I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo VnExpress có bài Thủ tướng sẽ chủ trì họp về cưỡng chế ở Tiên Lãng. Bài báo đưa tin: Ngày 2/2, Văn phòng Chính phủ có công văn gửi Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài nguyên Môi trường, Nông nghiệp, Công an, Tư pháp, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Hội Nông dân Việt Nam, Bí thư thành ủy và Chủ tịch UBND TP Hải Phòng về việc chuẩn bị cuộc họp vụ cưỡng chế thu hồi đất ở huyện Tiên Lãng. Theo đó, dự kiến trong tuần tới (6-10/2), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ chủ trì cuộc họp với một số cơ quan chức năng ở trung ương và UBND TP Hải Phòng để chỉ đạo, giải quyết vụ việc cưỡng chế thu hồi đất ở xã Vinh Quang (Tiên Lãng).
Để chuẩn bị tốt cuộc họp trên, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài nguyên, Nông nghiệp, Công an, Tư pháp theo chức năng, nhiệm vụ chủ động kiểm tra, nắm chắc tình hình và nội dung vụ việc để có ý kiến tham mưu, đề xuất với Thủ tướng.
Đồng thời, Chủ tịch UBND TP Hải Phòng phải chuẩn bị báo cáo cụ thể, đầy đủ theo yêu cầu của Thủ tướng hôm 15/1; Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và Hội Nông dân Việt Nam chuẩn bị ý kiến tham dự cuộc họp.
Trước đó ngày 15/1, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu Chủ tịch UBND TP Hải Phòng kiểm tra làm rõ đúng, sai, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc giao đất, sử dụng đất, thu hồi đất, tổ chức cưỡng chế đối với hộ gia đình ông Đoàn Văn Vươn ở xã Vinh Quang (Tiên Lãng, Hải Phòng), báo cáo Thủ tướng.
2. Báo An ninh Thủ đô có bài Không ban phát thủ tục. Bài báo phản ánh: Lần đầu tiên, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính được thành lập với chức năng kiểm soát, thanh lọc các thủ tục hành chính (TTHC) không cần thiết. Dù mới ra đời một năm, Cục đã chứng minh được tầm quan trọng của mình trong vai trò kiểm soát tình trạng lạm dụng quyền lực trong thủ tục hành chính.
Tính đến cuối năm 2011, các bộ, ngành đã đơn giản hóa được hơn 3.000 TTHC như Bộ Khoa học - Công nghệ đạt 96%, Bộ Giao thông - Vận tải đạt 85%, Bộ Thông tin - Truyền thông đạt 80%. Tuy nhiên, một số bộ còn thực hiện khá chậm như Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tư pháp…
Cụ thể có 91 văn bản quy phạm pháp luật và 110 quy định hành chính của bộ, ban, ngành đã được rà soát. Đối với 63 địa phương có 276 văn bản quy phạm pháp luật và 565 quy định hành chính được rà soát. Cùng với đó, các bộ, ngành cũng đã thực hiện tốt công tác đánh giá tác động với 666 TTHC, quy định tại 130 dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có quy định về hành chính. Chỉ số hiệu quả hoạt động pháp luật kinh doanh mà cộng đồng doanh nghiệp “chấm điểm” cho các bộ được công bố vào ngày cuối năm ngoái cũng gợi lên nhiều điều đáng suy nghĩ. Điểm số “thường thường bậc trung” của các bộ, thấp nhất chỉ vượt qua điểm 5 và cao nhất chưa tới điểm 6 (trên thang điểm 10), không khiến dư luận ngạc nhiên, bởi đã quá quen tai với những điệp khúc “hành chính quan liêu”, “cơ chế xin - cho”.
