từ ngày ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và Chiến lược cải cách tư pháp, cùng với việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11, đây chính là thời điểm thích hợp để phản án những nhu cầu ưu tiên đối với hệ thống pháp luật và tư pháp trong thập kỷ tới. Các tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam cam kết tiếp tục hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tiến hành các nghiên cứu về chính sách để đáp ứng được các yêu cầu và đòi hỏi của quốc gia. Các nghiên cứu này sẽ góp phần bảo đảm chắc chắn rằng Việt Nam sẽ có cơ sở vững chắc và đáng tin cậy để thực hiện các cuộc cải cách một cách hiệu quả”. Ông John Hendra cũng nhấn mạnh rằng, trong quá trình hợp tác với các đối tác Việt Nam, các cơ quan Liên hợp quốc cam kết tiếp tục hỗ trợ duy trì các kênh đối thoại chính sách và trao đổi kinh nghiệm  về cải cách pháp luật và  tư pháp, mà trong đó Diễn đàn đối tác pháp luật là một kênh quan trọng và hiệu quả.

Kết thúc Diễn đàn, Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên và Phó Trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương Nguyễn Văn Hiện kết luận, mức độ và tốc độ cải cách pháp luật và tư pháp hiện nay có nhữngđiểm  khác nhau nhất định nhưng phù hợp với tình hình phát triển của xã hội Việt Nam. Trước đây, chúng ta ưu tiên phát triển kinh tế nhưng tới nay vấn đề phát triển toàn diện là một yêu cầu đã được đặt ra. Trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, vấn đề đổi mới cải tiến bộ máy, thiết chế và tăng cường thực thi pháp luật chính là những ưu tiên trong thời gian tới đây. Qua các báo cáo và thảo luận, Diễn đàn đã có được nhiều thông tin quan trọng về tình hình cải cách tư pháp và pháp luật trong năm 2009-2010 và định hướng thực hiện trong những năm tới đây, sơ kết việc triển khai Nghị quyết 48, thông tin về chương trình xây dựng Luật và pháp lệnh của Quốc hội năm 2011 và trong thời gian tiếp theo. Đặc biệt, các báo cáo của các chuyên gia độc lập đánh giá về tiếp cận công lý, về vai trò của luật sư trong quá trình tố tụng... đã góp phần để thấy rõ hơn  hạn chế và nguyên nhân trong quá trình thực thi và vận dụng pháp luật để từ đó, đề ra các giải pháp đẩy mạnh công tác cải cách pháp luật và tư pháp của Việt Nam.

Các tài liệu nghiên cứu có liên quan trong khuôn khổ Dự án “Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” và các báo cáo, phát biểu tại Diễn đàn đối tác pháp luật lần thứ Bảy - 2010 được đăng tải rộng rãi trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, các quý vị độc giả quan tâm có thể truy cập tại htttp://www.moj.gov.vn.

Tài liệu đính kèm: Nội dung

Nguyễn Minh Phương - Vụ Hợp tác quốc tế Bộ Tư pháp