I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Dân Việt có bài 8 kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Bài báo đưa tin: Ngày 26.2, tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch Nguyễn Duy Lượng, T.Ư Hội NDVN tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 trong hệ thống tổ chức Hội NDVN.
Theo báo cáo, thực hiện Hiến pháp, các cấp Hội đã năng động, sáng tạo, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; tăng cường tuyên truyền nâng cao hiểu biết pháp luật cho ND; vận động ND nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật; thực hiện vai trò đại diện cho giai cấp ND.
Hội ND đã tích cực cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của ND; tham gia thực hiện Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở; động viên, hướng dẫn ND thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở; chủ động tập hợp ND xây dựng các phong trào thi đua, tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ ND...
Thông qua xây dựng tổ chức Hội và tổ chức các phong trào ND, Hội đã kiến nghị với Đảng, Nhà nước bổ sung, hoàn thiện một số chủ trương, chính sách liên quan đến nông nghiệp, ND, nông thôn.
T.Ư Hội cũng có 8 kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Về những vấn đề chung, T.Ư Hội có 4 kiến nghị: Hiến pháp mới tổ chức bộ máy Nhà nước trên cơ sở phân định rõ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để mỗi cơ quan có thể kiểm soát, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan khác. Xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, xem xét lại vai trò của HĐND huyện, quận, phường, xã tổ chức lại hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Cần có quy định về đảm bảo an ninh lương thực, về việc việc xây dựng NTM và vai trò chủ thể của ND. Bên cạnh hệ thống các cơ quan tư pháp chính yếu, cần có quy định rõ về hệ thống bổ trợ tư pháp và việc xã hội hóa công tác tư pháp; những quy định về luật sư, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật... cần được thể chế bảo đảm quyền lợi của công dân, quyền con người trong xã hội và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp.
Liên quan đến MTTQ và các đoàn thể, T.Ư Hội có 4 kiến nghị: Hiến pháp mới thể hiện rõ, quy định cụ thể vị trí, vai trò của từng tổ chức làm cơ sở pháp lý cho các tổ chức hoạt động và nâng cao trách nhiệm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; Quy định đầy đủ, rõ ràng nội dung, hình thức, cơ chế và hiệu quả pháp lý hoạt động giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trước các yêu cầu kiến nghị, giám sát của MTTQ và các tổ chức thành viên, bảo đảm những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện quyền và trách nhiệm giám sát này; Bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ phản biện xã hội của MTTQ và các tổ chức thành viên, quy định cụ thể về cơ chế phản biện xã hội; Thay cơ chế “tạo điều kiện” của Nhà nước bằng cơ chế “đảm bảo” để MTTQ và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
2. Trang Vov.vn đưa tin VOV bình chọn 10 sự kiện trong nước 2011, đó là:
- Đại hội Đảng lần thứ XI mở ra thời kỳ phát triển mới của đất nước
- Bầu cử Quốc hội khóa XIII và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016
- Việt Nam tích cực, chủ động đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, thúc đẩy hợp tác, đối ngoại để giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình.
- Kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng dù gặp nhiều khó khăn
- Việt Nam quyết định tái cơ cấu nền kinh tế
- Miền Trung và ĐBSCL chìm trong mưa lũ – Việt Nam đối diện thách thức biến đổi khí hậu
- Hồi hương thành công hơn 10.000 lao động Việt Nam tại Libya.
- Lần đầu tiên Việt Nam nhìn nhận tai nạn giao thông là quốc nạn với hơn 11.000 người chết/năm
- Việt Nam có nhiều di sản được quốc tế vinh danh
- Một kỳ SEA Games thành công cùng những hy vọng và cả băn khoăn về nền thể thao nước nhà
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Thu ngân sách năm 2011: Vượt 16,3% dự toán pháp lệnh. Bài báo đưa tin: Hôm 26/12, Tổng cục Thuế đã tổ chức hội nghị triển khai Hội nghị công tác thuế năm 2012. Nhìn lại năm 2011, trong bối cảnh tình hình kinh tế tiếp tục khó khăn, tuy nhiên nhiệm vụ công tác thuế năm 2011 đã đạt được những kết quả toàn diện và căn bản...
