I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tin tức phản ánh: Tại buổi họp báo về kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2011 của Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) diễn ra tối 3/1, tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng cho rằng, việc các cơ quan chức năng chưa có đơn vị nào đứng ra nhận trách nhiệm trong các vụ cháy, nổ ô tô xe máy thời gian vừa qua là một khoảng trống về pháp luật. Bộ trưởng Thăng nhấn mạnh: Từ năm 2012, khi xảy ra vụ cháy ô tô xe máy nào là phải có người chịu trách nhiệm, ngành giao thông vận tải với chức năng quản lý nhà nước phải đứng ra chịu trách nhiệm, mà trước hết là Cục Đăng kiểm Việt Nam. Theo đó, để hoàn thành trách nhiệm của mình, Bộ trưởng GTVT yêu cầu Cục Đăng kiểm Việt Nam khẩn trương hoàn thành hệ thống văn bản pháp luật liên quan trong thời gian tới.
Liên quan đến số lượng vụ cháy nổ xe trong thời gian qua, Cục trưởng Cục Đăng kiểm Việt Nam Trịnh Ngọc Giao cho hay: Theo số liệu từ Sở Cảnh sát giao thông thành phố Hà Nội, từ đầu tháng 12/2010 đến ngày 18/12/2011, riêng tại Hà Nội xảy ra 42 vụ cháy nổ ô tô, xe máy. Bên cạnh đó, qua báo chí, trong năm 2011 trên cả nước đã ghi nhận 89 trường hợp tương tự; trong đó, liên quan đến ô tô là 50 xe, xe máy là 39 vụ, gây thiệt hại về tài sản và làm 2 người chết, 2 người bị thương.
Theo ông Giao, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các vụ cháy nổ xe; trong đó, theo thông tin từ Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công an, nguyên nhân cháy nổ xe máy, ngoài sự việc đau lòng tại Bắc Ninh làm 2 mẹ con chết xác định có yếu tố hình sự, nguyên nhân do chập điện gây nên là 5 vụ, chiếm 11,6% tổng số vụ; va chạm hai xe khi lưu thông trên đường gây cháy là 2 xe, chiếm 4,6%; hỏa hoạn tại khu để xe gây cháy 3 xe, chiếm 6,9%; cố ý đốt xe chiếm 2,3%; số vụ chưa rõ nguyên nhân là 31, chiếm 72%. Riêng về sự cố xảy ra với ô tô, số vụ chưa xác định được nguyên nhân chiếm 30%. Ngoài ra, cơ quan chức năng xác minh việc cháy, nổ loại phương tiện này còn do chập điện, va chạm, ống xả tiếp xúc với vật dễ cháy và cháy do hỏa hoạn tại khu vực để xe.
Để đảm bảo chất lượng an toàn và bảo vệ môi trường đối với xe cơ giới trong quá trình sử dụng, Cục Đăng kiểm Việt Nam kiến nghị ngành Công an cung cấp thông tin khi có vụ cháy, nổ xe xảy ra, để Cục tập hợp và đưa ra giải pháp. Ngoài ra, Cục đề nghị tăng cường quản lý đối với cơ sở bảo dưỡng và bảo hành ô tô xe máy. Trong thời gian tới, Cục Đăng kiểm Việt Nam sẽ có tờ trình với Bộ về các giải pháp tăng cường quản lý đối với cơ sở bảo dưỡng và bảo hành ô tô, xe máy.
2. Báo Thanh niên phản ánh: Mới đây, Cục Thú ý (Bộ NN-PTNT) đề nghị Bộ Công an vào cuộc điều tra nghi án “thịt bò Kobe” được nhập vào nước ta bằng các chứng thư giả. Vụ việc có thể sẽ được làm sáng tỏ, nhưng những gì xảy ra khiến người ta thực sự ngỡ ngàng.
