I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Dân trí có bài Chuyện khó tin về lao động Việt tại Nga. Bài báo phản ánh: “Nô lệ lao động” là cụm từ đã được sử dụng để nói về tình trạng của hàng ngàn lao động Việt Nam ở các cơ sở lao động không hợp pháp tại Nga, trong một văn bản của Đại sứ quán Việt Nam tại Nga gửi tới một loạt cơ quan chức năng trong nước. Tại thời điểm hiện nay “câu chuyện” những lao động Việt Nam bị bóc lột thậm tệ tại Liên bang Nga vẫn còn nguyên tính thời sự, cho dù văn bản trên được phát hành từ năm 2008.
Báo cáo của Ban công tác cộng đồng - Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga đề ngày 15/11/2010 cho biết, trong năm 2010, do thay đổi chính sách của hàng rào thuế quan, các xưởng may không hợp pháp ngày càng làm ăn phát đạt, vì vậy số lượng các xí nghiệp may này ngày càng tăng. Và con số những xí nghiệp may “đen” câu kết với những phần tử biến chất trong bộ máy chính quyền địa phương lừa gạt người lao động từ trong nước sang ngày càng nhiều.
Bản báo cáo cũng cho biết Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, hội đàm giữa các nhà doanh nghiệp, giữa các nhà sản xuất kể cả những cuộc gặp với những chủ xí nghiệp sản xuất không hợp pháp, để tìm cách tháo gỡ khó khăn, tìm phương thức làm ăn hợp pháp, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro cho bà con ta trong kinh doanh và trong sản xuất. Tuy nhiên, đã không có thêm thông tin nào về một kết quả mang tính định lượng hơn. Trong khi đó, ghi nhận từ chuyến công tác vừa qua, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền cho rằng, thực trạng “khổ sai” của hàng chục ngàn lao động Việt Nam dường như vẫn chưa được cải thiện. Không chỉ là thông tin thu thập được, mà cả những cảm nhận chân thực hơn từ chuyến đi đã khiến ông Hiền hơn một lần nhấn mạnh cảm giác “đau lòng” khi nói về thực trạng này. Bởi, chính ngay khi đoàn công tác đặt chân đến Nga cũng là lúc một số phương tiện truyền thông đưa tin 4 người Việt Nam đã thiệt mạng khi một kho chứa vải bị cháy, vì họ không thể thoát thân trong tình cảnh bị chủ nhốt. Và, ngay tại sân bay quốc tế Domodedovo, trước khi về Việt Nam, đoàn cũng đã tình cờ gặp một số người lao động vừa may mắn thoát ra được khỏi những xưởng may đen với ký ức hãi hùng.
Tới đây, lãnh đạo Ủy ban Kinh tế cũng dự định sẽ làm việc với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để trao đổi sâu hơn về vấn đề nói trên. Tuy nhiên, theo một nguồn tin từ Ủy ban, đến thời điểm hiện tại, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng chỉ nắm được số lao động đi làm việc theo hợp đồng ở châu Âu, còn riêng ở Nga là bao nhiêu thì không có số liệu cụ thể.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ông Greig Craft – Chủ tịch Quỹ phòng chống thương vong châu Á cho biết: Trong giai đoạn 2011 – 2020, Liên hợp quốc đã thống nhất là Thập kỷ hành động vì an toàn đường bộ. Đó là một cam kết toàn cầu với sự tham gia của hơn 90 quốc gia, bao gồm Việt Nam nhằm giảm tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông xuống còn 50% vào năm 2020. Theo đó, những chương trình giáo dục về an toàn giao thông như Hướng dẫn lái xe an toàn và thân thiện với môi trường (do Công ty Ford Việt Nam phối hợp với Ủy ban an toàn giao thông quốc gia, Quỹ phòng chống thương vong châu Á và kênh VOV thực hiện đến lần thứ 4) sẽ cung cấp các hoạt động cụ thể và được giới thiệu trên toàn thế giới vào ngày 11/5 này.
Ông Greig Craft cũng nhận định: Tại Việt Nam, môi trường giao thông hiện vẫn hỗn loạn và nguy hiểm, điều đó phần nào được tạo thành do thái độ coi thường luật giao thông một cách khá ngang nhiên của người tham gia giao thông. Phần lớn các vụ tai nạn giao thông đường bộ, hơn 75% là do lỗi của con người; những hàng vi điển hình như lái xe ô tô quá tốc độ, uống rượu khi lái xe và không đội mũ bảo hiểm đã khiến cho tỷ lệ tử vong và tỷ lệ thương tật do tai nạn giao thông tại Việt Nam tăng cao. Hơn thế nữa, những lái xe thường thiếu tôn trọng luật giao thông cơ bản, chẳng hạn như dừng xe nhường đường cho người đi bộ, sử dụng tín hiệu đèn rẽ và tuân theo đèn giao thông.
