Điểm tin báo chí sáng ngày 03 tháng 01 năm 2012

03/01/2012
Trong buổi sáng ngày 03/01/2012, một số báo chí đã có bài phản ánh những sự kiện nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Trong tờ trình, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (GTVT) Đinh La Thăng cho rằng việc bổ sung phí lưu hành phương tiện giao thông và phí ôtô đi vào trung tâm thành phố giờ cao điểm là cần thiết. Điều này được ghi trong tờ trình của Bộ trưởng Đinh La Thăng gửi Thủ tướng đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết về việc bổ sung danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo pháp lệnh phí và lệ phí. Mức thu phí lưu hành phương tiện giao thông cá nhân đường bộ của năm sau sẽ được tính tăng 10% so với mức thu của năm trước liền kề. Phương thức thu đối với ôtô là sẽ thu qua các trung tâm đăng kiểm xe cơ giới, chu kỳ thời gian thu phí lưu hành tương ứng với thời gian phương tiện được cấp giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường.

Với ôtô đăng ký nước ngoài tạm nhập lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam sẽ thu trực tiếp theo đầu phương tiện khi làm thủ tục nhập cảnh vào lưu hành theo mức thu từng tháng, nửa tháng. Riêng môtô, xe máy, Bộ GTVT đề nghị thu phí lưu hành một lần/năm cho xe lưu hành. UBND cấp tỉnh quy định cụ thể việc tổ chức thu phí lưu hành phương tiện đối với môtô, xe máy. Trước mắt, Bộ GTVT kiến nghị thu phí lưu hành xe máy tại năm thành phố là Hà Nội, TP.HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Bộ GTVT đề xuất cơ quan quản lý thu phí lưu hành phương tiện đối với ôtô được để lại 1,5% số thu, với môtô xe máy được để lại 5% số thu để chi cho công tác tổ chức thu. Số còn lại được dùng để tạo nguồn chi cho các giải pháp chống ùn tắc và giảm thiểu tai nạn giao thông.

Đối với phí ôtô đi vào trung tâm thành phố giờ cao điểm, Bộ GTVT đề xuất thu qua các trạm thu phí ôtô (tự động, không dừng) tại các cửa ngõ ra vào trung tâm thành phố. Chỉ thu phí lượt ôtô vào, không thu xe ra. Trước mắt tổ chức thu ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Cần Thơ, Hải Phòng trước khi tổng kết triển khai nhân rộng ở các tỉnh thành. Đánh giá tác động của chính sách thu phí trên, Bộ GTVT cho rằng việc thu hai loại phí này sẽ tạo tác động tiêu cực là một số cá nhân phải chịu thêm các khoản phí, từ đó có những phản ứng nhất định về mặt dư luận xã hội. Tuy nhiên, vì sự phát triển và ổn định chung thì cần tổ chức tuyên truyền, vận động để các đối tượng chịu tác động hiểu, nhận thức được ý nghĩa và tác dụng của việc ban hành hai loại phí này.

2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Theo dự thảo Kế hoạch biên chế công chức năm 2012 đối với các bộ, ngành và địa phương do Bộ Nội vụ trình Thủ tướng Chính phủ, trong năm 2012, số biên chế công chức của cả nước sẽ tăng 1.499 người. Con số này không phải là nhiều, song việc tăng biên chế liên quan trực tiếp đến việc chi trả lương, nếu không cân nhắc kỹ lưỡng thì việc cải cách chính sách tiền lương vẫn mãi loay hoay như suốt thời gian qua.

Theo kết quả khảo sát của Công ty Tư vấn độc lập DEPOCEN (công ty đã khảo sát 6 bộ và cơ quan ngang bộ cùng 9 tỉnh, TP trực thuộc TƯ) thì có khoảng 51% CBCC không biết rằng cơ quan họ đang có kế hoạch tinh giản biên chế hoặc ai đã bị tinh giản biên chế; và phần lớn các cơ quan có thực hiện thì chỉ tinh giản những cán bộ đã sắp đến tuổi nghỉ chế độ, cho dù họ vẫn đang làm việc tốt; CBCC trong các độ tuổi khác bị tinh giản rất ít. Trong khi đó, Vụ trưởng Vụ CCHC (Bộ Nội vụ) Đinh Duy Hòa cho biết: "Có tới 30% công chức cấp xã chưa qua đào tạo và trong các cơ quan hành chính nhà nước, chỉ có khoảng 30% CBCC làm việc có hiệu quả cao, số còn lại không có hiệu quả gì đặc biệt".

