I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Giáo dục Việt Nam phản ánh: Trong cuộc báo thường kỳ của Người phát ngôn Bộ ngoại giao chiều ngày 12/5, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Nguyễn Phương Nga đã trả lời thẳng thắn và làm rõ nhiều câu hỏi của phóng viên nước ngoài quan tâm tới tình hình ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Bà Nguyễn Phương Nga cho hay:
Về sự kiện này, UBDN tỉnh Điện Biên cũng có tin, báo chí Việt Nam cũng đã đưa tin. Tuy nhiên, đã có một số thông tin thổi phồng, không đúng sự thật về sự việc ở Mường Nhé với dụng ý xấu là xuyên tạc chính sách của nhà nước Việt Nam, xuyên tạc tình hình thực tế ở Việt Nam. Việc đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số luôn là ưu tiên cao của Việt Nam thể hiện trong luật pháp, chính sách, các chương trình quốc gia của Việt Nam và đã đạt được nhiều thành tựu được quốc tế ghi nhận.
Mới đây, chuyên gia độc lập của Liên Hợp Quốc về các vấn đề dân tộc thiểu số đã thăm, làm việc tại Việt Nam và đánh giá cao quyết tâm chính trị, các chính sách, biện pháp và chương trình của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền của các dân tộc thiểu số trên mọi lĩnh vực.
Trong những ngày cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 2011, một số phần tử cực đoan đã sử dụng những luận điệu lừa gạt, dụ dỗ, kích động, lôi kéo, thậm chí là cưỡng bức nhiều đồng bào dân tộc Mông từ một số địa phương, từ các bản của huyện Mường Nhé để tụ tập, rêu rao cái gọi là thành lập vương quốc Mông gây mất trật tự an ninh, ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất của người dân. Do thời tiết xấu, điều kiện ăn ở không hợp vệ sinh, một số bà con đã bị ốm trong đó có một cháu nhỏ bị ốm chết. Chính quyền và toàn thể nhân dân huyện Mường Nhé đã kịp thời vận động, giải thích để bà con hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ xấu. Từ đó, nhân dân đã tự giác trở về nơi cư trú.
2. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Việt Nam bước vào thời kỳ già hóa dân số. Bài báo phản ánh: Đây là thông tin được công bố tại buổi gặp gỡ báo chí của Quỹ Dân số LHQ (UNFPA) diễn ra ngày 12-5 tại Hà Nội.
Ông Bruce Campbell, Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam, khẳng định, Việt Nam đang bước vào thời kỳ già hóa dân số một cách nhanh chóng, do tuổi thọ bình quân ngày càng tăng lên trong khi tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm. Số liệu điều tra cho thấy, Việt Nam sẽ chính thức vào thời kỳ già hóa dân số vào năm 2017 và giai đoạn dân số già vào năm 2035.
Đại diện UNFPA tại Việt Nam cũng cho biết, già hóa dân số là một thành tựu xã hội to lớn của loài người và mỗi quốc gia. Điều đó cho thấy, Việt Nam đã đạt được bước tiến đáng kể trong việc cải thiện y tế, dinh dưỡng và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, già hóa dân số nhanh chóng cũng sẽ tạo ra những thách thức to lớn về các vấn đề an sinh xã hội, trong đó có dịch vụ chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, quỹ hưu trí và phúc lợi dành cho người già, vấn đề bất bình đẳng giới, bất bình đẳng giữa các thế hệ.
3. Báo Người lao động phản ánh: Mấy ngày gần đây, không ít người dân làng chài thôn Sơn Trà, xã Bình Đông, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, sống trong lo sợ thú lạ tấn công, ăn thịt vật nuôi.
Trước thông tin thú lạ tấn công hàng loạt chó nuôi ở làng biển Sơn Trà, ngày 11-5, ông Nguyễn Văn Hân, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Quảng Ngãi, cùng hơn 10 cán bộ, nhân viên đã xuống kiểm tra khu vực xung quanh núi Đình. Tuy nhiên, gần một ngày truy tìm cùng lực lượng công an xã và người dân địa phương, lực lượng này vẫn không tìm được dấu tích của thú lạ.
Chiều 12-5, ông Cao Tấn Sơn, Trưởng Công an xã Bình Đông, cho biết: Hai ngày qua, không có con chó nào ở khu vực này bị thú lạ giết và cũng không nghe ai nói nghe tiếng gầm của thú lạ nữa. Địa phương đã động viên người dân không nên lo sợ bởi chưa ai xác định có thú dữ hay không. Thực hư chưa rõ nhưng có thể khẳng định từ khi xuất hiện tin thú lạ đến nay, không người nào ở đây thấy thú lạ mà chỉ nghe và đoán qua lời kể của một học sinh lớp 7.