Bên cạnh đó, ông Greig Craft phân tích, ở Việt Nam, tai nạn giao thông đường bộ là nguyên nhân gây tử vong lớn nhất đối với những người ở độ tuổi 15 – 29 tuổi, đây thường là người lao động chính trong gia đình. Ngoài những mất mát về con người, tai nạn giao thông đường bộ còn gây ra những mối lo ngại rất lớn đối với hệ thống chăm sóc sức khỏe, bởi tại bất kỳ thời điểm nào các nạn nhân của các vụ tai nạn giao thông cũng chiếm đến khoảng 20 – 30% số giường bệnh. Tai nạn giao thông đường bộ cũng là một gánh nặng cho nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam, tiêu tốn đến 845 triệu USD/năm.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Cơ quan Thi hành án phải “đeo bám”. Bài báo phản ánh: Theo báo cáo 6 tháng năm 2011 của Bộ Tư pháp, số vụ việc chuyển sang 6 tháng cuối năm còn gần 286.000 việc với số tiền lên tới gần 20.048 tỷ đồng. Án tồn luôn là bài toán nan giải với ngành Tư pháp, trong đó đáng lưu ý có những nguyên nhân không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan… Nhằm giải quyết án tồn đọng, Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng Đề án xử lý việc THADS tồn đọng.
Một trong các giải pháp được ngành Tư pháp chú trọng là nhóm giải pháp về nghiệp vụ. Theo đó, mỗi nhóm việc là những giải pháp khác nhau. Riêng đối với việc chưa thi hành được do án tuyến không rõ, khó thi hành, Tổng Cục THADS chỉ rõ: các cơ quan THADS cần bám sát, đôn đốc, nhắc nhở để Tòa án có thẩm quyền giải thích, đính chính theo quy định của pháp luật tạo điều kiện để THA dứt điểm. Đối với việc chưa thống nhất ý kiến giữa các ngành, lãnh đạo cơ quan THADS địa phương cần bám sát, chỉ đạo chấp hành viên tích cực rà soát, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan, xin ý kiến chỉ đạo của Ban chỉ đạo THA các cấp hoặc chính quyền để tháo gỡ. Trường hợp cố tình cản trở hay lợi dụng sơ hở, vướng mắc để trì hoãn việc THA thì phải báo cáo cơ quan THA cấp trên có biên pháp giải quyết.
Đối với việc chưa thi hành được do tạm ngưng để giải quyết khiếu nại, Tổng cục THADS yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cần tích cực giải quyết khiếu nại làm cơ sở cho việc tổ chức THA. Trong quá trình giải quyết khiếu nại cần chú ý chỉ có quyền ngưng khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc xét thấy nếu tiếp tục tổ chức thi hành sẽ gây khó khăn cho việc giải quyết khiếu nại và khắc phục hậu quả sau này. Riêng với việc tạm đình chỉ THA và việc Tòa án, VKS yêu cầu hoãn, Tổng cục THADS lưu ý: số việc này chỉ thi hành khi đã có kết quả giải quyết việc phá sản hoặc khi có kết quả giải quyết của Tòa án, hoặc đã hết hạn hoãn mà cơ quan đã yêu cầu hoãn không không kháng nghị. Các cơ quan THA cần theo dõi sát để khi có kết quả thì tổ chức thi hành ngay.
Báo cũng có bài “Kê biên tài sản của... người thứ ba?”. Bài báo phản ánh: Tài sản của tổ chức phải thi hành án đã được chuyển dịch cho tổ chức khác nhưng vẫn bị kê biên để thi hành án, liệu có trái pháp luật?.
