I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Dân trí đưa tin: Ngày 17/8, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cùng các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) trong Đoàn ĐBQH Hải Phòng đã tiếp xúc cử tri tại thành phố Hải Phòng để báo báo kết quả Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII và lắng nghe các ý kiến, kiến nghị của cử tri.
Đề cập ý kiến của cử tri thành phố về tình hình gần đây trên Biển Đông, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, chủ quyền là thiêng liêng bất khả xâm phạm, Đảng, Nhà nước đã, đang và sẽ làm hết sức bằng sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc; tiếp tục khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nêu rõ, Việt Nam kiên trì chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc, đồng thời phản đối mạnh mẽ và kiên quyết đấu tranh với các hoạt động vi phạm chủ quyền và lợi ích chính đáng trên biển của đất nước ta.
2. Báo điện tử Chính phủ có bài Hoàn thiện hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp vận tải biển. Bài báo phản ánh: Ngày 17/8, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Bộ Phát triển Anh quốc (UKaid) tổ chức hội nghị “Hoàn thiện báo cáo rà soát Bộ Luật Hàng hải” để rà soát tiến tới nhằm hoàn thiện và chuẩn hóa các quy phạm pháp luật quốc gia phù hợp với các điều ước quốc tế về hàng hải.
Theo Luật sư Võ Nhật Thăng-Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, Bộ Luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 (BLHHVN) đã dần tiếp cận với các chuẩn mực của quốc tế, góp phần tích cực vào việc phát triển ngành hàng hải Việt Nam. Tuy nhiên, các đại biểu cho rằng, việc phát triển dịch vụ vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển ngày càng phát triển kéo theo các quy phạm và chế định pháp luật thuộc lĩnh vực này ngày càng đa dạng và phức tạp. Việc rà soát, đánh giá các vấn đề tồn tại của BLHHVN cần tập trung vào các quy định về địa vị của các chủ thể, vấn đề đăng kiểm tàu biển, vấn đề về bắt giữ tàu biển và các các quy định về thuyền viên….
Hiện nay các vấn đề liên quan đến thuyền viên được quy định tại nhiều văn bản khác nhau. Tuy nhiên, một số quy định pháp luật lại chưa thống nhất trong các vấn đề liên quan đến mức lương, chế độ bảo hiểm, thời giờ làm việc... Mặt khác, những quy định pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thuyền viên chưa có tính đặc thù phù hợp, đặc biệt đối với các thuyền viên làm việc trên tàu biển Việt Nam ở nước ngoài, nên chưa khuyến khích được lực lượng lao động tham gia lĩnh vực này.
Một số vướng mắc được các DN chỉ ra đó là các quy định về thẩm quyền giải quyết hàng hải. Theo đại diện các DN, thực tế “vận đơn” (hợp đồng) quy định thẩm quyền giải quyết của tòa án của nước nơi tàu mang cờ quốc tịch là hoàn toàn thuộc quyền thỏa thuận tự do hợp đồng của các bên. Do vậy, nên sửa đổi quy định này theo hướng quy định chi tiết cụ thể hơn nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của DN.
3.
Báo Giáo dục Việt Nam có bài Vụ 4 cháu chết thảm tại công trường: “Cần khởi tố vụ án hình sự". Bài báo phản ánh: Liên quan tới vụ việc 4 cháu nhỏ chết đuối tại công trường thi công nút giao thông Phú Đô nối đường Mễ Trì lên cầu vượt Mễ Trì gây bức xúc trong dư luận, TS luật Trần Đình Triển đã lên tiếng: "tất cả các công trình giao thông, xây dựng hạ tầng, hay ở các khu công nghiệp, trong quy định của pháp luật thì các đơn vị thi công, nhà thầu phải đảm bảo tối đa độ an toàn về tính mạng con người và tài sản".
Theo ông Triển, trong sự việc này đã có dấu hiệu cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Cơ quan công an cần vào cuộc khởi tố vụ án hình sự, xem xét trách nhiệm của những người đứng đầu đơn vị thi công, chủ thầu, chủ đầu tư. Có như vậy mới có ý nghĩa giáo dục và phòng ngừa chung để phòng tránh những sự việc tương tự có thể xảy ra.
