Điểm tin báo chí sáng ngày 30 tháng 11 năm 2011

30/11/2011
Trong buổi sáng ngày 30/11/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Trang vtv.vn có bài "Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển". Bài báo phản ánh: Kinh tế VN năm 2011 đã vượt qua nhiều khó khăn và về cơ bản, VN đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển là đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế tại Hội thảo Nhận diện kinh tế VN năm 2011.  Đây là đánh giá chung của nhiều chuyên gia kinh tế tại Hội thảo Nhận diện kinh tế Việt Nam năm 2011 - Kịch bản cho năm 2012, các giải pháp định hướng ngắn hạn và trung hạn cho doanh nghiệp diễn ra hôm 27/11 do Trường đào tạo doanh nhân PTI tổ chức tại Hà Nội. Tại hội thảo, các chuyên gia cũng đưa ra kịch bản tăng trưởng cho năm 2012 và giải pháp cho doanh nghiệp.          

Theo các chuyên gia kinh tế, định hướng điều hành của Chính phủ năm 2012 vẫn tiếp tục chính sách tiền tệ chặt chẽ, linh hoạt và chính sách tài khóa chặt chẽ để kiềm chế lạm phát. Tăng trưởng vẫn được coi trọng, dự kiến 15-17%. Tuy nhiên, giảm đầu tư dễ dẫn đến suy giảm tăng trưởng.  Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển cho rằng, nếu không dịch chuyển vốn đầu tư vào khu vực kinh tế tư nhân và những lĩnh vực ngành nghề có tác động lan tỏa cao, sẽ rất khó đảm bảo mức tăng này. Ông cũng đưa ra giải pháp cho các doanh nghiệp trong năm tới là tập trung vào những sản phẩm có khả năng tiêu thụ nhanh để thu hồi vốn sớm và mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Còn theo Tiến sĩ Trần Đình Thiên, kinh tế Việt Nam năm 2012 cần một kịch bản hành động trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo là rất khó khăn, đó là cải cách hệ thống lương trong khu vực nhà nước, cải cách hệ thống ngân sách theo nguyên lý thị trường, thay đổi Luật Đất đai, ưu tiên dành vốn Nhà nước để xây dựng 3 khu kinh tế tự do, mở đường cho 4 vùng kinh tế trọng điểm.    

2. Báo Quân đội nhân dân có bài Đối thoại phòng, chống tham nhũng lần thứ 10. Bài báo đưa tin: Tăng cường tiếp cận thông tin, thực thi luật pháp và mở rộng sự tham gia của toàn xã hội là những lĩnh vực chính các đối tác phát triển quốc tế kêu gọi Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện để nâng cao hiệu quả của công tác phòng chống tham nhũng. Những kiến nghị này được đưa ra tại Đối thoại phòng, chống tham nhũng (PCTN) lần thứ 10 do Thanh Tra Chính phủ và Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN phối hợp với Vương Quốc Anh, với tư cách là nhà tài trợ điều phối về PCTN, tổ chức ngày 29-11 tại Hà Nội. Đối thoại lần này tập trung thảo luận những tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được sau 5 năm thực hiện Luật PCTN ban hành năm 2006 và tác động của 9 kỳ Đối thoại trước.

Tại Đối thoại, các đối tác phát triển như LHQ, Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Mỹ, Anh, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Anh… đã ghi nhận những thành tựu mà Chính phủ Việt Nam đạt được trong việc xây dựng khung pháp luật khá toàn diện, nhưng cũng chỉ ra rằng việc thực thi khung luật pháp đó mới là thách thức thực sự. Các bên đều đồng ý là đã đến lúc phải thúc đẩy hơn nữa tính minh bạch bằng việc ban hành và thực thi Luật tiếp cận thông tin; tăng cường sự tham gia của các bên liên quan khác nhau trong đó có chính quyền địa phương, xã hội dân sự, người dân và khu vực tư nhân; tạo điều kiện cho báo chí đóng vai trò tích cực trong việc phát hiện tham nhũng và quảng bá chương trình PCTN của Chính phủ.