Năm 2011 nhiệm vụ thu NSNN của ngành được giao là 451.300 tỷ đồng, trong đó thu từ dầu thô là 69.300 tỷ, thu nội địa trừ dầu là 382.000 tỷ và thu nội địa trừ dầu, trừ đất là 352.000 tỷ đồng. Kết quả thu năm 2011 ước đạt 525.000 tỷ đồng, vượt 16,3% so dự toán pháp lệnh, bằng 108% chỉ tiêu phấn đấu và tăng 21,4% so với cùng kỳ, trong đó: thu dầu thô ước đạt 100.000 tỷ đồng, bằng 144,3% dự toán (tương ứng tăng 30.700 tỷ) và tăng 44,6% so với cùng kỳ; thu nội địa ước đạt 425.000 tỷ đồng, vượt 11,3% (tăng 43.000 tỷ) dự toán pháp lệnh, bằng 101,9% chỉ tiêu phấn đấu và tăng 17% so với cùng kỳ...
Có 13/14 khoản thu, sắc thuế ước đạt, vượt dự toán pháp lệnh và tăng khá so với cùng kỳ năm 2010, trong đó: khu vực DN có vốn ĐTNN đạt 111,3%, tăng 24,8% so cùng kỳ; khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh đạt 110,6% dự toán, tăng 26,7%; thuế TNCN đạt 128,6% dự toán, tăng 41,4%... Riêng khoản thu phí xăng dầu không hoàn thành dự toán (bằng 94,6%).
Theo địa bàn có 63/63 địa phương thu đạt và vượt so với dự toán pháp lệnh. Xét về tổng số, có 53/63 địa phương hoàn thành dự toán phấn đấu. Nếu không kể tiền SDĐ có 48/63 địa phương hoàn thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu phấn đấu, trong đó có 18/63 địa phương vượt trên 10%; có 07/63 địa phương vượt từ 5%-10% dự toán phấn đấu; có 58/63 địa phương có tăng trưởng thu so với cùng kỳ.
Nếu không kể tiền SDĐ có 61/63 địa phương tăng trưởng, trong đó có 36/63 địa phương có mức tăng trưởng trên 20%, 19/63 địa phương có mức tăng trưởng từ 10-20%. Còn 02 địa phương có mức tăng trưởng thấp hơn cùng kỳ là Sóc Trăng (bằng 98,2%) và Quảng Ngãi (bằng 96%);
Về quy mô thu ngân sách, có 21 địa phương đạt trên 3.000 tỷ đồng, trong đó có 13 địa phương thu trên 5.000 tỷ đồng, tăng 01 địa phương so với thực hiện năm 2010; có 27 địa phương thu đạt 1.000 - 3.000 tỷ đồng; có 11 địa phương thu đạt từ 500 - 1.000 tỷ đồng, giảm 2 địa phương so với thực hiện năm 2010; chỉ còn 04 địa phương thu dưới 500 tỷ đồng, giảm 01 địa phương so với thực hiện năm 2010.
Trong bối cảnh dự báo tình hình kinh tế thế giới, trong nước tiếp tục khó khăn, năm 2012, ngành thuế đặt mục tiêu phấn đấu quyết liệt để hoàn thành vượt mức từ 3 - 5% nhiệm vụ thu NSNN đã được Quốc hội, Chính phủ và Bộ Tài chính giao (581.600 tỷ đồng, trong đó dầu thô là 87.000 tỷ đồng; thu nội địa là 494.600 tỷ đồng, không kể tiền SDĐ là 457.600 tỷ đồng, tăng 19,9% so với ước thực hiện năm 2011).
Đồng thời triển khai thực hiện triệt để các chính sách điều tiết vĩ mô của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh tiến trình cải cách hiện đại hoá hệ thống thuế đảm bảo lộ trình đã được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt, tiếp tục rà soát, cải cách thủ tục hành chính thuế đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các thể chế, chính sách thuế góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý thuế.
Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện tốt chương trình phòng và chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tăng cường công tác quản lý nội ngành, tăng cường kỷ cương kỷ luật, đổi mới phương pháp làm việc, cũng cố năng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị năm 2012 đã được Đảng, Nhà nước giao.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên Online có bài “Không dùng hộ khẩu để hạn chế các quyền khác của công dân”. Bài báo phản ánh: Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH, ông Nguyễn Đình Quyền nhấn mạnh quan điểm trên khi trao đổi với Thanh Niên xung quanh việc TP.Đà Nẵng vừa ban hành Nghị quyết hạn chế quyền nhập cư của người dân vào TP.