Không ngỡ ngàng sao được khi “thịt bò Kobe” vốn là mặt hàng đắt đỏ, “nổi đình nổi đám” trên thị trường thời gian qua. Hơn một năm trước, dư luận từng xôn xao loại phở “thịt bò Kobe” được bán đến 750.000 đồng mỗi tô, một mức giá khủng khiếp so với mặt bằng chung thu nhập của người dân. Không chỉ tô phở, mà nhiều món làm từ “thịt bò Kobe” giá cũng cực “khủng” như suất bít tết xấp xỉ 2 triệu đồng, đĩa thịt tái gần triệu đồng… Loại thực phẩm xa xỉ này trở thành đặc sản dành cho những khách hàng giàu có và được nhiều nhà hàng quảng bá một cách đầy tự hào. Nói một cách khác, “thịt bò Kobe” đã “ngự trị” ở đỉnh cao của giới ẩm thực, nhưng khách hàng không hề biết rằng đó là loại thực phẩm nhập lậu, chưa được kiểm định. Vì thế, nhiều khách hàng rất bất ngờ và bức xúc khi biết những nhà hàng sang trọng mà họ tin tưởng chi ra một khoản tiền lớn lại dám phô trương bán thứ thực phẩm không rõ nguồn gốc, chưa được kiểm định. Càng bức xúc hơn khi họ nghe cơ quan chức năng cũng chẳng hay biết gì về xuất xứ loại “thịt bò đắt giá” này. Các cơ quan quản lý về thị trường, thú y, y tế đã ở đâu trong suốt nhiều tháng qua khi “thịt bò Kobe” được bán công khai tại những nhà hàng sang trọng? Nếu nguồn gốc loại thực phẩm này không rõ ràng thì người tiêu dùng rất dễ bị lừa đảo, mua phải hàng giả, thậm chí là tiền mất tật mang.
Tìm hiểu sâu hơn, người ta phát hiện rằng một số đơn vị kinh doanh làm giả cả chứng thư nhà nước để nhập khẩu “thịt bò Kobe”. Trong đó, một chứng thư đề nghị cho phép Công ty TNHH Sơn Tùng nhập khẩu 11 tấn thịt bò Kobe. Con số 11 tấn thịt bò không nhỏ nên chẳng dễ dàng để nhập khẩu. Nghiêm trọng hơn, đây có thể chỉ là một trong nhiều đơn vị nhập khẩu. Những điều vừa nêu cho thấy việc nhập lậu “thịt bò Kobe” đã trở thành một hệ thống kinh doanh quy mô lớn, nối kết từ khâu nhập khẩu đến phân phối. Vì thế, một lượng lớn “thịt bò Kobe” không rõ xuất xứ có thể đã nhập khẩu trót lọt vào nước ta.
Đáng lo hơn, đây không phải là lần đầu tiên ngành thực phẩm xảy ra tình trạng “con voi chui lọt lỗ kim”. Cách đây chưa đầy hai tháng, dư luận đã xôn xao về vụ việc 108 tấn chân gà thối, bốc mùi nhưng vẫn được nhập khẩu. Mới hơn, vào cuối tháng trước, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã phải thốt lên rằng “ăn chi toàn đồ bẩn” khi đi khảo sát thực tế. Thực phẩm, nguyên phụ liệu thực phẩm, hóa chất kém chất lượng đang được bày bán tràn lan.
Rõ ràng, trong lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm, thực tế đang khiến chúng ta ngỡ ngàng về cách làm việc của một số cơ quan chức năng liên quan. Người tiêu dùng không thể yên tâm với cách làm việc như vậy, nhất là khi giai đoạn cuối năm nhu cầu sắm tết tăng cao, đặc biệt đối với các mặt hàng thực phẩm. Nếu không tăng cường kiểm tra, rà soát, chấn chỉnh, rất có thể người dân sẽ lại phải ngỡ ngàng “đón nhận” thêm nhiều vụ việc “thịt bò Kobe” khác…
3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Đinh La Thăng vừa trình Thủ tướng Chính phủ đề xuất thu thêm 2 loại phí: phí lưu hành phương tiện giao thông cá nhân và phí ô tô vào trung tâm các thành phố giờ cao điểm. Nhiều bạn đọc đã bức xúc cho rằng giải pháp này chưa hợp lý và sẽ tạo thêm gánh nặng cho dân.
Việc hạn chế các phương tiện lưu thông vào các tuyến đường nội đô ở các thành phố lớn để hạn chế tình trạng ùn tắc và kẹt xe là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, giải pháp thu phí đối với các phương tiện xe ô tô, mô tô vào giờ cao điểm là thiếu khả thi và làm không khéo sẽ tạo gánh nặng cho người dân. Luật sư Thái Văn Chung, Tổng thư ký Hiệp hội Vận tải hàng hóa TPHCM, cho rằng: “Theo tôi, đối tượng sử dụng xe gắn máy hiện nay chủ yếu là người dân lao động, cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và người làm nghề tự do. Vì thế nếu tập trung đánh các loại phí vào người sử dụng xe gắn máy sẽ tạo thêm khó khăn cho người lao động. Ngoài ra, nếu triển khai thu phí đối với các phương tiện lưu thông vào nội đô giờ cao điểm sẽ gây ra tình trạng “phí chồng phí”. Do đó, tốt nhất là không nên thu theo đề xuất của Bộ Giao thông Vận tải”.