Một thực tế đang tồn tại hiện nay là tiền lương thấp không đủ sống, mỗi lần tăng lương tối thiểu lại làm cho gánh nặng của ngân sách càng tăng và cải cách lần sau lại lặp lại những vấn đề cần giải quyết của lần trước. Theo TS Nguyễn Hữu Dũng, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội: "Về nguyên tắc, tiền lương của CBCCVC phải được trả đúng theo vị trí công việc dựa trên tiêu chuẩn chức danh CBCCVC và hiệu quả thực thi nhiệm vụ, công vụ, cung cấp dịch vụ công. Tuy nhiên, chính sách tiền lương của Việt Nam nhiều năm qua không tuân theo nguyên tắc này". Khi bàn về vấn đề cải cách chính sách tiền lương, nhiều chuyên gia cho rằng, cần rà soát và đánh giá lại CBCC, thực hiện tinh giản bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC; khảo sát xem bộ máy các bộ trong những năm gần đây tăng, giảm ra sao, biên chế như thế nào; xem xét sáp nhập một số đơn vị để dần dần có thể tinh giản biên chế. Ngoài ra, sẽ phải xem xét giảm các đối tượng hưởng lương bằng ngân sách thông qua việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở bên dưới. Đặc biệt, cần đẩy mạnh xã hội hóa khu vực sự nghiệp cung cấp dịch vụ công nhằm giảm dần tỷ trọng chi từ ngân sách nhà nước cho đầu tư cơ sở vật chất, giảm tối đa viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Trao đổi với phóng viên báo chí về vấn đề biên chế công chức năm 2012, ông Vũ Văn Thái, Vụ trưởng Vụ Tổ chức - Biên chế (Bộ Nội vụ) cho biết: "Trong dự thảo Kế hoạch biên chế công chức năm 2012, dự kiến, số biên chế công chức cả nước chỉ tăng 1.449 người, bằng 0,53% năm 2011. Trong đó, chỉ tăng 39 người cho trung ương, còn lại tăng cho 63 tỉnh, thành. Nếu kế hoạch này được Thủ tướng Chính phủ thông qua thì vẫn phải có đề án xác định vị trí việc làm thuyết phục và được chấp nhận thì mới được tăng". Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn cũng khẳng định: "Công chức được quản lý theo nguyên tắc kết hợp tiêu chuẩn chức danh với xác định vị trí việc làm, do đó biên chế cũng được xác định trên cơ sở bảo đảm đúng và đủ - đúng theo vị trí việc làm và chuyên môn nghiệp vụ, đủ về số lượng và cơ cấu. Đến nay mới có hai đơn vị xác định vị trí việc làm để xác định biên chế là Bộ Nội vụ và Bảo hiểm XH Việt Nam, sắp tới sẽ mở rộng ra các cơ quan khác".

Định hướng cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2013-2020 đang được hoàn thiện để trình Chính phủ vào tháng 4-2012. Với một thực tế là ngân sách chi trả lương có hạn mà số biên chế lại đang "phình", các cơ quan chức năng cần lưu ý tới ý kiến đề xuất của các chuyên gia để việc cải cách chính sách tiền lương trong giai đoạn tới thực sự có hiệu quả.

3. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Chiều tối 2-1, Công ty Vận tải biển Vinalines (Vinalines Shipping) đã có thông cáo báo chí cho biết, công ty đã thuê trực thăng cứu hộ của Philippines tìm kiếm con tàu Vinalines Queen và các thủy thủ bị mất tích trong các ngày 26, 30, 31-12-2011 và 1-1-2012, nhưng đến nay vẫn không phát hiện dấu hiệu nào.