Chính phủ Việt Nam và các đối tác phát triển cùng thống nhất là Đối thoại PCTN là một diễn đàn quan trọng và có thể được củng cố thông qua các hành động chung cụ thể là: Tập trung vào các chủ đề cụ thể bằng việc xây dựng một kế hoạch trung hạn cho các Đối thoại PCTN trong tương lai; Kết nối Đối thoại PCTN với khung theo dõi đánh giá của Chính phủ; Chuyển thành Đối thoại một năm một lần để có thể chuẩn bị tốt hơn với những bằng chứng mới; Mở rộng sự tham gia vào Đối thoại PCTN và các quá trình chuẩn bị đối thoại, đặc biệt là sự tham gia của chính quyền cấp tỉnh, xã hội dân sự và công dân và đảm bảo có những hoạt động tiếp theo từ các Đối thoại PCTN theo các lĩnh vực một cách có hệ thống.

Phát biểu tại Đối thoại, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, những vấn đề được trao đổi, thảo luận tại Đối thoại là kênh thông tin quan trọng được Chính phủ quan tâm khi ban hành chính sách, giải quyết nhằm tăng cường hiệu quả quản lý, khắc phục những sơ hở của cơ chế, chính sách, đặc biệt trong những lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng cao.

“Việt Nam nhận thức rõ một trong những lực cản, thách thức đối với sự phát triển của mình là vấn đề tham nhũng. Trên con đường phát triển, Việt Nam mong muốn và trân trọng sự đóng góp, chia sẻ những sáng kiến, kinh nghiệm của các đối tác, của bạn bè quốc tế để ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng”, Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh.

3. Báo Đầu tư chứng khoán điện tử có bài Các rủi ro liên quan về thuế. Bài báo phản ánh: Mặc dù hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế ngày càng được hoàn thiện, người nộp thuế vẫn gặp không ít khó khăn trong quá trình kê khai và nộp thuế. Cho dù đã nghiên cứu kỹ lưỡng luật thuế cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn để có thể chuẩn bị tờ khai thuế một cách thận trọng nhất, nhiều DN vẫn thấy "tim đập, chân run" mỗi khi nhận quyết định thanh tra thuế và gặp không ít "bất ngờ" trong quá trình làm việc với đoàn thanh tra thuế, hay xử lý các vấn đề chưa được quy định rõ tại các văn bản pháp luật. Vậy đâu là nguyên nhân? Cùng với quá trình mở cửa, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, Việt Nam đã đưa ra hàng loạt chính sách nhằm khuyến khích, thu hút đầu tư, gồm cả các nguồn đầu tư từ nước ngoài và các nguồn đầu tư trong nước, trong đó có các ưu đãi về thuế thu nhập DN (TNDN). Với sự phát triển của nền kinh tế, các ưu đãi dần được giảm bớt và thay thế bởi các mức ưu đãi phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. Mặt trái của quá trình này là có quá nhiều quy phạm pháp luật về ưu đãi thuế từ những thay đổi, cập nhật trong Luật Thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngoài ra, việc hợp nhất giữa Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước thành Luật Đầu tư năm 2005, cùng các quy định đan xen giữa Luật Đầu tư và Luật Thuế TNDN về các điều kiện ưu đãi cũng gây không ít khó khăn cho DN trong việc xác định mức ưu đãi thuế một cách chính xác.

Nhiều DN cho rằng, mức ưu đãi thuế ghi trong giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là chính xác và tiến hành kê khai, nộp thuế theo các mức ưu đãi trong giấy phép. Tuy nhiên, mức ưu đãi thuế này có thể vẫn không chính xác do xác định sai các điều kiện về địa bàn hay lĩnh vực ưu đãi đầu tư, hoặc đơn thuần do DN không đáp ứng được các tiêu chí (như tỷ lệ xuất khẩu hoặc số lượng lao động) theo quy định. Trong trường hợp này, cơ quan thuế có quyền áp dụng mức ưu đãi thấp hơn, dẫn đến việc truy thu thuế.

Đối với các DN thực hiện dự án tăng sản lượng sản xuất, mở rộng quy mô hoạt động (đặc biệt là các DN có vốn đầu tư nước ngoài), nhưng không tiến hành đăng ký dự án đầu tư và vẫn áp dụng mức thuế suất cho dự án đầu tư ban đầu cho toàn bộ thu nhập chịu thuế, thì sẽ gặp rủi ro do mức thuế suất ưu đãi thuế từ phần dự án đầu tư mở rộng thường thấp hơn nhiều so với mức ưu đãi áp dụng cho dự án ban đầu. Kể từ năm 2009, DN đang hoạt động có dự án đầu tư mở rộng thì phần thu nhập từ dự án này sẽ không được hưởng ưu đãi thuế TNDN.