4. Báo Thanh niên phản ánh: Tại cuộc hội thảo quốc gia về “Khai thác tiềm năng biển đảo vì sự phát triển bền vững của Quảng Ngãi và các tỉnh miền Trung” vừa diễn ra tại TP Quảng Ngãi, nhiều tham luận của các GS, các nhà khoa học đã mổ xẻ nhiều vấn đề nhằm trả lời cho câu hỏi: VN phải làm sao để “vươn ra biển lớn”.
Một trong những vấn đề được nhiều tham luận đề cập tới là: Nhà nước có thể và cần hỗ trợ ngư dân - chủ lực quân của công cuộc “vươn ra biển lớn” - bằng cách nào? “Phải có hạm đội tàu lớn và các DN kinh tế biển mạnh”. Một đại biểu đã tuyên bố mạnh mẽ. Nhưng làm sao để có “hạm đội tàu lớn” và “các DN kinh tế biển mạnh” thì chưa thấy nói tới. “Phải coi ngư dân như những dân binh, cấp lương thực thực phẩm cho họ đi biển trong vòng 6 tháng. Thuyền mất, Nhà nước thay thế cho họ bằng thuyền khác, khi họ tử nạn trên biển phải được công nhận là hy sinh vì chủ quyền biển đảo”. Một đại biểu đã thiết tha như vậy. Xuất phát điểm của những ý kiến như thế đều rất thiện tâm và thiện chí, nhưng để biến chúng thành hiện thực là cả một vấn đề. Ví dụ như việc Nhà nước cấp “lương thảo” cho ngư dân là không thực tế, vì ngư dân đi đánh cá là đi làm kinh tế biển, có lợi họ mới đi, chứ không phải như những “dân binh” Lý Sơn - Hoàng Sa xưa, đi ra biển là “theo lệnh vua”, nhằm hoàn thành một nhiệm vụ nhất định. Chúng ta nói vai trò giữ chủ quyền biển đảo của ngư dân chính là nói tới sự hiện diện của ngư dân trên biển, ở những quần đảo vốn thuộc chủ quyền VN nhưng nay có tranh chấp. Chỉ cần ngư dân chúng ta có mặt ở những nơi đó, chỉ để đánh bắt hải sản chứ không làm bất cứ điều gì khác, là chủ quyền biển đảo của chúng ta đã được khẳng định một cách thực tế. Vậy thì Nhà nước có thể làm gì để hỗ trợ cho ngư dân, nhất là ngư dân Quảng Ngãi đánh cá ở Hoàng Sa, một cách cụ thể và “trong tầm tay” của Nhà nước? Đã có nhiều quỹ hỗ trợ ngư dân Quảng Ngãi và ngư dân Lý Sơn do những cá nhân hay tổ chức phi chính phủ lập ra, nhưng nó vẫn mang ý nghĩa động viên tinh thần nhiều hơn là hiệu quả hỗ trợ thực tế. Nhà nước rất cần lập “Quỹ hỗ trợ ngư dân” do chính Nhà nước làm chủ, huy động từ nhiều nguồn, trong đó có nguồn ngân sách, và hỗ trợ cụ thể cho những hộ ngư dân bị mất thuyền do nước ngoài tịch thu hay do bão tố, để họ có thể đóng lại thuyền mới và tiếp tục ra khơi đánh cá. Chỉ như thế thôi là ngư dân đã an lòng lắm rồi để “vươn ra biển lớn”.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Người lao động có bài TPHCM chậm sửa quy định trái luật. Bài báo phản ánh: Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) cho biết UBND TPHCM quá chậm trong việc sửa chữa nội dung trái luật trong Quyết định số 54/QĐ-UBND ngày 30-3-2007 của UBND TP ban hành quy định về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở.
Theo Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, quyết định trên có những quy định trái luật và đã 2 lần yêu cầu UBND TP điều chỉnh.
2. Báo điện tử Chinhphu.vn có bài “Luật hóa” việc phổ biến, giáo dục pháp luật. Bài báo phản ánh: Chiều 12/5, Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo về dự án Luật Phổ biến giáo dục pháp luật, do Bộ Tư pháp là cơ quan chủ trì soạn thảo. Nhiều đại biểu bày tỏ tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và đề nghị ban soạn thảo cần sớm làm rõ các vấn đề cần được chỉnh lý, bổ sung, làm rõ trước khi trình ra các cấp có thẩm quyền cho ý kiến.