Do Cục Phòng vệ bờ biển Nhật Bản (Japan Coast Guard) đã trả lời Vinalines là không có phương tiện cho thuê, nên trong ngày 2-1 Vinalines Shipping đã triển khai phương án thuê tàu biển tại Philippines để tìm kiếm các thuyền viên mất tích. Công ty đang chủ động liên hệ với Đại sứ quán Việt Nam tại Philippines và đại lý tàu biển tại đây để triển khai phương án thuê tàu thuyền tại Philippines tìm kiếm.  Đồng thời Vinalines Shipping cũng đề nghị với Đại sứ quán Việt Nam tại Philippines thông qua các cơ quan chức năng liên quan và truyền thông của nước này chính thức thông báo việc chủ tàu sẽ thưởng vật chất cho các đơn vị, cá nhân tìm được thuyền viên đang mất tích của tàu Vinalines Queen bất kể còn sống hay đã tử vong.

II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:

1. Báo Dân Việt có bài Lạ lùng vùng đất đa thê. Bài báo phản ánh: Không biết có phải do sống ở nơi thâm sơn cùng cốc, phong cảnh hữu tình hay không mà nhiều nam giới nơi đây “tậu” cho mình những 2, thậm chí là 3 người vợ. Chuyện xảy ra ở nhiều xã vùng cao của huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.

Xã Xa Dung được coi là mảnh đất “phát” của những chàng trai thích lấy vợ hai. Thống kê sơ bộ của cán bộ tư pháp xã, có tới 9 người lấy vợ hai. Đa phần họ là những người đã đứng tuổi, có con cái đề huề. Không giống như ở dưới xuôi, muốn lấy vợ khác, ít nhất cũng phải ly dị rồi mới được tái hôn. Ở đây các ông chồng chỉ cần ưng ai là đưa về nhà làm vợ hai. Theo cái lý của các ông chồng, “nhà của mình, thích dẫn ai về là việc của mình”. Phần đông chị em ở đây không ai dám phản kháng, đành ngậm ngùi với số phận hẩm hiu của mình.

Xã Xa Dung được coi là mảnh đất “phát” của những chàng trai thích lấy vợ hai. Thống kê sơ bộ của cán bộ tư pháp xã, có tới 9 người lấy vợ hai. Đa phần họ là những người đã đứng tuổi, có con cái đề huề. Không giống như ở dưới xuôi, muốn lấy vợ khác, ít nhất cũng phải ly dị rồi mới được tái hôn. Ở đây các ông chồng chỉ cần ưng ai là đưa về nhà làm vợ hai. Theo cái lý của các ông chồng, “nhà của mình, thích dẫn ai về là việc của mình”. Phần đông chị em ở đây không ai dám phản kháng, đành ngậm ngùi với số phận hẩm hiu của mình.

2. Báo Giadinh.net có bài “Phá sản” để án đấu giá biển số đẹp. Bài báo phản ánh: Liên bộ Công an - Tài chính - Tư pháp được Thủ tướng Chính phủ giao xây dựng thông tư liên tịch về đấu giá biển số đẹp từ năm 2009. Tuy nhiên, sau nhiều năm loay hoay, đề án này đã trở thành… "bất khả thi" khi có văn bản xin dừng triển khai từ Bộ Tài chính.

Cuối năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký công văn 2067/TTg-KTTH về việc ban hành quy định đấu giá biển số ô tô, mô tô, xe gắn máy gửi liên Bộ Tài chính - Tư pháp - Công an. Theo văn bản này thì các Bộ nêu trên phải xây dựng và ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn về việc bán đấu giá quyền sử dụng biển số xe ô tô, mô tô, xe gắn máy. Số tiền thu được từ đấu giá sau khi trừ các chi phí tổ chức sẽ được nộp toàn bộ vào ngân sách nhà nước. Xác định đây sẽ là một nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương, loại trừ được các bất cập trong công tác cấp biển số như "xin cho", "quan hệ" thậm chí là "đi đêm" để có biển đẹp... liên Bộ đã bắt tay thực hiện ý kiến của Thủ tướng. Dự thảo thông tư liên tịch đã quy định cá nhân, tổ chức phải đặt cọc số tiền bằng 5% giá khởi điểm của biển số xe khi tham gia đấu giá. Chủ xe trực tiếp tham gia đấu giá hoặc ủy quyền cho người khác tham gia việc đấu giá... Tuy nhiên, nhiều vướng mắc về khung pháp lý, cơ chế, quan niệm... cuối cùng đã ngăn cản sự ra đời của quy định về đấu giá biển số đẹp.