 Một số DN thường gặp khó khăn trong việc xác định thuế nhà thầu nước ngoài (NTNN) khi ký hợp đồng cung cấp hàng hóa giao tại cửa khẩu kèm theo dịch vụ tại Việt Nam và cho rằng, phần giá trị hàng hóa giao tại cửa khẩu sẽ không thuộc đối tượng nộp thuế theo quy định và chỉ nộp thuế NTNN cho phần dịch vụ tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định tại Thông tư 134/2008/TT-BTC ngày 31/12/2008, trong trường hợp này, phần cung cấp hàng hóa vẫn chịu thuế NTNN.

Một số DN cũng thường nhầm lẫn khi xuất hóa đơn GTGT 10% trong trường hợp nhận tiền bồi thường vi phạm hợp đồng kinh tế từ phía đối tác. Trên thực tế, hóa đơn GTGT chỉ dành cho trường hợp cung cấp, trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Do đó, DN không phải xuất hóa đơn khi thu tiền phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, đồng thời thuế GTGT đầu vào của những hóa đơn này cũng sẽ không được khấu trừ.

Đối với thuế thu nhập cá nhân (TNCN), nhầm lẫn phổ biến thường xảy ra khi tiền lương được xác định trên cơ sở thu nhập sau thuế (thu nhập NET hay người sử dụng lao động chịu thuế TNCN) và người sử dụng lao động đồng thời cung cấp thêm một số khoản trợ cấp bằng tiền và các phúc lợi bằng hiện vật cho người lao động. Trong trường hợp này, chỉ các khoản trợ cấp bằng tiền được cộng gộp vào thu nhập sau thuế để quy đổi ra thu nhập chịu thuế và sau đó cộng với các khoản phúc lợi nhằm xác định thuế TNCN.

 Một DN hoạt động cung ứng dịch vụ có hợp đồng với thời gian thực hiện kéo dài qua nhiều kỳ kế toán, nếu chỉ căn cứ trên lợi nhuận kế toán để kê khai thuế TNDN thì có thể dẫn đến tình trạng kê khai không chính xác số thuế phải nộp. Doanh thu kế toán sẽ được xác định theo các phương pháp cụ thể tại chuẩn mực kế toán, trong khi doanh thu tính thuế như quy định tại Thông tư 130 là thời điểm hoàn thành cung ứng dịch vụ hoặc thời điểm xuất hóa đơn, tùy thời điểm nào xảy ra sớm hơn. Trong trường hợp này, DN cần phải điều chỉnh sự khác biệt giữa doanh thu tính thuế và doanh thu kế toán trong tờ khai quyết toán thuế TNDN.

Khác biệt giữa thuế và kế toán cũng xuất hiện trong trường hợp đánh giá lại chênh lệch tỷ giá cuối năm của các tài khoản tài sản có nguồn gốc ngoại tệ. Trong khi kế toán cho phép lãi (lỗ) từ việc đánh giá lại chênh lệch tỷ giá hối đoái này được hạch toán vào doanh thu (chi phí) trong kỳ, thì theo quy định về thuế, khoản lãi (lỗ) này không được coi là doanh thu chịu thuế (chi phí được khấu trừ).

Ngoài ra, đối với chi phí khấu hao tài sản cố định và trích lập các khoản dự phòng cũng thường có sự khác biệt giữa quy định của thuế và kế toán, đặc biệt là khi các DN có chính sách tính khấu hao và trích lập dự phòng riêng (đặc biệt là các DN có vốn đầu tư nước ngoài áp dụng theo quy định của tập đoàn mẹ), nhưng khác với các quy định về thuế.

 Một DN khi hoạt động sản xuất - kinh doanh sẽ gặp rất nhiều tình huống thực tế, trong khi các quy định tại luật thuế cùng nghị định và thông tư hướng dẫn chỉ giới hạn ở một số trường hợp nhất định. Các tình huống khác không được quy định thường được Bộ Tài chính và cơ quan thuế hướng dẫn cho từng trường hợp cụ thể dưới dạng công văn.

