I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo VietnamPlus đưa tin: Chiều 16/8, tại tỉnh Tuyên Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban tổ chức Trung ương Tô Huy Rứa đã dự lễ công bố và trao quyết định của Bộ Chính trị về việc điều động, phân công Ủy viên Trung ương Đảng.
Theo Quyết định số 225-QĐNS/TW ngày 4/8/2011 của Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang Đỗ Văn Chiến thôi tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, để tham gia Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái, nhiệm kỳ 2010-2015.
Báo cũng có bài 'Có dấu hiệu chưa minh bạch liên quan vụ in tiền polymer'. Bài báo phản ánh: Sáng 16/8, trả lời VnExpress.net về việc Australia tiếp tục cáo buộc thêm một nhân vật liên quan tới đường dây hối lộ để giành hợp đồng in tiền polymer ở các nước trong đó có Việt Nam, Phó tổng Thanh tra Chính Phủ Trần Đức Lượng cho biết, Thanh tra đã phát hiện có những dấu hiệu chưa thực sự minh bạch trong việc này và đã báo cáo Thủ tướng. "Thủ tướng cũng chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục nắm thông tin bằng các biện pháp nhưng phải tuân thủ pháp luật Việt Nam", ông Lượng nói.
Cũng theo ông Phó tổng Thanh tra Chính phủ, các cơ quan chức năng Việt Nam đang phối hợp với các nước liên quan để làm rõ "phíaViệt Nam có vi phạm gì không". Tuy nhiên, ông cho biết thông tin cụ thể phải chờ kết luận từ các cơ quan chức năng như Bộ Công an, Bộ Ngoại giao.
Trước câu hỏi về khả năng vi phạm của phía Việt Nam, ông Lượng nhấn mạnh: "Đây chỉ là dấu hiệu của sự không rõ ràng, không minh bạch, có yếu tố nước ngoài".
Tiền polymer lần đầu tiên được in ấn và đi vào lưu thông tại Việt Nam từ năm 2006 với đối tác chuyển giao công nghệ là Công ty Securency - từng là công ty trực thuộc Ngân hàng Trung ương Australia. Tuy nhiên, 3 năm sau, báo chí Australia bắt đầu đặt nghi vấn về sự không minh bạch trong các hợp đồng in tiền của Securency tại một số nước, trong đó có Việt Nam.
Đến nay, 7 người quốc tịch Australia, chủ yếu là lãnh đạo của Securency và một công ty đối tác, đã bị cáo buộc hối lộ với số tiền lên tới gần 20 triệu đôla Australia. Báo chí Australia thậm chí còn nêu tên các nhân vật ở Việt Nam được cho là liên quan tới việc nhận hối lộ này.
Tuy nhiên, Phó tổng Thanh tra Trần Đức Lượng cho biết các thông tin mới dừng trên mặt báo, về mặt quan hệ cấp Chính phủ, hai bên chưa có thông tin cụ thể nào.
"Thông tin trên báo chí nước ngoài chỉ là một kênh để các cơ quan chức năng của Việt Nam tham khảo, có sự phối hợp, làm rõ xem có yếu tố đó không. Australia truy tố theo pháp luật của nước họ. Việt Nam sẽ xem xét có vi phạm pháp luật Việt Nam hay không. Các cơ quan chức năng đang thực hiện việc này.", ông Lượng nói thêm.
2. Báo Sài Gòn tiếp thị Media có bài Khi đại biểu Quốc hội giằng xé giữa các lợi ích. Bài báo phản ánh: Theo Hiến pháp Việt Nam, đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Trong khuôn khổ này, đại biểu hoàn toàn có thể đại diện, bảo vệ lợi ích cho mình, giới, ngành, địa phương mình nhưng việc đó không được xung đột với lợi ích chung và trong điều kiện phải lựa chọn, thì phải chọn theo lợi ích chung nhất. Trên thực tế sự phân thân, diễn đúng vai trong điều kiện có xung đột lợi ích, không phải dễ. Câu chuyện sai phạm của công ty cổ phần dịch vụ Sonadezi Long Thành là một ví dụ.
Công ty Sonadezi, bị bắt quả tang cách nay hơn một tuần trong lúc đang xả nước thải chưa xử lý vào dòng chảy công cộng, rốt cuộc lại là công ty thành viên của một hệ thống doanh nghiệp mà người đứng đầu là một đại biểu Quốc hội. Khi tiếp xúc cử tri, người dân biểu ấy tất nhiên đã nhận được nhiều câu hỏi gai góc xoay quanh câu chuyện và đứng trước các yêu cầu ứng xử tế nhị, ngặt nghèo. Có thể hiểu tại sao các phương tiện truyền thông quan tâm theo dõi diễn biến cuộc gặp gỡ ấy.