Vướng mắc đầu tiên đó chính là việc xác định biển số đẹp sau đấu giá có phải là tài sản riêng hay không? Theo lẽ thường thì khi người dân chấp nhận bỏ tiền, thậm chí là rất nhiều tiền thì sản phẩm thu về sau đấu giá là tài sản riêng của họ. Một khi đã là tài sản riêng thì cá nhân có quyền đem biếu, cho, tặng, thừa kế hoặc... hủy bỏ. Vậy nhưng, theo đại diện Vụ Pháp chế Bộ Công an thì văn bản quy phạm pháp luật liên quan chưa đề cập đến nội dung đấu giá biển số xe. Nghị định 17/2010 về đấu giá tài sản không xác định biến số xe là tài sản để đưa ra đấu giá. Cùng đó, khi xem biển số xe là "tài sản cá nhân" thì cơ quan quản lý nhà nước khó lòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về phương tiện đi kèm biến số xe đó. Vì vậy, Bộ Công an đã không đồng quan điểm về việc xác định biển số xe là tài sản cá nhân. Thế nên, trong dự thảo thông tư liên tịch cũng quy định rõ, nếu đã trúng đấu giá, biển số đó chỉ được đăng ký, cấp cho xe đã đề nghị đăng ký tham gia đấu giá. Không được mua bán, cho, tặng biển số trúng đấu giá trừ các trường hợp là người trúng đấu giá được phép chuyển nhượng, cho, tặng người khác xe đã đăng ký có gắn biển số trúng đấu giá theo quy định của pháp luật...

Có ý kiến cho rằng, một lý do khác khiến quy định về đấu giá biển số đẹp của liên Bộ không thể ra đời là do thay đổi về quan niệm "biển đẹp". Dự thảo thông tư liên tịch đã đưa ra được 181 loại biển số đẹp. Trong đó có 9 loại gồm dãy 4 số tự nhiên giống nhau như 9999, 8888, 7777, 6666... Có 18 loại biển có hai cặp giống nhau và có tổng các con số là 8 hoặc 9 cùng nhiều loại biển số khác. Đây là những phân loại mang tính chất tham khảo của cơ quan xây dựng văn bản. Với biển 4 số là vậy, tuy nhiên từ cuối năm 2010, quy định biển số 5 số được áp dụng thì quan niệm biển đẹp với dạng này lại trở thành... quá mới gây lúng túng với người dân lẫn cơ quan quản lý Nhà nước. Trước tình huống phát sinh này, cơ quan soạn thảo trước đây cho biết sẽ tham khảo từ các đơn vị và địa phương để đưa ra quy định về biển số đẹp. Đồng thời, dự thảo cũng quy định tùy theo quan niệm chung của từng vùng miền, địa phương nên hội đồng đấu giá địa phương có thể bổ sung thêm những biển số đẹp ngoài "chuẩn chung" để đưa vào kho số đấu giá.

Xét từ góc độ thực tiễn cho thấy, sau khi quy định biển 5 số được áp dụng thì quan niệm về biển đẹp gần như chưa có, nếu có thì cũng na ná nhưng không "độc" bằng biển 4 số. Ví dụ, biển số 199.99 thì theo tâm lý người chơi biển thì chắc hẳn sẽ không "độc" bằng biển 9999. Vì vậy, cho dù có quy chế đấu giá có trở thành hiện thực thì những dạng biển 5 số như ví dụ nêu trên khó lòng hấp dẫn để người mua chịu móc hầu bao "khủng" ra... đấu nhau. Mặt khác, khi "chuẩn" biển đẹp mới chưa ra đời thì kho biển 4 số đã "cạn" và hiện không còn được CSGT địa phương cấp. Mặt khác, kho số mới hiện tại vẫn đang được cấp mới đều đều nên việc giữ một kho số đẹp là gần như không thể vì hiện chưa có quy định nào về việc giữ lại nhằm đấu giá. Vì vậy, kho số đẹp đã bị mai một từng ngày và dĩ nhiên rồi cũng sẽ "cạn" dần dần mà ngân sách nhà nước chẳng được thêm đồng nào. Thế nên, thực tiễn đầy bất cập cùng báo cáo xin dừng xây dựng thông tư liên tịch về đấu giá biển số đẹp của Bộ Tài chính có lẽ đã khép lại cánh cửa "đấu giá biển đẹp" manh nha trước đây. Đề án này rơi vào... phá sản?