Các văn bản quy phạm về thuế ngày càng được bổ sung, hoàn thiện theo hướng các vướng mắc hiện tại chưa được giải quyết hoặc đã được trả lời tại các công văn riêng rẽ sẽ được hệ thống hóa và quy định trong các thông tư hoặc văn bản cao hơn. Dự kiến, trong năm 2012 sẽ có các sửa đổi về thuế TNDN, thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt và công tác quản lý thuế. Riêng đối với vấn đề chuyển giá, Nhà nước cũng đang xem xét xây dựng cơ chế Thỏa thuận trước về giá ("Advance Pricing Arrangement"), là thỏa thuận giữa cơ quan thuế và DN về phương pháp xác định giá tính thuế trước khi diễn ra giao dịch với các bên liên kết. Hy vọng rằng, những thay đổi tích cực này sẽ góp phần giúp các DN hiểu và áp dụng chính xác hơn các quy định về thuế, đảm bảo môi trường pháp lý trong lĩnh vực này ổn định hơn.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Sức khỏe & Đời sống có bài Chủ tịch nước yêu cầu báo cáo giải quyết vụ án Trung tâm Mắt Bình Thuận. Bài báo phản ánh: Liên tiếp trong các số báo từ 12/7 đến 15/11, SK&ĐS đã có loạt bài phản ánh vụ án xét xử “tham ô” tại Trung tâm Mắt Bình Thuận đã gây bức xúc trong dư luận với nhiều ý kiến trái chiều. Sau loạt bài của báo SK&ĐS, ngày 11/11/2011, Ủy ban Tư pháp Quốc hội cũng đã có Công văn số 215/UBTP13 gửi đồng chí Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao báo cáo bằng văn bản việc giải quyết vụ án nêu trên trước ngày 20/12/2011. Mới đây, ngày 17/11/2011, Văn phòng Chủ tịch nước có Công văn số 1064/VPCTN-PL gửi Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao truyền đạt ý kiến của Chủ tịch nước giải quyết vụ việc.

Theo Công văn số 1064/VPCTN-PL, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước, Văn phòng Chủ tịch nước chuyển đến Chánh án Tòa án nhân dân (TAND) Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao ý kiến của đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng gửi Chủ tịch nước ngày 3/11/2011. Nội dung ý kiến của đồng chí Lê Khả Phiêu đề cập đến vụ án tại Trung tâm Mắt tỉnh Bình Thuận. Vụ án này TTAND thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm và TAND tỉnh Bình Thuận xét xử phúc thẩm 2 bị cáo Đặng Thị Linh và Nguyễn Thị Thu Nguyệt về tội “tham ô tài sản”, trong đó đã tuyên phạt bị cáo Đặng Thị Linh 7 năm tù giam. Bà Đặng Thị Linh cho rằng mình bị oan sai và đề nghị xét xử lại bản án theo trình tự Giám đốc thẩm. Văn phòng Chủ tịch nước trân trọng chuyển đến Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao để chỉ đạo kiểm tra, xem xét và giải quyết theo thẩm quyền, trả lời đương sự và báo cáo kết quả giải quyết trình Chủ tịch nước.

Trước đó ngày 14/11, Thanh tra Bộ Tư pháp đã có Công văn số 145/CĐ-TTr gửi TAND Tối cao. Theo nội dung công văn, đồng chí Hà Hùng Cường, Bộ trưởng Bộ Tư pháp - đại biểu Quốc hội khóa XIII đã nhận được đơn của GS.TS. Nguyễn Trọng Nhân, Chủ tịch Hội Nhãn khoa Việt Nam và đơn của bà Đặng Thị Linh, thường trú tại 130 Thủ Khoa Huân, phường Bình Hưng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Kết quả nghiên cứu và bản chụp các tài liệu kèm theo cho thấy, GS.TS. Nguyễn Trọng Nhân và bà Đặng Thị Linh phản ánh về việc Bản án số 143/2011/HSPT ngày 5-13/10/2011 do TAND tỉnh Bình Thuận xét xử có nhiều sai phạm về tố tụng và sai phạm về chứng cứ. Qua đó GS.TS.Nguyễn Trọng Nhân và bà Đặng Thị Linh kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét kháng nghị theo trình tự Giám đốc thẩm bản án nói trên.

Căn cứ nội dung đơn và theo quy định tại Khoản a, Điều 87 của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (đã được sửa đổi, bổ sung các năm 2004, 2005), Thanh tra Bộ Tư pháp chuyển đơn và toàn bộ tài liệu liên quan kèm theo đề nghị TAND Tối cao quan tâm, xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật và trả lời cho đương sự.