Chuyện con người ta bị giằng xé giữa các lợi ích trái ngược không hiếm. Vấn đề là trong trường hợp đặc thù này, xung đột diễn ra giữa một bên là lợi ích riêng mà nhân vật chính mong muốn bảo vệ với tư cách chủ doanh nghiệp, với bên kia là lợi ích của cộng đồng mà cũng chính người này cam kết bảo vệ dưới danh nghĩa đại biểu dân cử.
Vừa là doanh nhân vừa là dân biểu không phải là việc dễ dàng. Ngay cả trong trường hợp không rơi vào tình huống xung đột lợi ích, thì ông nghị – doanh nhân vẫn phải đương đầu với định kiến xã hội, đặc biệt là với nỗi nghi ngại về việc dựa vào mãnh lực đồng tiền để thao túng nghị trường, về việc dùng quyền lực nghị viện để phục vụ lợi ích riêng tư.
Tất nhiên không ai cấm và cũng không thể cấm doanh nhân bảo vệ các lợi ích thiết thân của riêng mình trong khuôn khổ luật chơi chung. Bởi vậy, trong điều kiện doanh nhân đồng thời là dân biểu, phải làm thế nào để người này nhận thấy rằng lợi ích hợp pháp của các cử tri do mình đại diện bao trùm lên tất cả các lợi ích khác, kể cả lợi ích riêng tư. Ở nhiều nước, đại biểu dân cử rất sợ làm mất lòng những người đã bỏ phiếu cho mình: tình cảm của cử tri quyết định chiếc ghế của dân biểu; mất tình cảm đó, người đại biểu dân cử có nguy cơ mất ghế khi tái ứng cử và kéo theo đó là nhiều thứ mất mát khác nữa. Trong trường hợp lợi ích của cử tri đối nghịch rõ ràng với lợi ích riêng của mình, dân biểu thường không do dự từ bỏ lợi ích riêng để đi theo và phục vụ lợi ích cử tri.
Trong chừng mực nào đó, có thể nói rằng không hề có sự đối lập của các lợi ích chính đáng trong vụ Sonadezi xả nước thải gây ô nhiễm môi trường, bởi sai phạm của doanh nghiệp là rõ ràng. Người ta trông đợi ở đại biểu Quốc hội đồng thời là doanh nhân ấy một thái độ ứng xử thể hiện tinh thần dấn thân, sẵn lòng và tự nguyện hy sinh lợi ích riêng tư của doanh nghiệp vì lợi ích chung, hoặc ít nhất là vì lợi ích của các cử tri đã dành cho mình sự tín nhiệm bằng những lá phiếu bầu. Xử sự đúng mực, hợp lý, hợp tình và khéo léo, người đại biểu Quốc hội chắc chắn có được sự tin yêu của dân, của cử tri và, biết đâu, có thể cuối cùng không bị buộc phải từ bỏ lợi ích riêng hay nếu có mất, thì cũng được những người yêu thương ủng hộ mình giúp sức để khôi phục lại.
Trước các cử tri đang bức xúc, nhân vật trung tâm của câu chuyện, qua sự mô tả của báo chí, lại có xu hướng rời bỏ vị trí dân biểu để vào vai người cai quản doanh nghiệp bị cho là có hành vi sai trái và đang ra sức đối phó với sự phê phán, công kích của người dân: “… Là cơ quan chủ quản, chúng tôi sẽ phối hợp xử lý,… Nếu có sai sót, chúng tôi sẽ sửa chữa theo đúng tiêu chí hoạt động của công ty”. Dường như người nói không còn nhớ rằng mình đang mang tư cách đại biểu dân cử và đang ở nơi tiếp xúc cử tri, chứ không phải đang ở văn phòng của bà chủ hệ thống doanh nghiệp và đang đương đầu, đôi co với những người được cho là bị doanh nghiệp gây thiệt hại.
Có thể người đại biểu Quốc hội trong câu chuyện chưa thực sự nhập vai dân biểu, vì còn thiếu kinh nghiệm trong quan hệ tiếp xúc cử tri. Nhưng cũng không loại trừ khả năng người này không nghĩ rằng cử tri có thể làm gì ảnh hưởng bất lợi đến chiếc ghế đại biểu dân cử của mình.