Mặc dù đã được đánh giá là thực hiện vừa đủ các nghĩa vụ bắt buộc theo quy định pháp luật, song thực tế đã chỉ ra rằng, những công việc không đến nỗi quá khó lại chính là những lĩnh vực mà các bộ bị đánh giá thấp nhất. Đó là những việc hầu như không cần chuyên môn gì quá sâu như lấy ý kiến các doanh nghiệp, hiệp hội trong quá trình soạn thảo văn bản pháp luật, cho đến việc công khai và cung cấp thông tin pháp luật cho doanh nghiệp… đều không đáp ứng nhu cầu. Cuộc cải cách TTHC đến nay nhìn chung đã làm khá tốt, nhưng có thể rút ra một kết luận là, “việc khó không bỏ, việc dễ vẫn chưa làm”. Nhóm việc khó là những hoạt động giám sát phải thường xuyên hơn và phải được triển khai chặt chẽ hơn từ góc độ nhà nước cũng như xã hội. Nhóm việc dễ là những hoạt động ít được chú ý hơn, vì vậy đòi hỏi sự tự nguyện và thái độ tích cực hơn. Tuy thế, hiệu quả hoạt động của các bộ không thể trông chờ vào sự tự nguyện hay thiện chí. Ở mọi khía cạnh pháp luật, mọi khâu quản lý của nhà nước không phụ thuộc vào việc dễ hay khó thực hiện. Để chúng được thực hiện hiệu quả đều rất cần thiết chế giám sát chặt chẽ, định kỳ và phải có hình thức xử lý trách nhiệm.
Cục trưởng Cục Kiểm soát TTHC nhấn mạnh, trong năm 2012, cải cách thủ tục không chỉ là rà soát để cắt giảm hoặc sửa đổi, mà quan trọng hơn là triển khai thực hiện TTHC trong thực tế. Nó đòi hỏi cán bộ công chức phải có ý thức phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Thủ tục là để phục vụ tốt hơn chứ không phải ban phát. Quy định là để giúp doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt hơn. Kiểm soát TTHC là kiểm soát việc lạm dụng quyền lực của cán bộ công chức trong việc thực hiện TTHC.
3. Báo Đài đoàn kết có bài Nên hay không bỏ việc giám định vàng xuất khẩu? Bài báo phản ánh: Muốn hạn chế được tình trạng xuất khẩu vàng ròng thì phải có quy định kiểm định vàng trước khi xuất khẩu. Dù là biện pháp hành chính nhưng cũng cần thiết. Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội cho rằng không nên vì lợi ích nhóm mà bỏ việc kiểm định vàng trước khi xuất khẩu.
Mới đây theo phản ánh của Công ty TNHH Trang Sức GL (Công ty GL) đóng tại địa bàn Hải Phòng, việc giám định hàm lượng vàng khi xuất khẩu đang gây ra những khó khăn lớn cho doanh nghiệp. Cái lý mà doanh nghiệp đưa ra là: trên địa bàn thành phố chưa có đơn vị đủ thẩm quyền giám định nên mỗi lần xuất hàng với tần suất 4-5 lần/tháng phải có một lộ trình dày công. Đầu tiên Công ty phải vận chuyển hàng từ Hải Phòng lên Hà Nội để giám định, sau đó mang về Hải Phòng để hoàn tất thủ tục rồi lại tiếp tục vận chuyển lên Nội Bài để xuất khẩu. Thêm nữa sản phẩm xuất khẩu của Công ty GL là hàng trang sức có giá trị cao nên việc vận chuyển qua các tuyến đường khác nhau sẽ không đảm bảo an toàn cho cả người và hàng hóa. Ngoài ra còn có những bất lợi khác như khó tránh khỏi sản phẩm bị trầy xước, kéo dài thời hạn giao hàng và tốn thêm nhiều chi phí giám định, xe vận chuyển, thuê bảo vệ giám sát... Do vậy Công ty đề xem xét miễn thủ tục giám định hàm lượng vàng xuất khẩu. Trong khi đó, theo lý giải của Bộ Tài chính, việc giám định hàm lượng vàng khi xuất khẩu mục đích chính là ngăn ngừa việc doanh nghiệp gian lận trong xuất nhập khẩu vàng.
Đem câu chuyện xuất khẩu vàng chưa có hạ hồi kết thúc, việc giám định vàng khi xuất khẩu có thật sự nên bỏ hay không, một đại diện thuộc Tổng cục Hải quan khẳng định: "đây là vấn đề nhạy cảm, và cần thời gian”. Bình luận về chuyện giám định vàng, TS Nguyễn Minh Phong phân tích rằng, Nhà nước không khuyến khích việc xuất khẩu vàng ròng, chỉ khuyến khích doanh nghiệp chế biến, chế tác vàng thành các sản phẩm để xuất khẩu, như vậy vừa tăng cao lợi nhuận, vừa tạo được một khối lượng lớn công việc cho lao động. Một khi diễn biến giá vàng còn phức tạp, biểu đồ giá vàng thế giới còn lắm ẩn số thì việc kiếm lợi tiền từ xuất khẩu vàng không phải là tối ưu.