TS. Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý (Bộ Tư pháp) cho rằng, dự án Luật cần làm rõ và xác định được chủ thể và quan hệ pháp luật phát sinh trong từng điều luật, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân, chế tài xử lý ra sao? Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) Hà Đình Bốn băn khoăn khi nhiều quy định trong dự thảo Luật còn thiếu cụ thể, rõ ràng. “Dự thảo Luật chưa làm rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các khái niệm “phổ biến pháp luật và giáo dục pháp luật, bởi đây là hai nội dung quan trọng nhất của dự án thảo luật này”, ông Bốn lưu ý. Còn theo TS. Lê Hồng Sơn (Viện Nhà nước và Pháp luật), các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phải được làm rõ với các tiêu chí cụ thể là tính phù hợp với đối tượng được phổ biến, giáo dục; tính khả thi trong điều kiện của địa bàn thực hiện; tính hiệu quả, diện bao quát của hình thức được lựa chọn...
Trong khi đó, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật (VPCP) Nguyễn Phước Thọ bày tỏ băn khoăn đối với quy định của dự thảo về việc thành lập Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật mang tính tư vấn, phối hợp liên ngành với phạm vi, quy mô rộng lớn, mang tính hệ thống từ Chính phủ cho đến các bộ ngành, từ Trung ương đến các địa phương, từ bộ máy hành chính cho đến các tổ chức chính trị xã hội. Ông Thọ đề nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng việc quy định thành lập và hoạt động của Hội đồng như quy định của dự thảo Luật.
Theo Vụ trưởng Vụ Pháp luật (VPCP) Phạm Tuấn Khải, những ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà quản lý, các tổ chức chính trị - xã hội tại cuộc hội thảo này sẽ được ban soạn thảo tiếp thu, chỉnh lý trước khi trình các cấp có thẩm quyền cho ý kiến.
Dự kiến, dự án Luật này sẽ được trình Chính phủ cho ý kiến tại phiên họp Chính phủ cuối tháng 5/2011.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Chuyện người giữ “sổ Nam Tào“. Bài báo phản ánh: Người ta vẫn nói đùa anh là người giữ “sổ Nam Tào” khi mọi sự kiện sinh – tử, kết hôn, đăng ký con nuôi… trong xã anh đều ghi lại hết vào sổ sách. Thật hiếm có một cán bộ hộ tịch nào lại có được nhiều thành tích như thế. Anh là Lê Văn Long, Phó Bí thư Đoàn Thanh niên, cán bộ tư pháp – hộ tịch xã Thượng Trưng, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
Tốt nghiệp Trung cấp Luật năm 2001, anh tham gia công tác tại Ban Tư pháp xã Thượng Trưng từ năm 2002, được phân công phụ trách lĩnh vực Tư pháp – hộ tịch. Với sự nhanh nhẹn, trách nhiệm cùng lòng nhiệt tình với công việc, anh không ngừng nghiên cứu học hỏi, tham khảo thêm sách báo, tài liệu và học từ thực tiễn công việc để nâng cao trình độ. Năm 2005, anh được cử đi học tiếp Đại học Luật tại chức do Trường Đại học Luật Hà Nội mở tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Anh quan niệm, để làm tốt công việc, phải không ngừng học hỏi, không ngừng trau dồi kinh nghiệm thực tế… để phục vụ tốt hơn nữa, hoàn thiện mình hơn nữa. Làm công tác hộ tịch thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, anh luôn luôn niềm nở, vui vẻ, nhiệt tình hướng dẫn, giải thích, giải quyết công việc về hộ tịch nhanh chóng đúng pháp luật. Với những giấy tờ về hộ tịch khai chưa đủ, chưa đúng, anh vui vẻ hướng dẫn khai lại, những việc đăng ký hộ tịch không thuộc thẩm quyền của UBND xã đều được anh hướng dẫn đến Sở Tư pháp đăng ký như: đăng ký kết hôn, đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài… Chưa có cán bộ tư pháp chia sẻ công việc, địa phương tạm thời chia lịch một tuần 3 buổi vào thứ 2, 4, 6 để làm các công việc chứng thực, giải quyết những việc liên quan đến hộ tịch… tại trụ sở của UBND xã. Những ngày còn lại giải quyết các đầu việc khác theo quy định. Ngoài những ngày tiếp dân theo lịch, khi công dân có việc gấp đến đăng ký hộ tịch anh đều linh động giải quyết, cốt sao tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân.
Ghi nhận những kết quả đạt được, anh đã được tặng thưởng nhiều bằng khen, giấy khen. Mới nhất, năm 2010 anh được được Bộ trưởng Bộ tư pháp tặng bằng khen có nhiều thành tích xuất sắc trong đợt thi đua đặc biệt chào mừng kỷ niệm 65 năm ngày thành lập ngành tư pháp Việt Nam.