Đà Nẵng vừa ban hành nghị quyết, trong đó có quy định tạm dừng giải quyết nhập hộ khẩu mới đối với trường hợp đang ở nhà thuê, mượn, ở nhờ nhà người khác và không có việc làm ổn định... Là người từng tham mưu thẩm tra về luật Cư trú, ông nhìn nhận như thế nào về việc này?
Chúng ta đã ban hành luật Cư trú (được QH thông qua ngày 29.11.2006 và có hiệu lực từ ngày 1.7.2007 - PV), văn bản nào ban hành liên quan đến quyền cư trú của công dân mà trái luật Cư trú là không được, đó là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền (NNPQ). Đã là NNPQ thì mọi vấn đề phải giải quyết trên cơ sở của pháp luật mà pháp luật thì phải theo thứ bậc về hiệu lực thi hành: Hiến pháp cao nhất đến luật, sau đó mới đến các văn bản. Một địa phương nào ra văn bản trái với văn bản của Chính phủ đã không được rồi, chưa nói văn bản trái luật; Chính phủ còn không được ban hành văn bản trái luật, các bộ ngành cũng không được phép huống gì địa phương. Theo nguyên tắc NNPQ, không cơ quan nào được ban hành văn bản trái với luật QH đã ban hành.
Ban hành văn bản trái luật tức là kỷ cương không nghiêm, kể cả bất kỳ một bộ ngành hoặc là một địa phương nào. Tôi luôn theo quan điểm: trong một NNPQ thì pháp luật là tối thượng; còn nếu anh thấy bất cập thì không ai hạn chế anh kiến nghị sửa đổi, bổ sung. Ra văn bản trái luật thì Bộ Tư pháp sẽ “tuýt còi”, yêu cầu hủy ngay.
Vừa rồi trong nhiệm kỳ QH khóa 12, luật Thủ đô không được thông qua, một phần bởi các quy định được cho là vi hiến, trong đó có việc hạn chế quyền nhập cư vào nội đô TP cũng với các tiêu chí, điều kiện đi kèm tương tự nghị quyết Đà Nẵng vừa thông qua. Theo ông, nếu hạn chế quyền nhập cư của công dân sẽ dẫn tới các hệ lụy gì?
Khi làm luật Cư trú, quan điểm lúc đó là chúng tôi đã định đề nghị bỏ hộ khẩu, nhưng Chính phủ thiết tha đề nghị thực hiện một thời gian nữa, 5 năm, 7 năm hoặc 10 năm nữa sẽ tiến tới bỏ hộ khẩu, vì sau này, hộ khẩu, chứng minh thư với tàng thư căn cước đều sẽ là một. Vì vậy khi chưa thực hiện được phương án bỏ cư trú thì chúng tôi đã tạo một điều kiện cực kỳ dễ dàng cho tất cả mọi người có thể có quyền cư trú của mình, trong đó có quyền nhập hộ khẩu.
Đó là lý do sau luật Cư trú, việc nhập hộ khẩu cực kỳ dễ dàng, dễ đến mức để tiến tới bỏ. Đó là quan điểm nhất quán: không dùng hộ khẩu để hạn chế các quyền khác của công dân.
Tôi còn nhớ như in, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật thời điểm đó nêu rõ quan điểm không dùng hộ khẩu để hạn chế các quyền như quyền đi học, quyền xin việc làm, quyền đăng ký kết hôn, quyền làm giấy khai sinh... của công dân. Chính tôi là người đã viết trong báo cáo thẩm tra như vậy (ông Quyền thời đó là Vụ trưởng Vụ Pháp luật của Ủy ban Pháp luật - PV). Giờ nếu có địa phương nào làm trái luật thì sẽ bị bác thôi.
Quan điểm đó hẳn xuất phát từ thực tế trước khi ban hành luật Cư trú, một số TP lớn cũng đã “siết” điều kiện nhập cư khiến người không được nhập cư chịu nhiều hệ lụy, dẫn tới phát sinh tiêu cực?