Ông Triển cũng khẳng định, trong sự việc này, đơn vị thi công đã vi phạm Điều 165, Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, vi phạm Điều 227 Tội vi phạm về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi đông người và Điều 285 Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong Bộ Luật hình sự
4. Trang VEF.VN có bài Đề xuất bỏ con dấu trong kinh doanh. Bài báo hản ánh: Tại hội thảo Hoàn thiện báo cáo rà soát Luật Doanh nghiệp do Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI) phối hợp với dự án USAID hỗ trợ thi hành pháp luật về hội nhập kinh tế, tổ chức mới đây tại Hà Nội, luật gia Cao Bá Khoát - chuyên gia của Tổ rà soát và thực hiện báo cáo này, nêu quan điểm, cần sửa đổi Điều 36 của Luật doanh nghiệp theo hướng không bắt buộc doanh nghiệp (DN) phải có con dấu.
Theo quan sát của vị luật sư đã đóng góp nhiều công sức xây dựng Luật Doanh nghiệp cách đây hơn một thập kỷ, tâm lý quá coi nặng vấn đề con dấu bởi suy nghĩ con dấu được cơ quan có thẩm quyền cấp, thể hiện tính hợp pháp và quyền lực. Do đó dẫn đến một nghịch lý là nhiều trường hợp, trong khi chữ ký chỉ là bản sao (photocopy) nhưng khi được đóng dấu đỏ thì lại có giá trị chính thức. Thực trạng quản lý và sử dụng con dấu chưa tốt, ông Sĩ giao đề bài cho Tổ rà soát sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005 lần này cần nghiên cứu xem xét xem chúng ta có cần con dấu nữa hay không? Con dấu khác với chữ ký ở chỗ nào? Tại sao nhiều nước trên thế giới chỉ cần có chữ ký mà không cần con dấu, trong khi ta vẫn phải có cả hai thứ?
Nhiều ý kiến đồng tình, ủng hộ về chủ trương bỏ con dấu tuy vậy, nếu áp dụng trong bối cảnh hiện nay, không ít đơn vị tỏ ra băn khoăn.
Nhất là ở điều kiện VN hiện nay, bất chấp quy định của Chính phủ - con dấu chỉ được đóng vào chữ ký của người đại diện pháp luật, của thủ trưởng cơ quan, người được ủy quyền hoặc cùng lắm là người được ủy quyền trong 1 cấp. Nhưng hầu hết DN hiện thời, một nhân viên bình thường, không có chức danh gì cũng có thể đại diện ký hợp đồng mua bán, ủy quyền công chứng khắp cả nước... Các doanh nghiệp khác nhau thì đơn vị, phòng ban đứng ra đóng dấu cũng khác nhau.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Phụ nữ có bài Món nợ từ trên trời rơi xuống. Bài báo phản ánh: Bà Trịnh Thị Phụng, hiện trú tại tổ 19, KP.1, P.3, thị xã Tây Ninh nhận được “Quyết định án theo yêu cầu” của Chi cục Thi hành án thị xã Tây Ninh ngày 22/7/2011, buộc bà “phải có nghĩa vụ trả cho bà Huỳnh Thị Giàu 150.000.000đ”. Chồng bà Phụng là ông Nguyễn Văn Tờ, thương binh hạng 3/4 hiện bị liệt nằm một chỗ, rất bức xúc trước món nợ “trên trời rơi xuống” này.
Theo bà Phụng, đầu năm 2009, ông Tờ bị tai nạn giao thông, dẫn đến chấn thương sọ não, phải đưa đi cấp cứu ở BV Chợ Rẫy, TP.HCM. Túng quẫn, bà Phụng vay 10.000.000đ của bà Huỳnh Thị Giàu trú tại ấp Ninh Thọ, xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh với điều kiện 10 ngày trả lãi một lần. Khi chồng thoát cơn hiểm nghèo, 10 ngày sau bà Phụng tới nhà bà Giàu để thanh toán nợ thì mới tá hỏa vì bị tính lãi mỗi ngày 300.000đ. Vì số tiền lãi đã là 3.000.000đ, không đủ tiền nộp, bà phải ký nhận vay thêm. Lần thứ hai cũng tương tự như vậy, bà Phụng phải ký nhận vay tiếp. Từ 28/1/2009 đến ngày 28/9/2009, bà Phụng phải ký nợ tới tám lần và “lãi mẹ đẻ lãi con”, lên tới 154.000.000đ. Hiện nay với việc làm không ổn định, chồng nằm liệt một chỗ, bà Phụng không biết xoay xở cách nào để trả nổi khoản nợ ấy. Nhà đất của gia đình bà nằm trong diện giải tỏa nên không thể thế chấp vay tiền ngân hàng. Việc đưa nhau ra tòa là hiển nhiên và ngày 24/6/2011 TAND thị xã Tây Ninh có giấy triệu tập bị đơn Trịnh Thị Phụng tới tòa để giải quyết vụ kiện “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” do Huỳnh Thị Giàu là nguyên đơn.