Theo số liệu báo cáo của Tổng cục Thống kê, năm 2011, Việt Nam xuất khẩu vàng thu về được 2,2 tỷ USD, trong khi đó nhập khẩu 1,9 tỷ USD. Việc này cũng không thể hiện được kết quả Việt Nam có lợi hay không có lợi từ xuất khẩu vàng. Do khi giá vàng thế giới lên cao vào thời điểm tháng 5, 6, 7-2011 Việt Nam lại không có vàng để xuất khẩu. Trong khi đó, đúng thời điểm này vàng trong nước khan hiếm, NHNN đã phải chi ra một lượng tiền lớn để nhập khẩu vàng về. Ông Phong cho rằng, việc xuất khẩu vàng hiện nay chỉ tập trung ở một số doanh nghiệp đầu mối lớn. Nếu Bộ Tài chính, bỏ việc kiểm định vàng trước khi xuất khẩu có nghĩa là chiều doanh nghiệp, vì lợi ích nhóm tiếp tay cho việc xuất khẩu vàng lậu. Phải đặt mục tiêu hạn chế xuất khẩu vàng lên trên hết.
Nhiều ý kiến cho rằng sẽ chẳng có doanh nghiệp nào nâng hàm lượng vàng trong vàng xuất khẩu để tự chịu thuế cao, chui đầu vào rọ? Vì Bộ Tài chính vừa mới ban hành biểu suất thuế mới đối với việc xuất khẩu vàng, theo đó để được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu hàm lượng vàng của các sản phẩm đồ kim hoàn, đồ mỹ nghệ và các sản phẩm khác bằng vàng là dưới 80%. Đồ trang sức có hàm lượng vàng từ 80% trở lên đều phải chịu thuế xuất khẩu 10%. Ông Phong cho rằng, hành vi xuất lậu vàng đang ngày càng biến tướng. Hàm lượng vàng càng cao trong vàng xuất khẩu thì lãi thu về của doanh nghiệp càng lớn, bên bán và bên mua cũng thuận bề giao dịch. Doanh nghiệp cam đoan tuân thủ pháp luật nhưng ai biết được "ma ăn cỗ” hay không? – ông Phong đặt câu hỏi.
Nhưng trung tâm giám định vàng ít, trong khi doanh nghiệp xuất khẩu lại nhiều, liệu có xảy ra cơ chế xin - cho? Ông Phong khẳng định, phải tiến tới xã hội hóa các trung tâm giám định vàng, mở thêm nhiều chi nhánh. Đã có các văn phòng công chứng tư nhân tại sao lại không thể có trung tâm giám định vàng tư nhân”? Để quản lý thị trường vàng thì việc giám định vàng không nên bỏ.
Trước đó, ông Đinh Nho Bảng, Phó Chủ tịch Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam cũng cho biết, việc có một doanh nghiệp kiểm định độc lập sẽ khiến cho tình hình xuất khẩu nữ trang tốt hơn trong thời gian tới, do nhiều nước hiện nay chưa tin tưởng vào chất lượng vàng nữ trang của Việt Nam nên thường gây khó dễ cho doanh nghiệp.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhân dân có bài Nhập nhèm một vụ bán đấu giá tài sản ở Ðác Nông. Bài báo phản ánh: Kể từ khi tham gia đấu giá trúng một lô đất nông nghiệp và các tài sản trên đất gồm hàng nghìn cây cao-su, cà-phê, hồ tiêu... trị giá hơn 821 triệu đồng của Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản (DVBÐGTS) tỉnh Ðác Nông, đến nay, đã tám tháng trôi qua, nhưng bà Trần Thị Thùy Nga, trú tại thôn Quảng Phước, xã Ðạo Nghĩa (huyện Ðác R'lấp, tỉnh Ðác Nông) vẫn chưa nhận được số tài sản mà mình đã mua.