Còn ông Nguyễn Khánh Toàn, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Vận tải ô tô Việt Nam, phân tích: “Trước tình trạng ùn tắc và kẹt xe ở các TP lớn, việc Bộ Giao thông Vận tải đề xuất thu phí đối với ô tô, mô tô vào khu vực trung tâm trong giờ cao điểm cũng chỉ là giải pháp mang tính tình thế. Do đó, nếu triển khai việc thu phí đối với các phương tiện xe ô tô, mô tô, các cơ quan chức năng cần cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng các chủng loại phương tiện thu phí, mức thu như thế nào cho hợp lý. Bởi lẽ, việc triển khai thu phí theo kiểu nào cũng đánh vào “túi tiền” của người dân và làm không khéo sẽ gây ảnh hưởng, xáo trộn đến việc đi lại của người dân, cũng như sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, bản thân các phương tiện vận tải đã chịu quá nhiều loại phí, nếu tiếp tục triển khai thu phí đối với các phương tiện vận tải sẽ khiến cho giá thành vận tải tăng cao. Như vậy, để bù đắp chi phí các chủ doanh nghiệp vận tải sẽ điều chỉnh tăng giá cước vận chuyển lên cao. Người chịu thiệt vẫn là người dân”.
Bên cạnh việc tạo gánh nặng cho người dân, nhiều ý kiến cho rằng, việc thu phí đối với các phương tiện vào nội đô thành phố giờ cao điểm nhằm mục đích kéo giảm ùn tắc giao thông và kẹt xe như Bộ Giao thông Vận tải đề xuất là thiếu tính khả thi. TS Nguyễn Hữu Nguyên, Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam, phân tích: “Nếu căn cứ vào mục đích thu phí để giảm ùn tắc giao thông theo tờ trình của Bộ Giao thông Vận tải là không có cơ sở và thiếu khả thi. Bởi lẽ, tình trạng kẹt xe hiện nay ở Việt Nam là do đất dành cho giao thông quá ít, trong khi phương tiện quá nhiều. Cụ thể, tỷ lệ đường nội đô ở TPHCM dành cho giao thông hiện nay chỉ chiếm 5%, trong khi ở các nước trên thế giới là 30% - 50%. Do đó, nếu thu phí giao thông đối với các phương tiện vận tải cũng không hạn chế được tình trạng kẹt xe. Ngoài ra, nếu thu phí theo giờ cao điểm ở các tuyến đường trung tâm chỉ hạn chế được tình trạng ùn tắc giao thông trong một thời gian và khu vực nhất định, chứ không thể giải quyết dứt điểm tình trạng kẹt xe. Đồng thời, khi thực hiện việc thu phí các phương tiện ở các tuyến đường nội độ, người dân sẽ chọn tuyến đường khác lưu thông và như vậy sẽ chuyển tình trạng kẹt xe từ nơi này qua nơi khác”.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Nhân dân điện tử có bài Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Bài báo phản ánh: Ngày 28-12-2011, Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp T.Ư đã ban hành Chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp (CCTP) giai đoạn 2011 - 2016. Theo đó, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp...
Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người; xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật; đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm... Công khai các chuẩn mực, các quy định liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động tư pháp để nhân dân giám sát thực hiện. Tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm trong hoạt động công vụ của các cán bộ tư pháp.
Trọng tâm công tác CCTP giai đoạn 2011 - 2016 được xác định là tiếp tục tổ chức nghiên cứu, quán triệt và xây dựng kế hoạch thể chế hóa các chủ trương, định hướng đã được xác định rõ trong các văn kiện, nghị quyết của Ðảng; sửa đổi, bổ sung kịp thời các chế độ, chính sách không còn phù hợp với thực tiễn và những vấn đề mới phát sinh trong hoạt động tư pháp. Tổ chức nghiên cứu các vấn đề lý luận về tư pháp; xác định rõ vị trí, vai trò của quyền lực tư pháp và nội dung, cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền tư pháp; mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện quyền tư pháp với các cơ quan lập pháp và hành pháp.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự, đề cao hiệu quả phòng ngừa, tính nhân đạo, hướng thiện và bảo vệ quyền con người trong việc xử lý người phạm tội. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng tư pháp, hoàn thành việc nghiên cứu xác định rõ mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, mô hình các cơ quan tư pháp trong quân đội; tổ chức lại cơ quan điều tra, xây dựng, hoàn thiện thể chế và có giải pháp thực hiện hiệu quả trên thực tế chủ trương tăng cường và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và trách nhiệm của người ra kháng nghị; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ nhưng đồng thời cũng không để người bị oan, sai mà không được bảo vệ. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tư pháp Trung ương trong công tác xây dựng pháp luật, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, thể chế hóa kịp thời, đúng đắn các chủ trương, đường lối của Ðảng về cải cách tư pháp để tổ chức thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
Xây dựng, hoàn thiện các văn bản pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan, chức danh tư pháp. Tiếp tục xây dựng và triển khai đồng bộ các giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp, nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, hạn chế tình trạng oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; công khai minh bạch các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; giải quyết dứt điểm các vụ việc bức xúc, kéo dài; khắc phục tình trạng án tồn đọng quá hạn luật định; xây dựng và hoàn thiện cơ chế về hòa giải theo hướng tăng cường và nâng cao chất lượng hòa giải trong hoạt động tư pháp.