Dân biểu mà không sợ cử tri, thì tự nhiên sẽ có thiên hướng đặt lợi ích của mình hoặc lợi ích một nhóm người ở vị trí ưu tiên. Khi đó, nguy cơ quyền lực nghị trường bị khống chế, chi phối theo ý chí của người này, người nọ, nhóm này, nhóm kia, là khó tránh.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhân dân có bài Vụ thi hành án gây bức xúc dư luận ở Hà Nội. Bài báo phản ánh: Mấy tháng gần đây, dư luận ở Hà Nội đang xôn xao về một vụ thi hành án dân sự ở quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội bởi sự ngang nhiên coi thường pháp luật của Chi cục Thi hành án dân sự quận này. Ðó là vụ tranh chấp về hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng Công thương Việt Nam (nay là Ngân hàng cổ phần Công thương Việt Nam - Vietinbank) và bị đơn là Công ty TNHH Bắc Sơn có trụ sở tại 194 phố Huế, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Khởi nguồn của việc tranh chấp là do trong năm 2002, Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Cầu Giấy cho Công ty TNHH Bắc Sơn vay tiền theo ba hợp đồng tín dụng để Công ty TNHH Bắc Sơn xây dựng nhà máy sản xuất xe gắn máy hai bánh của Trung Quốc, tổng cộng số tiền là 20 tỷ đồng.
Việc thi hành bản án không có hiệu lực pháp luật và bán đấu giá nhà 194 phố Huế là tài sản đang bị kê biên của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng và Công ty cổ phần bán đấu giá Hà Nội là một việc làm vi phạm nghiêm trọng pháp luật cần được các cơ quan có thẩm quyền xem xét lại để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân. Mặt khác, cần làm rõ việc định giá và bán đấu giá nhà 194 phố Huế. Bởi dư luận đang cho rằng, việc bán với giá thấp so với thực tế vừa gây thiệt hại cho Công ty TNHH Bắc Sơn, vừa có biểu hiện vụ lợi của một số người quyết tâm thi hành vụ việc này.
2. Trang VEF.VN có bài Tăng lương, nghỉ sinh 6 tháng: Vẫn chưa đồng thuận. Bài báo phản ánh: Dù tăng lương tối thiểu lên mức cao nhất 2 triệu đồng/tháng như đề xuất mới đây của Bộ LĐ-TB&XH thì lao động vẫn chưa đủ sống. Trong khi đó, DN lại phản ứng vì tăng lương làm đội chi phí. Xem ra, cả hai phía đều chưa hài lòng.
Vụ Vụ Lao động - Tiền lương (Bộ LĐ-TB&XH) cho rằng, theo quy định hiện hành, mức lương tối thiểu thường được điều chỉnh vào 1/1 hằng năm để thuận tiện cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN. Tuy nhiên, do tình hình đời sống của NLĐ đang vô cùng khó khăn, mức lương hiện hành khó thể đảm bảo cuộc sống, Bộ LĐ-TB&XH đã đề xuất phương án tăng mức lương tối thiểu trong doanh nghiệp trước lộ trình 3 tháng (từ 1/10/2011 tới thay vì 1/1/2012 như lộ trình). Dự kiến sẽ tăng lương tối thiểu theo 4 vùng và sẽ sáp nhập lương tối thiểu trong tất cả các loại hình doanh nghiệp.
Bộ LĐ-TB&XH cũng dự kiến ban hành quy định hỗ trợ tiền ăn giữa ca cho người lao động để góp phần bảo đảm sức khỏe để họ làm việc có năng suất, đóng góp nhiều hơn cho DN. Dự kiến, mức hỗ trợ tiền ăn giữa ca cho người lao động tối thiểu là 15.000 đồng/bữa/người (tăng thêm từ 3.000-5.000 đồng/bữa).
Ngoài ra, đối với lao động nữ, thời gian nghỉ thai sản cũng được dự kiến hai phương án là: tăng lên tổng cộng 6 tháng hoặc giữ như hiện hành 4, 5 hoặc 6 tháng tùy điều kiện làm việc và nơi làm việc có trách nhiệm xây nhà trẻ, nhà mẫu giáo...
Theo ông Mai Đức Thiện (Vụ Pháp chế, Bộ LĐ-TB&XH), trong Dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi) sẽ có chương Quy định riêng đối với người lao động nữ: thời gian nghỉ thai sản sẽ có 2 phương án. Phương án thứ nhất là tăng lên tổng cộng 6 tháng. Phương án thứ 2 là giữ nguyên hiện hành: 4 hoặc 5 hoặc 6 tháng (tùy mức độ nguy hại nơi làm việc) nhưng DN phải xây nhà trẻ, nhà mẫu giáo ở các khu công nghiệp có nhiều lao động nữ.
Tính toán tăng thời gian nghỉ sinh lên 6 tháng đối với người lao động nữ không phải lần đầu được nhắc đến. Năm 2008, chuyện này đã được đề xuất nhưng rồi lại bị quên lãng và đến nay lại tiếp tục đưa ra thảo luận.