Lô đất nông nghiệp này có diện tích 39.600 m2 thuộc tờ bản đồ số 5, thửa đất số 19 tại thôn Quảng Chánh, xã Nghĩa Thắng, huyện Ðác R’lấp đã được UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 315544 ngày 21-3-2003 mang tên ông Nguyễn Quang Thục, trú tại thôn Quảng Chánh, xã Nghĩa Thắng. Trên lô đất này có 760 cây cao-su và 2.300 cây hồ tiêu trồng năm 2006; 1.300 cây cà-phê vối trồng năm 1996 và 115 cây điều trồng năm 2004. Cuối năm 2009, do vỡ nợ trong chuyện làm ăn nên vợ chồng ông Thục đã đồng ý giao toàn bộ lô đất và tài sản trên đất cho Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) huyện Ðác R’lấp kê biên bán đấu giá để lấy tiền trả nợ. Ngày 13-8-2010, Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp đã ra Quyết định số 11/QÐ-THA cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất cả ba lô đất của gia đình ông Nguyễn Quang Thục, trong đó có lô đất và toàn bộ các loại cây trồng nêu trên.
Ngày 26-8-2010, vợ chồng ông Nguyễn Quang Thục và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy tự nguyện thi hành Quyết định cưỡng chế kê biên tài sản số 11/QÐ-THA ngày 13-8-2010 của Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp với hình thức giao tài sản gồm nhà, đất và cây trồng trên đất cho Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp, có sự chứng kiến của đại diện VKSND huyện Ðác R’lấp, UBND xã Nghĩa Thắng. Theo biên bản, vợ chồng ông Thục bàn giao đủ 39.600m2 đất nông nghiệp, một căn nhà gỗ (nhà tạm) diện tích 45m2, 440 cây cao-su và 2.300 cây hồ tiêu trồng năm 2006; 1.800 cây cà-phê vối trồng năm 1996 và 115 cây điều trồng năm 2004.
Ngày 16-3-2011, Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp ký kết Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản số 15/HÐ-UQ cho Trung tâm DVBÐGTS tỉnh Ðác Nông bán toàn bộ số tài sản nói trên với giá khởi điểm hơn 818 triệu đồng. Ngày 16-3-2011, Trung tâm DVBÐGTS tỉnh ra Thông báo số 24/TB-BÐG về việc bán đấu giá số tài sản này. Ngày 4-5-2011, Trung tâm DVBÐGTS tỉnh tổ chức bán đấu giá lô đất và toàn bộ tài sản trên. Tại phiên đấu giá này, bà Trần Thị Thùy Nga đấu giá trúng lô đất và tài sản nói trên với số tiền 821 triệu 650 nghìn đồng, đã nộp đủ số tiền cho Trung tâm DVBÐGTS tỉnh. Thế nhưng, từ đó đến nay, Trung tâm DVBÐGTS tỉnh phối hợp Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp nhiều lần tiến hành bàn giao tài sản cho bà Nga nhưng không đủ diện tích đất và các loại cây trồng như trong hợp đồng bán đấu giá. Cụ thể, diện tích đất bàn giao thực tế cho bà Nga chỉ có khoảng 34.000-35.000m2 nhưng không định vị được ranh giới, lúc thì chỉ chỗ này, lúc thì chỉ chỗ khác và cũng chỉ có 440 cây cao-su, 1.500 cây tiêu, như vậy còn thiếu 4.000-5.000 m2 đất và 320 cây cao-su, 800 cây tiêu so với tài sản bà Nga đấu giá trúng nên bà không nhận. Không hiểu vì lý do gì mà Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp không bàn giao đủ diện tích đất và cây trồng cho Trung tâm DVBÐGTS tỉnh để bàn giao cho bà Nga?
Trao đổi ý kiến với chúng tôi chung quanh vấn đề này, Giám đốc Trung tâm DVBÐGTS tỉnh Ðác Nông Nguyễn Thanh Hùng cho biết: Việc tổ chức bán đấu giá lô đất và các tài sản trên đất nói trên của Trung tâm hoàn toàn đúng quy định, thủ tục và công khai, không có sai sót gì. Khi bà Nga khiếu nại, Trung tâm đã nhiều lần yêu cầu Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp bàn giao đủ diện tích đất và cây trồng như trong hợp đồng bán đấu giá cho Trung tâm để bàn giao cho bà Nga, nhưng Chi cục THADS huyện Ðác R’lấp trốn tránh trách nhiệm, không bàn giao cũng như chưa nộp lệ phí bán đấu giá cho Trung tâm. Trong khi đó, lô đất và tài sản đã được bà Nga mua bị người khác ngang nhiên vào tranh giành, thu hoạch, phá phách.