Sau lần hòa giải chiều ngày 24/6/2011, dù bà Phụng trình bày hoàn cảnh khó khăn của mình, xin trả mỗi tháng 300.000đ, nhưng bà Giàu vẫn một mực đòi trả hết số nợ. Kết quả: ngày 14/7/2011, TAND thị xã Tây Ninh ra Quyết định số: 89/QĐST-DS, buộc bà Phụng phải thanh toán số tiền 150.000.000đ cho bà Giàu. Mặc dù phương cách, thủ đoạn cho vay tiền “cắt cổ” của bà Giàu hoàn toàn sai với quy định tín dụng của Nhà nước, nhưng theo lý thì bà Phụng không thể từ chối trả nợ vì đã ký nhận nợ số tiền trên. Trong khi đó, Chi cục Thi hành án thị xã Tây Ninh lại buộc bà phải trả nợ trong thời hạn 15 ngày kể từ 22/7/2011, đồng thời phải nộp án phí sơ thẩm hơn 3.700.000đ. Ông Tờ đau khổ nói: “Không biết tính kiểu gì mà vay có 10 triệu giờ thành 150 triệu”.
Theo luật sư Lê Văn Đạt (Hội Luật gia Tây Ninh), việc tòa án buộc bà Phụng phải trả số tiền 150 triệu đồng cho bà Giàu là xử theo “tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Nếu bà Phụng làm đơn tố cáo về việc cho vay nặng lãi thì sự việc sẽ khác. “Theo điều 163 - Bộ luật Hình sự quy định về tội cho vay nặng lãi, thì người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên, thì bị phạt tiền từ một lần đến 10 lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Mức lãi suất cao nhất được căn cứ vào lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tại thời điểm cho vay”.
Vì thế, để giải quyết vấn đề này, bà Phụng cần có bản tường trình sự việc gửi TAND thị xã Tây Ninh và cơ quan công an, sau đó thực hiện quyền kháng cáo tới tòa phúc thẩm.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Án đã thi hành, không nên kháng nghị thiếu căn cứ! Bài báo phản ánh: Nhiều luật sư khi được hỏi đã cho rằng những vụ đã thi hành án xong thì không nên kháng nghị giám đốc thẩm để đảm bảo tính ổn định của bản án và tránh rắc rối, phức tạp về sau. Trừ trường hợp thật sự cần thiết, như liên quan đến tính mạng con người hoặc ảnh hưởng đến nhiều người. Kháng nghị sao cho đúng pháp luật vẫn là một câu hỏi? Bởi có những vụ oan, muốn kháng nghị cũng cực khó. Ngược lại, Tòa xử đã đúng mà vẫn bị kháng nghị. Vậy, nếu kháng nghị sai có bị chế tài? Câu hỏi đang được dư luận quan tâm!
Trong vụ tranh chấp quyền sử dụng đất và nhà ở, ông Vương Văn Nghĩa (SN 1927) ngụ xã Tam Phước, TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai là nguyên đơn, bị đơn là ông Vương Tấn Hùng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Hòe và bà Nguyễn Thị Thanh Thúy. Theo nội dung Bản án sơ thẩm ngày 31/8/2006 của TAND huyện Long Thành và Phúc thẩm ngày 29/3/2007 của TAND tỉnh Đồng Nai đều tuyên buộc ông Hùng và bà Thúy có trách nhiệm trả lại cho ông Nghĩa giá trị tài sản là 500 triệu đồng. Do ông Hùng và bà Thúy không chịu tự nguyện thi hành án nên tài sản đã được Trung tâm Bán đấu giá tài sản mang ra bán đấu giá. Theo đó, ông Đinh Xuân Tuyến trú tại phường Tam Phước, TP. Biên Hòa là người trúng đấu giá và đã nộp đủ số tiền gần 1,25 tỷ đồng. Sau đó ông Hùng khiếu nại bản án.