Cũng liên quan đến vụ án xét xử “tham ô” tại Trung tâm Mắt Bình Thuận, Đoàn Chủ tịch, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã có Công văn số 82/ĐCT-CSLP do Phó Chủ tịch thường trực Nguyễn Thị Kim Thúy ký gửi đồng chí Chánh án TAND Tối cao, đồng chí Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao. Nội dung công văn đề nghị xem xét giải quyết theo thẩm quyền sau khi nhận được đơn của bà Đặng Thị Linh khiếu nại bản án hình sự phúc thẩm số 143/2011/HSPT ngày 5-13/10/2011 của TAND tỉnh Bình Thuận về tham ô tài sản.

Ngày 8/11/2011, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có Công văn số 18/VKSTC-V3 gửi Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án Đặng Thị Linh, Nguyễn Thị Thu Nguyệt phạm tội tham ô tài sản. Án phúc thẩm số 143/2011/HSPT ngày 5-13/10/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận để Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao có tài liệu nghiên cứu vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm.  

2. Báo Thanh niên Online có bài Khởi tố vụ án “nộp tiền khỏi... đi tù” Bài báo phản ánh: Vụ việc hy hữu vừa được phát hiện tại H.Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Theo thông tin Thanh Niên có được, cuối năm 2007 TAND H.Hiệp Hòa ra bản án tuyên buộc Nguyễn Văn Bắc (SN 1979) và Trần Văn Sự (SN 1962, cùng ngụ xã Hoàng Lương và cùng được tại ngoại) phải chấp hành 12 tháng tù giam về tội “tổ chức đánh bạc”.

Tháng 4.2008, tòa ra quyết định thi hành án đối với Bắc và Sự, đồng thời giao thư ký tòa là Nguyễn Văn Hải triệu tập các bị án đến để tống đạt quyết định thi hành án.

Bắc và Sự sau khi nhận quyết định đã đến tòa đặt vấn đề với Nguyễn Văn Hải xin được hoãn thi hành án và được yêu cầu đến nhà riêng của Hải để nói chuyện. Tại đây, Hải nói với Bắc và Sự nếu muốn ở nhà thì phải nộp 7 triệu đồng mỗi người. Hai người này đồng ý và đã đem tiền đến nộp cho Hải như thỏa thuận. Tháng 2.2009, Bắc và Sự được Hải đưa cho mỗi người một giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù. Hải dặn hai người về nhà lấy mực đen điểm chỉ vào rồi nộp cho công an xã. Sự việc vỡ lở vào tháng 3.2011, Công an H.Hiệp Hòa phát hiện ra vụ “tù chui”, Bắc và Sự sau khi bị triệu tập đến cơ quan công an đã khai nhận toàn bộ nội dung vụ việc. Nguyễn Văn Hải cũng thừa nhận đã lấy giấy chứng nhận chấp hành án phạt tù trong hồ sơ lưu của cơ quan ra cửa hàng photocopy nhờ cắt dán, đánh máy lại. Sau khi vụ việc bị phát hiện, các bị án đã tự nguyện đi chấp hành án phạt tù.

Ngày 28.11, Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội “lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.

Báo cũng có bài Đột nhập Chi cục thi hành án để trộm cắp. Bài báo đưa tin: Ngày 29.11, Công an H.Đông Anh, TP.Hà Nội đã phát hiện và bắt giữ Hoàng Trịnh Anh (SN 1982, ở Phúc Yên, Vĩnh Phúc) về hành vi “trộm cắp tài sản”, sau hơn 2 tuần lẩn trốn.

Tại trụ sở Công an H.Đông Anh, Anh khai nhận: 21 giờ ngày 14.11, lợi dụng sơ hở, đối tượng đã đột nhập vào phòng Chi cục phó Chi cục thi hành án H.Đông Anh, rồi dùng một thanh sắt cạy chốt khóa cửa, lấy trộm 80 triệu đồng để trong cặp da cùng 3 điện thoại di động.

Hiện Công an H.Đông Anh đang tiếp tục điều tra vụ việc.

3. Báo Tuổi trẻ Online có bài Xác định thời điểm tính tiền sử dụng đất. Bài báo phản ánh: Nhiều người dân tại khu đô thị Phú Mỹ Hưng (Q.7, TP.HCM) khá bất ngờ khi nhận được thông báo đóng tiền sử dụng đất cao gấp nhiều lần so với số tiền phải đóng ở thời điểm ký hợp đồng mua bán với chủ đầu tư.