Các ngành chức năng của tỉnh Ðác Nông và huyện Ðác R’lấp cần quan tâm giải quyết để sớm bàn giao toàn bộ diện tích đất và tài sản cho bà Trần Thị Thùy Nga, đồng thời xem xét trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan trong vụ việc này để xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
2. Báo Hà Nội mới có bài Nhiều nguyên nhân dẫn đến chậm trễ. Bài báo phản ánh: Luật Quốc tịch ra đời năm 2008 có độ "thoáng" hơn so với Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 trong nguyên tắc nhập quốc tịch. Từ ngày luật có hiệu lực (1-7-2009) đến nay, qua thẩm định hồ sơ từ địa phương, Bộ Tư pháp đã trình Chủ tịch nước xem xét, quyết định nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam cho hàng chục nghìn người, lượng hồ sơ xin thôi quốc tịch và nhập quốc tịch năm sau cao hơn năm trước.
Thực tế này cho thấy, nhu cầu xã hội trong vấn đề thôi, nhập, trở lại quốc tịch rất lớn. Điều đáng ghi nhận là trong quá trình giải quyết, các cơ quan chức năng chưa nhận được bất kỳ một khiếu nại, tố cáo nào. Do mọi thông tin liên quan đến việc thôi, trở lại, nhập quốc tịch, từ mẫu văn bản đến quy trình thực hiện đều được công khai trên trang web của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng đã nảy sinh những bất cập gây khó khăn cho người làm thủ tục mà điểm hạn chế lớn nhất của việc giải quyết các hồ sơ quốc tịch (thôi, nhập, trở lại quốc tịch) là thời hạn giải quyết các hồ sơ quá chậm so với luật định.
Theo Sở Tư pháp Hà Nội, để bảo đảm thời hạn giải quyết phụ thuộc vào nhiều cơ quan khác nhau, từ sở tư pháp địa phương đến công an, Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chủ tịch nước. Nếu một trong những đơn vị này chậm tiến độ trong từng khâu do mình phụ trách thì không thể trả kết quả đúng như yêu cầu của luật.
Với quy định hiện hành, thời hạn giải quyết nhập quốc tịch là 6 tháng; trở lại, thôi quốc tịch là 3 tháng. Trong khoảng thời gian đó, Bộ Tư pháp chỉ có 20 ngày để kiểm tra, xem xét, lập danh sách, trình lãnh đạo Bộ lập tờ trình trình Chủ tịch nước quyết định với hồ sơ xin thôi quốc tịch, 30 ngày đối với hồ sơ xin nhập, trở lại quốc tịch. Trong quá trình hậu kiểm, từng có không ít hồ sơ xin trở lại quốc tịch Việt Nam đã lọt qua cổng gác của Sở Tư pháp TP Hà Nội và không ít địa phương khác đã bị Bộ Tư pháp trả lại vì không bảo đảm hình thức và phải làm lại công văn đề xuất.
Ngoài ra, sự chậm trễ còn một phần do tính chất phức tạp của hồ sơ, nhất là với hồ sơ nhập quốc tịch, trong đó trọng trách chính thuộc về cơ quan công an. Do quá trình thẩm tra, xác minh nhân thân của người xin nhập, trở lại, thôi quốc tịch Việt Nam hoặc đối với những người bị đề nghị tước quốc tịch, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch… là việc làm phức tạp, có khi phải 3 tháng mới xong. Một số trường hợp không thể giải quyết dứt điểm ngay vì thiếu dữ kiện.
Bức tranh toàn cảnh về quá trình thôi, nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam cho thấy, các cơ quan có liên quan đều góp phần kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ về quốc tịch. Do vậy, muốn tạo nên bước chuyển mạnh mẽ trong lĩnh vực này, các cơ quan chức năng cần phải tuân thủ đúng quy trình luật định và phối hợp chặt chẽ, chia sẻ với nhau với mục tiêu vì nhân dân phục vụ.