3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Khó cưới “người mới“ vì từng sống như vợ chồng với “người cũ“. Bài báo phản ánh: Cán bộ Tư pháp – Hộ tịch một số địa phương đang không biết xử trí ra sao trước đề nghị xác nhận tình trạng hôn nhân của những trường hợp được pháp luật công nhận là vợ chồng nhưng hiện không còn chung sống với nhau. Theo Nghị quyết 35/2000/QH10, những trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3/01/1987 mà không đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vì vậy, khi muốn đăng ký kết hôn với người khác phải yêu cầu toà án giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, một hướng dẫn của Bộ Tư pháp lại cho rằng, những người chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 nhưng hiện nay không còn chung sống với nhau thì cũng không được coi là người đang có vợ hoặc đang có chồng.

Tháng 7/2011 bà Nguyễn Thị N. đến UBND xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp yêu cầu xác nhận tình trạng độc thân của mình để đăng ký kết hôn với chồng là ông Trần Xà Đ. ngụ ấp Đông Quới, xã Tân Khánh Đông, thị xã Sa Đéc. Tuy nhiên, bà trình bày trước năm 1987 từng sống chung với một người đàn ông và có đến hai người con sinh năm 1984 và năm 1986. Hiện nay, bà không còn chung sống với người đàn ông này nữa và không còn liên hệ với người chồng cũ (không đăng ký kết hôn) và người đàn ông này cũng đã có vợ, có con. Bà N. yêu cầu xã xác nhận hiện nay bà độc thân và chưa đăng ký kết hôn. UBND xã từ chối xác nhận với lý do bà đã có chồng vì sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 dù không đăng ký kết hôn thì pháp luật cũng công nhận họ là vợ chồng. Nếu muốn xác nhận tình trạng hôn nhân thì phải yêu cầu toà án giải quyết ly hôn.

Tương tự, trường hợp của ông Nguyễn Văn Ph. cũng đến UBND xã Tân Dương, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân để đăng ký kết hôn với bà Nguyễn Thị Th. Ông trình bày trước năm 1987 ông cũng đã chung sống với một người phụ nữ và có một người con, hiện nay ông không còn sống chung với người phụ nữ đó. Cán bộ tư pháp từ chối xác nhận tình trạng hôn nhân cho ông Ph. vì cho rằng ông Ph. đã có vợ, phải ly hôn với người phụ nữ mà ông đã sống chung như vợ chồng khi đó mới xác nhận tình trạng hôn nhân được. 

Nghị quyết 35/2000/QH10 quy định những trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3/01/1987 mà không đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng, do đó, trong trường hợp của bà N. hay ông Ph., dù không đăng ký kết hôn nhưng pháp luật vẫn công nhận họ là vợ, chồng nên UBND xã từ chối yêu cầu xác nhận độc thân là đúng quy định.

Luật sư Hứa Văn Đức – Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Tháp cho biết: “Trường hợp nam hoặc nữ sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 dù không đăng ký kết hôn pháp luật vẫn công nhận họ là vợ chồng. Do vậy khi đăng ký kết hôn với một người khác họ phải chấm dứt quan hệ hôn nhân thực tế bằng cách yêu cầu cầu toà án giải quyết ly hôn hay thuận tình ly hôn. Khi có quyết định hay bản án ly hôn của toà án họ sẽ có quyền đăng ký kết hôn mới”.

Ông Trương Phước Tự - Chánh án Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, người đã từng xét xử ly hôn cho nhiều trường hợp sống chung như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 cho biết: “Pháp luật thừa nhận nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 là vợ chồng dù không đăng ký kết hôn còn gọi là hôn nhân thực tế.