Giải quyết quá tải thì phải thực hiện phương pháp quản lý nhà nước chứ không thể dùng quyền cư trú để hạn chế các quyền khác của công dân. Thời đó (khi soạn luật Cư trú - PV) cũng có những ý kiến cho rằng phải hạn chế nhập cư để tránh quá tải ở nội đô TP lớn nhưng nếu trường học quá tải, bệnh viện quá tải, đường sá quá tải... thì phải dùng biện pháp khác, còn nguyên tắc là người ta sinh ra bao giờ cũng phải có quyền cư trú, được cư trú. Các ý kiến được lật đi lật lại và cuối cùng vẫn tạo điều kiện cho công dân cư trú. Còn anh quản lý thế nào để đảm bảo đủ bệnh viện, đủ trường học, đủ đường giao thông... thì đấy là điều tiết của quản lý đô thị, cái đó không liên quan đến quyền cư trú. Không thể hạn chế quyền cư trú để coi đó là giải pháp của quản lý đô thị được.
Ở một số nước người ta cũng áp dụng biện pháp hạn chế nhập cư vào thủ đô nhưng đó chỉ là một trong những biện pháp hỗ trợ, còn thì phải có rất nhiều biện pháp khác, nếu không sẽ không thành công.
Nghĩa là sắp tới khi sửa đổi Hiến pháp, chúng ta sẽ tiếp tục quan điểm “không dùng hộ khẩu để hạn chế các quyền khác của công dân” đã được thống nhất khi ban hành luật Cư trú như ông vừa nói?
Vẫn tiếp tục đi theo hướng đó, thống nhất chứng minh thư, tàng thư căn cước và hộ khẩu là một văn bản và cách quản lý sẽ khác bây giờ. Bây giờ là giai đoạn quá độ và tôi nghĩ 5 năm nữa phải làm được. 5 năm nữa là phải bỏ cái hộ khẩu đi.
2. Báo Quân đội nhân dân có bài Xung quanh vụ chiếm dụng hơn 4,6 triệu USD của Công ty Cadovimex: Cần quyết liệt hơn để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp. Bài báo phản ánh: Theo kết quả giải quyết vụ tranh chấp hợp đồng thương mại giữa Công ty Cổ phần Chế biến và Xuất nhập khẩu thủy sản Cadovimex và Công ty South China Seafood (Mỹ) thì Công ty South China Seafood phải hoàn trả cho Công ty Cadovimex hơn 6000 thùng tôm đông lạnh đang lưu giữ tại kho đông lạnh của Công ty này tại Mỹ và phải trả hơn 4,6 triệu USD tiền hàng còn nợ và lãi do trả chậm. Vụ việc do Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam giải quyết.
Vụ việc bắt đầu từ năm 2005 khi Công ty Cadovimex ký hai hợp đồng mua bán và ký gửi hàng hóa với Công ty South China Seafood do ông Trần Kia, một Việt kiều làm chủ tịch. Hợp đồng thực hiện được hơn 1 năm, thì Công ty South China Seafood bắt đầu nợ với số tiền lên đến 3,7 triệu USD. Để đối tác có điều kiện trả nợ, Công ty Cadovimex vẫn ưu ái bán hàng cho Công ty South China Seafood. Thế nhưng, cả nợ cũ và nợ mới đều trở thành “nợ khó đòi”. Tháng 5-2008, Công ty Cadovimex đã khởi kiện tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam để yêu cầu giải quyết, buộc Công ty South China Seafood phải trả nợ. Lúc này, Công ty South China Seafood “biến mất” khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh.
Sau 8 tháng thụ lý vụ kiện và truy tìm bị đơn, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam đã ra được phán quyết, buộc Công ty South China Seafood phải trả nợ và trả hàng cho Công ty Cadovimex. Chỉ khi bị trọng tài xử thua, đại diện của Công ty South China Seafood mới xuất hiện và nộp đơn xin hủy quyết định trọng tài tại Tòa án TP Hồ Chí Minh. Trong hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, Tòa án TP Hồ Chí Minh và Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP Hồ Chí Minh đã bác yêu cầu của Công ty South China Seafood. Phán quyết trọng tài đã có hiệu lực và Công ty South China Seafood phải trả một khoản tiền gần 5 triệu USD, trong đó có tiền nợ, tiền lãi và cả phí trọng tài mà Công ty Cadovimex đã ứng trước khi khởi kiện.