Theo Công ty CP Bột mì Trung Nam (tên cũ Cty TNHH CN Thực phẩm Thuận An), trụ sở tại xã Bình Chuẩn, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương thì Cty đã mua lại khu nhà xưởng tọa lạc trên thửa đất 4.721m2 ở 7/6 ấp Xuân Thới Đông, xã Xuân Thới Đông, huyện Hóc Môn, TP.HCM của Cty Trung Nam I đang thuê của Nhà nước với giá 450 triệu đồng. Thực hiện việc mua bán tài sản và thuê lại quyền sử dụng đất, ngày 26/10/2006, Sở Tài nguyên & Môi trường TP. HCM đã ký hợp đồng với Cty CP Trung Nam cho Cty thuê toàn bộ diện tích đất mà trước đây Cty Trung Nam I đã thuê. Đại diện Cty Trung Nam cho rằng: Trong suốt quá trình chuyển nhượng, lập các thủ tục pháp lý, các bên không hề nhận được văn bản ngăn chặn nào của cơ quan có thẩm quyền. Các thủ tục mua bán nhà xưởng được thực hiện đúng pháp luật. Sau khi hoàn tất các thủ tục pháp lý, Cty Trung Nam đã cải tạo, sửa chữa nâng cấp đưa vào sử dụng.
Về phía Cty Trung Nam I, số tiền bán tài sản nhà xưởng đã được nộp cho Thi hành án Dân sự (THA) TP.HCM để thi hành Bản án Phúc thẩm số 42/KTPT ngày 6/9/2001 của Tòa Phúc thẩm TANDTC tại TP.HCM tuyên buộc Cty Trung Nam I phải thanh toán cho Cty TNHH Lương thực và Xuất nhập khẩu Thái Bình Dương gần 2,8 tỉ đồng. Bản án của Tòa không áp dụng biện pháp kê biên tài sản. Ngày 24/9/2001, THA TP.HCM ban hành Quyết định số 821 thi hành bản án này cũng không áp dụng biện pháp kê biên nào đối với nhà xưởng trên của Cty Trung Nam I. Do vậy, năm 2004, Cty Trung Nam I chuyển nhượng toàn bộ nhà xưởng trên cho Cty Cổ phần Trung Nam mà không gặp cản trở nào. Gần 8 năm sau, ngày 24/8/2009, TTHA TP.HCM (nay là Cục THA TP.HCM) ban hành Quyết định số 1832 kê biên quyền sử dụng đất thuê và quyền sở hữu nhà xưởng trên đất có diện tích 4.721m2 của Cty Trung Nam để đảm bảo THA.
Mới đây (ngày 20/4), Cty CP Đấu giá Nam Việt đã tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất và nhà xưởng nói trên. Ngay trước phiên đấu giá, đại diện Cty Trung Nam phản đối cho rằng đây là tài sản của Cty Trung Nam chứ không phải của Cty Trung Nam 1. Đáp lại, Chấp hành viên Vũ Duy Bội, Cục THA TP.HCM khẳng định: Khối tài sản này do chúng tôi kê biên, vì trong thời gian thi hành bản án mà doanh nghiệp đã tẩu tán tài sản là vi phạm pháp luật về THA. Chúng tôi sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc bán tài sản này – ông Bội nói. Cuộc đấu giá tiếp diễn với sự tham của hai doanh nghiệp là Cty Trường Thành và Cty Hồng Nghi. Sau ba lần ngã giá, Cty Hồng Nghi đã trúng đấu giá với mức 9.750.000.000 đồng (giá khởi điểm là 9.663.834.400 đồng).
Trước phiên đầu giá diễn ra, Cty Trung Nam đã khiếu nại đến các cơ quan bảo vệ pháp luật từ địa phương đến Trung ương. Liên quan đến vấn đề này, THA TP.HCM đã bác đơn khiếu nại của Cty Trung Nam với lý do: Đối với các trường hợp sau khi có bản án, quyết định của Tòa án, người phải THA đã chuyển nhượng các tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, thì Chấp hành viên có quyền kê biên tài sản đó và có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ giao dịch đó.
Liên quan đến vấn đề nêu trên, Luật sư Lê Quang Y, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai cho rằng: Trường hợp này, người nhận chuyển nhượng tài sản là người ngay tình, họ không hề biết người chuyển nhượng tài sản cho họ là đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ THA; Họ đã tiến hành các thủ tục chuyển nhượng tài sản một cách hợp pháp và không bị bất kỳ một cơ quan có thẩm quyền (như Toà án, cơ quan Thi hành án, cơ quan quản lý tài sản có đăng ký quyền sở hữu ở địa phương...) ngăn chặn; Người nhận chuyển nhượng đã hoàn tất các thủ tục để thực hiện quyền sở hữu tài sản của mình theo quy định của pháp luật dân sự, nên tài sản này là tài sản hợp pháp của họ được pháp luật công nhận, bảo vệ.
2. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài Vấn đề là ở lợi ích của một bộ phận công chức. Bài báo phản ánh: Trong khuôn khổ đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính, Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ đã xác định được 4.737 thủ tục cần phải được đơn giản hóa. Đồng thời, Chính phủ cũng đã ban hành 25 nghị quyết làm cơ sở pháp lý cho các bộ ngành ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực thi nhiệm vụ này. Có thể nói, nỗ lực của các thành viên trong Tổ công tác nhằm nhận diện những loại thủ tục cần phải được đơn giản hóa và đốc thúc các bộ, ngành thực hiện, là rất cần thiết. Tuy vậy, đây mới là sự cải cách về mặt giấy tờ và quy trình thủ tục. Trong khi đó, sự phiền hà, tốn kém mà người dân và doanh nghiệp thường xuyên phải đối mặt khi giải quyết các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính không chỉ đến từ văn bản, giấy tờ, mà còn do tinh thần, thái độ làm việc của một số cán bộ công chức gây ra.
Phát biểu tại hội nghị tập huấn nghiệp vụ kiểm soát thủ tục hành chính diễn ra tại Hà Nội vào tuần trước, ông Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, thẳng thắn nói rằng, đây là công việc khó, vì làm thay đổi thói quen, cách làm cũ. Nhưng cái khó ở đây không chỉ là phải thay đổi thói quen, cách làm cũ, mà theo các thành viên của Tổ công tác, vấn đề còn ở chỗ việc cắt giảm, cải cách thủ tục hành chính sẽ đụng chạm đến lợi ích cục bộ của một bộ phận cán bộ công chức.
Thực tế cho thấy, các quy định về thủ tục hành chính đang bị một số cán bộ công chức sử dụng làm phương tiện trục lợi cho cá nhân hoặc một nhóm lợi ích nào đó. Thế nên, để có thể giải quyết thủ tục nhanh chóng, doanh nghiệp và người dân cứ phải “bôi trơn”, có thể là trực tiếp với những “phong bì” hoặc là gián tiếp thông qua một công ty dịch vụ sân sau của một cán bộ hay quan chức nào đó. Chính vì vậy, bên cạnh việc rà soát, cắt giảm hoặc sửa đổi những văn bản, thủ tục không còn phù hợp, vấn đề lợi ích cục bộ của một bộ phận cán bộ công chức cũng phải được Tổ công tác tấn công quyết liệt. Giải quyết được vấn nạn này, chắc chắn công cuộc cải cách thủ tục hành chính sẽ thành công hơn.
Nói như thế không có nghĩa là phủ nhận hiệu quả của nỗ lực rà soát, đơn giản hóa văn bản, giấy tờ. Trái lại, đây cũng là việc làm mang lại hiệu quả không nhỏ. Đồng thời, nó cũng góp phần hạn chế tình trạng nhũng nhiễu, trục lợi của một số cán bộ công chức biến chất. Những cán bộ loại này thường dựa vào các văn bản, quy định pháp luật để hành người dân và doanh nghiệp. Nếu thủ tục càng nhiều, càng rắc rối và nhất là lại chồng chéo, thì cơ hội cho họ hành dân, hành doanh nghiệp để trục lợi càng nhiều. Ngược lại, một khi thủ tục và quy trình trở nên đơn giản, minh bạch, thì cơ hội cho những cán bộ biến chất trục lợi sẽ ít đi.