Khi người nam hoặc nữ này muốn đăng ký kết hôn mới phải gửi đơn đến tòa án yêu cầu giải quyết ly hôn và khi có bản án hay quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật thì mới xác nhận tình trạng hôn nhân để đăng ký kết hôn mới. Trường hợp UBND cấp xã không phát hiện vẫn giải quyết đăng ký kết hôn cho bên nam hay bên nữ thuộc trường hợp hôn nhân thực tế này thì khi có yêu cầu Tòa án sẽ hủy hôn nhân trái pháp luật”.

Công chức Tư pháp – hộ tịch xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp cho biết: “Những trường hợp sống chung như vợ, chồng trước ngày 03/01/1987 rất khó xác định và tùy thuộc vào việc người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân khai nhận. Đối với công chức tư pháp thụ lý yêu cầu, khi có nghi ngờ thì tiến hành xác minh tránh trường hợp xác nhận tình trạng hôn nhân cho những đối tượng này”. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp trả lời các đề xuất, kiến nghị của các Sở Tư pháp tại Công văn số 4982/BTP-VP nêu rõ: “…những người chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 nhưng hiện nay không còn chung sống với nhau thì cũng không được coi là người đang có vợ hoặc đang có chồng. Như vậy, những trường hợp nêu trên không phải yêu cầu đương sự làm thủ tục ly hôn. Tuy nhiên, trong trường hợp hai bên có yêu cầu ly hôn thì Tòa án vẫn thụ lý giải quyết và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng (Điểm c, Mục 3, Nghị quyết số 35/2000/QH10)”. Từ những hướng dẫn, cách giải quyết trái chiều nhau dẫn đến không thống nhất, thiết nghĩ quy định này cần được hướng dẫn cụ thể và thống nhất.

4. Báo Lao động phản ánh: TAND huyện Quảng Trạch (tỉnh Quảng Bình) vừa đưa vụ án cán bộ tư pháp xã "dâm ô" với trẻ em ra xét xử, đối tượng là Phan Đình Chiến (24 tuổi, trú tại xã Quảng Tiên, huyện Quảng Trạch, là cán bộ hợp đồng tại xã).

Trước đó, như Laodong.com.vn đã đưa tin, khi Chiến đến nhà một người bạn ở cùng xã chơi nhưng cả nhà đi vắng, chỉ có con gái bạn mình mới 12 tuổi ở nhà ngồi xem tivi, y đã nảy sinh ý định xấu và bế bé gái vào giường nhằm thỏa mãn thú tính. Khi y đang sàm sỡ thì bé gái đã chống cự, cắn vào vai và chạy thoát ra ngoài kêu cứu. Đúng lúc đó bố cháu bé vừa về đến nhà và phát hiện ra sự việc. Với hành vi trên, Chiến đã bị khởi tố về tội “dâm ô với trẻ em”, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Phan Đình Chiến 15 tháng tù nhưng được hưởng án treo.

5. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Mất nhà vì nợ mười triệu đồng. Bài báo phản ánh: Nhìn di ảnh con trai, bà Lại Thị Huệ (ngụ ấp 2, xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn) lặng lẽ khóc. Bao nhiêu tiền bạc gom góp, vay mượn bà dồn hết chữa bệnh cho con. Nào ngờ con mất, chỗ ở duy nhất của vợ chồng cũng sắp thuộc về người khác. Tết đến nơi, vợ chồng bà thấp thỏm sợ cơ quan thi hành án đến cưỡng chế giao nhà...

Ngày 6-4-2007, TAND huyện Hóc Môn mở phiên xét xử vụ tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Bích Ngọc (ngụ Q12) và bị đơn là bà Lại Thị Huệ. Bà Ngọc trình bày: tháng 8-2005, vợ chồng bà Huệ vay của bà 21 triệu đồng với lãi suất 3%/tháng, thời hạn 6 tháng, đến kỳ trả nợ bà Huệ không thực hiện. Bà kiện ra tòa yêu cầu bà Huệ phải trả cả vốn lẫn lãi tính theo lãi suất ngân hàng. Trước tòa, bà Huệ trình bày hoàn cảnh gia đình đang hết sức khó khăn, xin được trả góp mỗi tháng 500 ngàn đồng. Tòa tuyên buộc vợ chồng bà Huệ phải trả ngay bà Ngọc 24,8 triệu đồng.