Hiện tại, Công ty South China Seafood có một khối tài sản không nhỏ tại Việt Nam đó là Công ty TNHH Duyên hải Bạc Liêu, một doanh nghiệp thuộc sở hữu của Công ty South China Seafood được thành lập theo pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vì thế, Công ty Cadovimex đã yêu cầu Cục Thi hành án tỉnh Bạc Liêu kê biên tài sản này để bảo đảm thi hành án. Cục Thi hành án tỉnh Bạc Liêu đã thực hiện việc kê biên tài sản đối với Công ty Duyên hải Bạc Liêu. Thế nhưng đã có ý kiến không đồng tình về việc kê biên tài sản của công ty con để bảo đảm thi hành án của công ty mẹ. Vì thế, các cơ quan chức năng đã “họp liên ngành” để thống nhất giải quyết việc thi hành án, bảo đảm quyền lợi chính đáng cho doanh nghiệp đang bị đối tác quỵt nợ. Các cơ quan có thẩm quyền đã kết luận, nếu có đủ căn cứ chứng minh, Công ty Duyên hải Bạc Liêu là công ty “con” của South China Seafood, thì tài sản của pháp nhân này là tài sản có thể kê biên để bảo đảm thi hành án. Điều này cũng được khẳng định tại Công văn số 1710/BTP-THA, ngày 4-9-2009 của Cục Thi hành án dân sự (nay là Tổng cục Thi hành án dân sự) Bộ Tư pháp. Cục Thi hành án tỉnh Bạc Liêu đã xác định được mối quan hệ “mẹ - con” giữa hai công ty do ông Trần Kia làm chủ tịch và Tổng giám đốc. Theo thông báo của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 1994, Công ty South China Seafood đã thành lập doanh nghiệp 100% vốn có tên là Công ty TNHH Nam Hải sau được đổi tên thành Công ty Duyên hải Bạc Liêu. Đơn xin phép thành lập Công ty Nam Hải do chính ông Trần Kia, đại diện của Công ty South China Seafood ký. Phía cơ quan an ninh cũng cung cấp nhiều thông tin quan trọng về sự liên hệ giữa Công ty South China Seafood và Công ty Duyên hải Bạc Liêu. Theo đó, hai công ty này đều do ông Trần Kia thành lập ở Mỹ và Việt Nam. Từ năm 2003 đến năm 2009, thông qua Công ty South China Seafood, ông Trần Kia đã chuyển vào Công ty Duyên hải Bạc Liêu gần 3,6 triệu USD. Trước đó, công ty này được thành lập với số vốn hơn 5,1 triệu USD. Cơ quan an ninh điều tra cũng xác định, gần đây, Công ty của ông Trần Kia tại Mỹ cũng “mất tích” khỏi địa chỉ đăng ký kinh doanh. Hành vi của ông Trần Kia có dấu hiệu lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gần 5 triệu USD của Công ty Cadovimex. Vì thế, các cơ quan chức năng đề nghị Cục Thi hành án tỉnh Bạc Liêu nhanh chóng thi hành bản án, kê biên tài sản của Công ty Duyên hải Bạc Liêu để thu hồi tài sản cho Công ty Cadovimex.
Cơ sở pháp lý đã rõ ràng và được “thẩm định” thế nhưng đến nay, cơ quan thi hành án vẫn không thể xử lý tài sản của “con nợ” vì chưa có sự thống nhất trong công tác chỉ đạo thi hành án của lãnh đạo tỉnh Bạc Liêu. Vì quyền lợi hợp pháp của Công ty Cadovimex, đề nghị các cơ quan chức năng liên quan khẩn trương vào cuộc, giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, đúng quy định của pháp luật.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài “Biệt phái Chấp hành viên là việc nên làm”. Bài báo đưa tin nội dung phỏng vấn ông Nguyễn Văn Lực, Cục trưởng Cục THADS TP. HCM:
- Nhiều năm trước, TP. HCM luôn “than” quá tải công việc. Với kiện toàn bộ máy như năm vừa qua, tình trạng này đã được khắc phục chưa, thưa ông?