Đại diện Công ty TNHH Điện tử Taeyang Việt Nam cho rằng, nếu đề án này được phê duyệt, công ty sẽ nhận ít lao động nữ đi. Thay vào đó, sẽ tăng lượng lao động nam, chỉ lấy lao động nữ ở các bộ phận thiết yếu để giảm tối đa các gánh nặng. Còn Công ty cổ phần Hàng hải Đông Đô - Hà Nội chia sẻ, tỉ lệ lao động nữ quá cao ở bất kỳ DN nào cũng sẽ trở thành một gánh nặng. Nếu nghỉ 6 tháng, chủ DN sẽ là siết chặt chính sách sử dụng lao động nữ, chỉ kí hợp đồng thời vụ hoặc ngắn hạn để giảm chi phí. Vì thế, nên giữ chính sách như hiện tại và để người lao động và chủ DN tự thỏa thuận.
Còn với những trường nhiều lao động như Trường CĐ Sư phạm Hòa Bình cũng rất lo khi hơn 70% cán bộ, giáo viên là nữ. Trung bình mỗi giáo viên phải đứng lớp 320 giờ/năm + 219 giờ nghiên cứu khoa học và rất nhiều giờ ngoại khóa khác. Thậm chí có giáo viên phải dạy gấp 3-4 lần số giờ quy định. Nếu phải cáng đáng thêm hai tháng của người nghỉ thai sản thì e rằng không nổi. Nếu áp dụng quy định mới này, nhà nước cần tính thêm việc hỗ trợ các chế độ và đào tạo thêm nhiều giáo viên.
Vì thế, nhiều chuyên gia lao động lại đang lo lắng rằng: Khi đề án được áp dụng, liệu lao động nữ có bị thiệt thòi trước nhà tuyển dụng, hay bất lợi khi xin vào doanh nghiệp mà chưa sinh con hay không?
Không chỉ với nhiều DN, nhiều công nhân nữ cũng tỏ ra băn khoăn với chính sách mới. Chị Nguyễn Thị Lan, công nhân Công ty cổ phần Masan - Hải Dương cho rằng, nếu được nghỉ 6 tháng, có thêm thời gian chăm sóc con thì tốt. Tuy nhiên, nó chỉ phù hợp với một bộ phận. Từ trước tới nay, chị phải làm thêm, tăng ca thì mới đủ tiền sống cho cả gia đình. Nếu nghỉ 6 tháng, số lương cơ bản nhận quá ít ỏi sẽ làm sinh hoạt thêm khó khăn. Thực tế nhiều người trong cơ quan chị còn đi làm trước thời hạn để có thêm thu nhập. Thay bằng việc nghỉ thêm thời gian, chi bằng, các khu công nghiệp xây nhà trẻ giúp công nhân và cũng lợi cho DN.
3. Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Gốc rễ vẫn là lương tâm nghề nghiệp. Bài báo phản ánh: Để chấn chỉnh chuyện luật sư sai phạm, những người trong cuộc đều cho rằng bên cạnh việc tuân thủ Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, các luật sư còn phải tuân thủ pháp luật và hành nghề bằng lương tâm của mình.
Theo luật sư Đoàn Công Thiện (Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang) chuyện luật sư vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật xuất phát từ ý thức vụ lợi của một số luật sư thiếu lương tâm nghề nghiệp, thiếu bản lĩnh, bị chi phối bởi giá trị vật chất. Vi phạm thường rơi vào những người không chịu rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, không đặt lợi ích cá nhân hài hòa với lợi ích chung của xã hội. Trước tình hình trên, luật sư Thiện đánh giá rất cao Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư vừa được Liên đoàn Luật sư Việt Nam ban hành. Theo ông, đây là kết quả của một quá trình đúc kết từ thực tiễn, có ý nghĩa điều chỉnh hành vi ứng xử đối với từng cá nhân luật sư. Trong mỗi quy tắc đều có nội dung định hướng hành xử tích cực, do đó sẽ hạn chế được những hiện tượng tiêu cực nói chung trong giới luật sư. Tuy nhiên, cả hai luật sư đều cho rằng nếu chỉ dựa vào Bộ Quy tắc trên để răn đe, giáo dục, thuyết phục thì chưa đủ. Quan trọng hơn là cơ quan chức năng phải thường xuyên kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm của luật sư, kết hợp với việc tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung trong các cơ quan tố tụng. Góp thêm một góc nhìn, một phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Thanh Hóa cho rằng chuyện luật sư vi phạm đạo đức nghề nghiệp chỉ có thể nắm bắt được khi có tranh chấp, kiện tụng. Sai phạm khó bị phát hiện, phát hiện rồi lại khó chứng minh, chứng minh được cũng có nhiều tình huống khó quy tội… Do vậy, cái căn bản vẫn là lương tâm hành nghề của luật sư, còn các biện pháp chế tài chỉ mang tính ứng phó khi chuyện đã rồi.