Theo Chi cục thi hành án dân sự (THADS) huyện Hóc Môn thì sau khi án có hiệu lực, vợ chồng bà Huệ không tự nguyện thi hành án, qua xác minh, biết vợ chồng bà có căn nhà nhỏ tại ấp 2, xã Đông Thạnh, nên chấp hành viên đã ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp kê biên toàn bộ căn nhà để đảm bảo việc trả nợ. Tháng 5-2008, cơ quan THADS định giá tài sản trên là 524 triệu đồng, là giá khởi điểm để bán đấu giá căn nhà. Sau hai lần giảm giá xuống còn 467 triệu đồng, căn nhà vẫn chưa bán được vì không có khách hàng đăng ký đấu giá, trong khi đó bà Ngọc cũng không đồng ý nhận tài sản để thi hành án. Tháng 7-2011 có người đồng ý mua tài sản này với giá 485 triệu đồng và đã nộp đủ tiền cho cơ quan THA, Chi cục THADS kết hợp chính quyền địa phương đến nhà bà Huệ yêu cầu giao tài sản cho người trúng đấu giá nhưng vợ chồng bà Huệ phản kháng quyết liệt.

Bản án nghe có vẻ rất hợp lý, nhưng có thấu nỗi đau của người trong cuộc? Tiếp xúc với chúng tôi, bà Huệ ấm ức kể trong nước mắt: năm 2005, đứa con trai duy nhất của vợ chồng bà mắc bệnh hiểm nghèo, bao nhiêu tiền của gom góp được bà đều đổ dồn chữa bệnh cho con. Đến khi sức cùng lực kiệt, ngoài việc bán mảnh vườn sát nhà với giá hơn 10 triệu đồng, vợ chồng bà vay nóng của ông Sơn (chồng bà Ngọc) 10 triệu đồng với hy vọng bệnh tình của con sẽ thuyên giảm. Nhưng rồi con bà qua đời, để lại cho gia đình một nỗi đau không gì bù đắp. Đau đớn hơn là số tiền 10 triệu đồng vay nợ, sau khi trả được ba tháng tiền lãi (tổng cộng 6 triệu đồng), bà Huệ không còn khả năng thanh toán. Cuối cùng, chủ nợ buộc bà phải viết giấy nợ cả gốc lẫn lãi lên đến 21 triệu đồng. Phiên tòa xét xử yêu cầu bà phải trả tiền cho chủ nợ là đúng, nhưng điều đáng nói là theo bà Huệ, sau khi án có hiệu lực, bà đã chạy vạy vay mượn bên gia đình chồng đủ số tiền trả cho bà Ngọc, đến gặp cơ quan THA xin được gặp bà Ngọc, ông Sơn để trả nợ thì không được chấp thuận. Điều khiến bà Ngọc bức xúc là Chi cục THADS huyện Hóc Môn đã rất “nhiệt tình” trong việc muốn bán căn nhà của bà để trả nợ (?!)

Khi chúng tôi đến địa phương, rất đông người dân đã có mặt, chia sẻ nỗi đau của bà Huệ. Ông Nguyễn Văn Châu - Tổ trưởng tổ 15, ấp 2 - cho biết: “Thật quá bất công khi chỉ với số tiền mượn 10 triệu đồng chữa bệnh cho con mà phải bị phát mãi căn nhà. Vợ chồng bà Huệ đã quá khốn khổ, giờ chỗ ở duy nhất cũng bị lấy nốt thì họ biết sống ở đâu?”. Nhiều người bày tỏ: “Lúc con chị Huệ mắc bệnh, chúng tôi cũng ít nhiều giúp đỡ nhưng chẳng thấm tháp vào đâu. Phải chi số tiền vay nợ lớn, cơ quan chức năng phân xử kiểu ấy chúng tôi không có ý kiến. Đằng này lại dồn người ta vào thế đường cùng thì thật tàn nhẫn. Bà con trong vùng rất bất bình trước lối hành xử của cơ quan chức năng”. Chúng tôi không bình luận gì thêm bởi ý kiến người dân ấp 2, xã Đông Thạnh đã nói lên tất cả. Mong sao Cơ quan THADS huyện Hóc Môn giải quyết vụ việc thấu lý, đạt tình.

 



File đính kèm