- Tình trạng quá tải công việc ở TP. HCM đến nay vẫn tồn tại. Mỗi năm 1 Chấp hành viên (CHV) của chúng tôi phải giải quyết 350 hồ sơ với số tiền hơn 20 tỷ đồng. TPHCM đã áp dụng biệt phái chấp hành viên từ quận ít án đến quận nhiều án, thành lập các tổ công tác giải quyết án tồn đọng nhưng vẫn chưa dứt điểm tình trạng quá tải. Tôi cho rằng, cần có cơ chế biệt phái CHV từ địa phương có lượng án ít đến nơi có án nhiều. Có thể điều vài chục CHV từ các địa phương khác đến TP. HCM trong vòng từ 6 tháng đến 1 năm, việc biệt phái này một số ngành (như Tòa án) đã làm.
- Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của THADS, nhiều ý kiến cho rằng một phần do bất cập của Luật THADS, ông có đồng quan điểm?
- Đúng vậy. Luật THADS có hiệu lực trên 2 năm nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành chưa được ban hành đầy đủ, một số quy định thiếu rõ ràng, cần được hướng dẫn; Thủ tục THADS còn rườm rà, kéo dài; Các quy định cho phép người được THA thực hiện quyền xác minh điều kiện THA của người phải THA chưa khả thi do trình tự, thủ tục thực hiện chưa được quy định rõ và sự phối hợp, hỗ trợ từ các cơ quan chức năng còn hạn chế; Cơ chế thực hiện thỏa thuận trong THA còn nhiều nhưng lại ít hiệu quả, làm hạn chế tác dụng răn đe của việc cưỡng chế THA. Sửa đổi Luật THADS trong giai đoạn này là cần thiết.
Nên có cơ chế khuyến khích chấp hành viên làm Thừa phát lại
- Chế định Thừa phát (TPL) lại tại TP. HCM theo đánh giá của Bộ Tư pháp bước đầu có hiệu quả, được xã hội đón nhận. Tuy nhiên, cái khó của TPL hiện nay là kinh nghiệm. Theo ông, cần giải quyết vấn đề này như thế nào?
- THADS là công việc khó khăn, phức tạp, bản thân chế định TPL chúng ta cũng mới làm thí điểm nên việc TPL chưa có kinh nghiệm cũng là chuyện dễ hiểu. Tôi cho rằng, cần xây dựng một số người có đạo đức năng lực trong cơ quan THA, động viên, thuyết phục họ ra làm nòng cốt cho các Văn phòng TPL. Nếu CHV muốn ra hẳn để làm TPL thì cần tạo điều kiện cho họ ra; khi họ muốn quay về thì cũng cần có cơ chế để tiếp nhận. Ta giao nhiệm vụ trong thời gian thí điểm thì dứt khoát phải xây dựng đội ngũ TPL có năng lực, trình độ và kinh nghiệm như CHV.
- Nhưng để ra làm TPL trong giai đoạn thí điểm như hiện nay, chắc chắn đại đa số CHV sẽ không muốn?
- Vì thế tôi mới nói phải có nhiều cơ chế động viên khuyến khích cả về vật chất lẫn tinh thần để họ vui vẻ đi. Với việc vận hành chế định TPL như hiện nay, nếu nhà nước đầu tư, chăm lo tôi cho rằng sẽ thành công
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thanh niên bỗng thành… em bé. Bài báo phản ánh: Sau khi lận đận xin cải chính ngày sinh từ 30-2-1982 thành 28-2 (vì tháng 2 không có ngày 30).
Mới đây, anh Nguyễn Phước Biến ở xã Huy Khiêm, huyện Tánh Linh (Bình Thuận) cầm quyết định cải chính hộ tịch của cơ quan chức năng đến công an để làm CMND. Tuy nhiên, công an từ chối cấp CMND cho anh vì trong giấy cải chính chỉ còn tên Nguyễn Phước. Chưa hết, chỗ cải chính ngày tháng năm sinh của anh từ 28-2-1982 thành… 28-2-2011. Tính theo giấy, anh chỉ mới… 10 tháng tuổi nên công an lắc đầu. “Cải lão hoàn đồng” kiểu này, chỉ khổ công dân!