Trong khi đó hiện nay ý kiến của các cơ quan chức năng về thời điểm để làm căn cứ tính tiền sử dụng đất còn khác nhau, chưa rõ ràng.

Chị K. - một người dân có căn hộ tại khu phố Sky Garden 2, khu đô thị Phú Mỹ Hưng - cho biết chị ký hợp đồng mua căn hộ với Công ty TNHH liên doanh Phú Mỹ Hưng (chủ đầu tư dự án) vào tháng 1-2006 và nhận căn hộ vào tháng 7-2006. Tuy nhiên, đến giữa năm 2009 hai bên mới đi công chứng hợp đồng mua bán. Theo chị K., việc chậm đi công chứng hợp đồng mua bán căn hộ là do lỗi của chủ đầu tư vì trong suốt thời gian trên chị không được chủ đầu tư thông báo gì về việc phải ra công chứng chứng thực hợp đồng mua bán.

Mới đây, chị K. nhận được văn bản từ Chi cục Thuế Q.7 thông báo số tiền sử dụng đất phải nộp cho căn hộ của chị gần 184 triệu đồng. Theo thông báo, Chi cục Thuế Q.7 căn cứ bảng giá đất năm 2009 (thời điểm công chứng hợp đồng mua bán căn hộ) để làm căn cứ tính tiền sử dụng đất và giá đất đường Nguyễn Văn Linh ở thời điểm này là 13,2 triệu đồng/m2. Trong khi đó, thời điểm chị K. ký hợp đồng mua bán căn hộ với chủ đầu tư vào năm 2006, giá đất đường Nguyễn Văn Linh chỉ 5,3 triệu đồng/m2 và tiền sử dụng đất chị phải nộp chưa đến 74 triệu đồng.

Hiện có 955 hồ sơ tương tự như chị K. đang nằm tại Chi cục Thuế Q.7 và các cơ quan chức năng khác, chưa nộp tiền sử dụng đất. Nếu áp dụng bảng giá đất tại thời điểm công chứng hợp đồng mua bán nhà, đất thì các hộ dân này phải nộp tiền sử dụng đất gấp 2-8 lần so với giá ở thời điểm ký hợp đồng với chủ đầu tư.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, Chi cục Thuế Q.7 cho biết cuối năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến về việc đóng tiền sử dụng đất tại khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng. Tuy nhiên, trong công văn này chưa nói rõ những trường hợp mua bán nhà đất trước ngày 1-7-2006 (thời điểm Luật nhà ở có hiệu lực) thì căn cứ theo hợp đồng công chứng hay hợp đồng mua bán với chủ đầu tư để tính tiền sử dụng đất. Trong khi theo hướng dẫn của UBND TP.HCM, đối với các hợp đồng mua bán ký trước ngày 1-7-2006 phải có công chứng hoặc chứng thực của cơ quan thẩm quyền. Điều này có nghĩa dù khách hàng và chủ đầu tư ký hợp đồng mua bán nhà, đất trước ngày 1-7-2006 nhưng việc công chứng hợp đồng diễn ra sau thời gian trên thì căn cứ theo thời gian công chứng hợp đồng để tính tiền sử dụng đất.

Tại công văn gửi Công ty TNHH liên doanh Phú Mỹ Hưng ngày 14-9-2011, Bộ Tư pháp cho rằng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn trên là tạo điều kiện thuận lợi và hợp lý cho khách hàng của Phú Mỹ Hưng đóng tiền sử dụng đất, theo thời điểm khách hàng ký hợp đồng với chủ đầu tư. Do vậy thời điểm tính tiền sử dụng đất theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ được hiểu là thời điểm ký hợp đồng ban đầu giữa chủ đầu tư và khách hàng (trước ngày 1-7-2006).

Ngày 8-11-2011, Cục Thuế TP.HCM đã có công văn xin ý kiến Bộ Tài chính về việc xác định thời điểm để tính tiền sử dụng đất đối với các trường hợp trên và đang chờ ý kiến của bộ. Trong thời gian chờ ý kiến của Bộ Tài chính, Chi cục Thuế Q.7 cho biết đã tạm dừng thông báo hoặc thu tiền sử dụng đất đối với người ký hợp đồng trước ngày 1-7-2006.



File đính kèm