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp. Tiếp tục mở rộng phạm vi xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự, trợ giúp pháp lý, giám định tư pháp... Khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức đào tạo, bồi dưỡng, thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp, trọng tâm là cán bộ có chức danh tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử, bảo đảm phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong việc giám sát các hoạt động tư pháp; xác định rõ thẩm quyền, nội dung, phạm vi, trình tự, thủ tục giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và HÐND các cấp đối với các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Ðảng đối với công tác tư pháp trong tình hình mới; bảo đảm các cơ quan tư pháp thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật; đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/T.Ư.
Chương trình cũng nhấn mạnh công tác hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động tư pháp.
2. Báo Công lý có bài Ngành Tòa án sơ kết công tác thi hành án dân sự. Bài báo phản ánh: Sau hơn 2 năm thi hành Luật Thi hành án dân sự (THADS), ngành TAND đã tiến hành sơ kết công tác THADS của TAND các cấp. Ngành Tòa án có một vai trò quan trọng trong công tác THADS. Từ việc chuyển giao bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án; việc giải thích bản án, quyết định của Tòa án không rõ ràng; việc miễn giảm THA… đến công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về THADS.
Bên cạnh việc tham gia ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS, TANDTC đã tiến hành nhiều biện pháp khác để triển khai thi hành Luật THADS, trong đó công tác tập huấn nâng cao nghiệp vụ giải quyết các vụ việc dân sự hạn chế ban hành những bản án, quyết định thiếu rõ ràng, có sai sót, khó thi hành án. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được TANDTC chú trọng. Trong những năm qua, TANDTC đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành hữu quan thực hiện nhiều đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật khác nhau, trong đó có nội dung tuyên truyền phổ biến về pháp luật thi hành án dân sự; đăng tin bài trên Tạp chí TAND, Báo Công lý.
Từ ngày 1-7-2009 đến ngày 30-9-2011, TAND các cấp đã thụ lý 449.536 vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, hôn nhân gia đình; đã giải quyết được 404.216 vụ việc. TAND các cấp đã thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, THADS về cấp, giao bản án, quyết định của Tòa án. Việc giao, nhận bản án, quyết định của Tòa án được lập sổ theo dõi và quản lý chặt chẽ. Đảm bảo 100% các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật đều đã được chuyển sang cơ quan THADS hai cấp để thi hành.
Theo số liệu thống kê, trong hơn 2 năm qua, ngành TAND đã thụ lý 27.910 trường hợp đề nghị xét miễn giảm THADS, đã giải quyết 27.910 việc, đạt tỷ lệ 100%. Trong quá trình giải quyết yêu cầu miễn, giảm các khoản thu nộp ngân sách nhà nước, án phí, tiền phạt các Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về miễn, giảm khoản án phí, tiền phạt. Đảm bảo hồ sơ đề nghị phải được xây dựng một cách đầy đủ, chính xác, làm cơ sở cho quyết định của Tòa án. Khi quyết định miễn, giảm các khoản án phí, tiền phạt các Tòa án đều xem xét kỹ các tài liệu, hồ sơ có liên quan, cân nhắc thận trọng, đảm bảo vừa tuân thủ đúng quy định của pháp luật về điều kiện của người phải thi hành án, đồng thời cũng đảm bảo sự nghiêm minh về quyết định của Tòa án đối với những khoản án phí, tiền phạt đã tuyên.
Đối với bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, tuyên có sai sót, khó thi hành án hoặc không thi hành được, ngành Tòa án đã nỗ lực phối hợp với cơ quan THADS các cấp rà soát, phân loại để ban hành các văn bản giải thích, đính chính bản án, quyết định hoặc tổng hợp báo cáo và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến chỉ đạo. Việc phối hợp với các cơ quan, ban, ngành có liên quan trong công tác THADS, ngành TAND đã tiến hành tốt và kịp thời yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ được giao, tham gia đoàn khảo sát liên ngành về công tác THADS. Đặc biệt, TANDTC đã tham gia ký ban hành Thông tư liên tịch số 14/2011/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 11-7-2011, “Hướng dẫn hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự” và triển khai thực hiện đến TAND các cấp.