4. Báo Lao động có bài Về một vụ thi hành án ở huyện Ea Kar (Đăk Lăk): Ban chỉ đạo thi hành án huyện “có vấn đề”. Bài báo phản ánh: Ngày 16.2.2009, Chi cục Thi hành án huyện Ea Kar ra quyết định số 89/QĐ-THA thi hành bản án số 03/2009/DSPT ngày 6.1.2009 của TAND tỉnh Đắc Lắc, buộc vợ chồng ông Y Thun Bkrông và bà H’Suăn Niê trú tại buôn T’lung, thị trấn Ea Kar phải trả cho bà Lê Thị Dũng - trú tại khối 3A, thị trấn Ea Kar 2,357 tỉ đồng (do vay mượn). Hết thời hạn tự nguyện thi hành án, nhưng vợ chồng Y Thun – H’Suăn vẫn không thi hành án, nên chấp hành viên (CHV) đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án, biết vợ chồng Y Thun – H’Suăn có 22.015m2 đất đã được huyện Ea Kar cấp sổ đỏ, ngày 20.5.2009, CHV đã ra quyết định cưỡng chế thi hành án (số 44/QĐ-THA) và tiến hành kê biên 19.004m2 đất cùng toàn bộ tài sản trên diện tích đất này.
Sau khi kê biên, có 4 hộ dân (Nguyễn Viết Vinh, Phạm Thị Hồng, Trần Thị Quang, Nguyễn Văn Thủ) đến Chi cục Thi hành án của huyện khiếu nại: Đó là đất mà vợ chồng Y Thun – H’Suăn đã bán cho họ. Xét thấy tài sản kê biên có tranh chấp, nên CHV đã hướng dẫn các hộ dân nói trên khởi kiện vợ chồng Y Thun – H’Suăn ra TAND huyện. TAND huyện sau khi thụ lý đã ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp chuyển nhượng đất giữa các hộ dân nói trên với vợ chồng Y Thun – H’Suăn. Căn cứ vào các quy định của Điều 692, khoản 2, Điều 701 Bộ luật Dân sự, khoản 4, Điều 19 Luật Đất đai..., thì việc chuyển quyền sử dụng đất chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất; mặt khác, do tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp chuyển nhượng đất giữa các hộ dân nói trên với Y Thun – H’Suăn, nên CHV tiếp tục xử lý tài sản kê biên để thi hành án (mời cơ quan thẩm định giá, phát mại lô đất, tài sản trên đất...) là đúng quy định của pháp luật.
Công việc “áp chót” của thi hành án là cưỡng chế để bàn giao tài sản cho người trúng đấu giá (ông Vũ Đăng Hải). Thời gian cưỡng chế đã ấn định vào lúc 8 giờ ngày 30.3.2011 với sự tham gia đầy đủ của các lực lượng chức năng trong huyện. Thế nhưng đến giờ chót, lãnh đạo huyện Ea Kar đã không đồng tình cho các lực lượng chức năng thực thi nhiệm vụ cưỡng chế vì những lý do: Lô đất mặc dù mang tên trong sổ đỏ là của ông bà Y Thun – H’Suăn, “nhưng là đất của chung tất cả các thành viên trong gia đình”, “việc định giá tài sản không khách quan” và “trước thời điểm xảy ra vụ việc gia đình đã có chuyển nhượng cho 4 hộ”... Nếu lấy lý do “đất chung của các thành viên trong gia đình”, “đất đã bán cho 4 hộ”, nhưng chỉ bằng mảnh giấy viết tay, hoặc chưa đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật để chỉ đạo dừng thi hành án là việc làm không đúng của lãnh đạo huyện. Về việc định giá tài sản: CHV cũng đã cho các bên thực hiện quyền thỏa thuận, nhưng không thỏa thuận được, nên ông bà Y Thun – H’Suăn đã đề nghị CHV mời cơ quan thẩm định. CHV đã chọn Cty cổ phần thông tin và thẩm định giá Miền Nam – một đơn vị có tư cách pháp nhân, hoạt động độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thẩm định... Mặt khác, quá trình CHV tổ chức thi hành án đã được VKSND huyện cử đại diện giám sát và đồng tình với cách làm của CHV.
Từ những điều nêu trên, có đủ cơ sở khẳng định rằng: Việc thi hành bản án dân sự nói trên của Chi cục Thi hành án huyện Ea Kar là đúng pháp luật. Việc không đồng tình, không cho các cơ quan chức năng của huyện tham gia cưỡng chế bàn giao tài sản cho người đã trúng đấu giá của Ban chỉ đạo Thi hành án huyện Ea Kar là “có vấn đề”, bất bình thường.