Ngày 5/5/2011, VKSNDTC có Văn bản số 1168/VKSNDTC-V5 (Vụ 5) về việc trả lời đề nghị kháng nghị: Đối với Quyết định 01 của TAND huyện Long Thành và Bản án Dân sự phúc thẩm số 79/DS-PT 26, 29/3/2007 của TAND Đồng Nai theo quy định đến nay đã hết thời hiệu để xem xét thủ tục giám đốc thẩm. Bên cạnh đó, Tòa Dân sự TANDTC cũng đã có Công văn 30/TANDTC-DS ngày 21/1/2010 trả lời đương sự là không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Vậy nhưng, bất ngờ ngày 20/6/2011, VKSNDTC lại tiếp tục có Văn bản số 1966/VKSNDTC-V10 (Vụ 10) nêu: Bà Nguyễn Thị Thanh Thúy có đơn khiếu nại nên yêu cầu Chi cục THADS huyện Long Thành cung cấp hồ sơ thi hành án. Thế là mọi việc phải dừng lại, ông Nghĩa – người được thi hành án và người trúng đấu giá là ông Tuyến lại phải “đội đơn” khắp nơi: Yêu cầu được thi hành án và được giao tài sản mà ông trúng đấu giá. Trong khi, người trúng đấu giá phải được pháp luật bảo vệ tuyệt đối; Còn ông Nghĩa cũng “dở khóc, dở cười”, vì án tuyên rồi mà không được thi hành; Cơ quan THADS cũng “khổ” vì không thể thi hành! Chúng tôi cho rằng, việc kháng nghị giám đốc thẩm thiếu căn cứ xác đáng sẽ làm cho nhiều bản án không có điểm dừng, xử đi xử lại rồi lại quay về vạch xuất phát…
Một thẩm phán chia sẻ, trong án dân sự, đương sự dù thua kiện vẫn thường có tâm lý khiếu nại “còn nước, còn tát”, ngay cả khi biết mình “đuối” lý. Phía thắng kiện phải lãnh phần thiệt trong các trường hợp lạm dụng kháng nghị bởi nguyên tắc cứ có kháng nghị là phải tạm hoãn thi hành án. Như Bản án số 123/2008/DSST ngày 10/4/2008 của TAND Bình Dương dù đã xét xử “thấu tình đạt lý” và đã được thi hành án xong nhưng vẫn bị kháng nghị ngon lành.
Theo đó, án tuyên chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn Đảo và cụ Nguyễn Thị Si gồm toàn bộ tài sản là bất động sản (hơn 2.500m2) cùng tài sản gắn liền trên đất tại phường Phú Thọ, TX Thủ Dầu Một, Bình Dương. Theo đó, ông Nguyễn Văn Trúng được quyền sử dụng hơn 1,1 nghìn m2, được sở hữu nhà chính…tổng trị giá tài sản gần 3 tỷ đồng. Ông Trúng có nghĩa vụ hoàn lại cho ông Nguyễn Văn Khỉa hơn 1,4 tỷ đồng, ông Nguyễn Văn Bia hơn 6,7 triệu đồng và được sử dụng hơn 700 m2 đất trồng cây lâu năm (trị giá hơn 1,4 tỷ đồng), gia đình bà Nguyễn Thị Năm gần 48 triệu đồng. Bà Năm và các con gồm: Nguyễn Thị Rê, Nguyễn Thị Ngoạn, Nguyễn Thị Lợi và Nguyễn Văn Lộc cùng được quyền sử dụng hơn 690 m2 đất trồng cây lâu năm (trị giá gần 1,4 tỷ đồng).
Án phúc thẩm do TANDTC ban hành có hiệu lực thi hành và cơ quan THADS đã thi hành xong, nhưng sau đó lại “lù lù” kháng nghị. Quyết định kháng nghị được ban hành ngày 6/4/2011, tức chỉ còn 4 ngày nữa là hết thời hiệu kháng nghị. Ngày 14/6/2011, kháng nghị mới được gửi đi và ngày 20/6 các cơ quan chức năng mới nhận được. Nhiều luật sư cho rằng, quyết định kháng nghị được phát hành sau 70 ngày kể từ ngày ký là trái luật bởi Kháng nghị phải gửi ngay. Thứ nữa là thời hiệu kháng nghị cũng đã hết. Vậy có hay không câu chuyện ký lùi ngày (lùi hơn 2 tháng) để hợp thức hóa kháng nghị?!