Ngoài ra, một điểm cần lưu ý khác là một số cơ quan nhà nước có xu hướng ban hành những văn bản, trong đó đưa ra những quy định tạo thuận lợi cho công tác quản lý của mình hơn là cho người dân và doanh nghiệp. Vì thế, ngoài việc rà soát, đơn giản hóa những thủ tục hiện có, Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ cũng cần quan tâm đến những văn bản, thủ tục được các bộ, ngành và địa phương ban hành trong tương lai. Cuộc đấu tranh xóa bỏ giấy phép con trong nhiều năm qua đã cho thấy, số lượng giấy phép con mới ra đời nhanh và nhiều không kém so với số bị bãi bỏ, nhưng với hình thức khó phát hiện hơn. Rất có thể, những thủ tục đang chuẩn bị được bãi bỏ, đơn giản hóa rồi đây sẽ lại được thay thế bằng các thủ tục khác thông qua một hình thức mới nào đó.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Lắt léo quanh tờ khai sinh. Bài báo phản ánh: Theo quy định, giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Quan hệ cha mẹ, con của bất kỳ ai cũng đều được xác định căn cứ vào giấy khai sinh của người đó. Song thực tế vẫn có nhiều trường hợp “ghi vậy chứ không phải vậy”. Năm 2008, bà M. (phường 2, quận Tân Bình, TP.HCM) sinh con nhưng không có chồng. Ngại tiếng thị phi, bà nhờ người em trai và bạn gái của anh này đứng tên đăng ký khai sinh là cha mẹ của đứa bé. Đầu năm 2010, hai người này mới làm thủ tục cho đứa bé làm con nuôi bà M. Để đâu đó rõ ràng, cuối năm 2010, bà M. ra phường làm thủ tục nhận đứa bé D. là con ruột. Tuy nhiên, UBND phường đã từ chối giải quyết bởi lẽ chỉ có tòa án mới có thẩm quyền xác định con cho cha mẹ và ngược lại.
Vừa rồi, nữ tu sĩ P. (đường số 8, khu phố 5, phường Tam Phú, Thủ Đức, TP.HCM) có đến UBND phường Tam Phú để đăng ký khai sinh quá hạn cho một đứa trẻ nhưng bà lại khăng khăng trẻ này “không phải do tôi sinh ra”. Theo lời trình bày của bà P., năm 2007, có một phụ nữ do lỡ lầm có thai ngoài ý muốn đã bỏ trốn khỏi nhà và đến tịnh thất của bà để tá túc. Bấy giờ, bà P. đã cho cô gái mượn CMND để khám thai và làm thủ tục nhập viện sinh con. Khi cấp giấy chứng sinh cho cô gái, BV đã ghi tên bà P. là mẹ đẻ của bé. UBND phường đã xác minh tại BV Thủ Đức (nơi đứa bé được sinh ra) nhưng do thời gian đã lâu và hồ sơ bệnh án cũng không lưu hình ảnh hay CMND để đối chiếu nên phường không có cơ sở xác định thực hư. Những người sống trong tịnh xá xác nhận sau khi sinh con, người mẹ đã bỏ con lại cho bà P. nuôi dưỡng từ đó đến nay. Do em bé không phải là con đẻ của bà P. nên phường không có cơ sở để cấp giấy khai sinh ghi tên bà P. là mẹ. Cuối cùng, phường làm thủ tục đăng ký khai sinh cho bé theo diện trẻ em bị bỏ rơi. Nếu bà P. muốn nhận bé làm con nuôi thì phường sẽ giải quyết.
Nếu hai trường hợp trên có vẻ bình yên thì hai trường hợp sau đây lại đầy “sóng gió”. Đó là trường hợp của bà V. (huyện Bình Đại, Bến Tre) đang tranh chấp quyền làm mẹ với người vợ hợp pháp của “chồng cũ”. Số là ông này và bà V. có thời gian chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Bốn năm sau, “chồng cũ” cưới vợ thì cũng là lúc bà V. đang mang thai. Sau khi sinh một bé gái, bà V. giao con cho vợ chồng người “chồng cũ” nuôi dưỡng và bà bỏ đi làm ăn xa. Vợ chồng họ đã đăng ký khai sinh cho bé và cùng đứng tên là cha mẹ của bé. Nay bà V. trở về yêu cầu UBND xã công nhận bà mới thực sự là mẹ ruột của bé nhưng xã đã từ chối vì không có thẩm quyền giải quyết. Bà V. được hướng dẫn khởi kiện ra tòa để được giải quyết tranh chấp về cha, mẹ con.
Trường hợp của bà A. éo le hơn ở chỗ “đối thủ” của bà chính là mẹ ruột của bà (tức bà ngoại của đứa bé). Năm 1998, vì những lý do riêng của người lớn mà khi sinh ra, đứa bé được ông bà ngoại nhận làm… con đẻ. Nay để “lá rụng về cội”, cha mẹ A. và A. thỏa thuận A. mới là mẹ ruột của bé và A. có trách nhiệm nuôi dưỡng bé. Mới đây, TAND TP.HCM đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc A. nhận con. Nhiều ý kiến đánh giá quyết định này của tòa đã làm quan hệ giữa các thành viên trong gia đình A. bị đảo lộn khi đứa bé phải gọi người từng là cha mẹ là… ông bà ngoại.