I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân đưa tin: Ngày 1-11, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tiếp đồng chí Phông-xa-vắt Búp-phả, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước CHDCND Lào đang ở thăm và làm việc tại Việt Nam.
2. Báo Sài Gòn tiếp thị đưa tin: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu UBND thành phố Hải Phòng sớm làm rõ trách nhiệm của các bên liên quan gây ra sự cố tại cầu Bính và báo cáo Thủ tướng trước ngày 30.11.2010.
Như thông tin đã đưa, trong cơn bão số 1 diễn ra hồi tháng 7.2010, ba chiếc tàu biển trọng tải lớn neo buộc tại bến của tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Bạch Đằng đã bị đứt dây neo va vào làm cầu Bính hư hỏng. Cầu Bính bắc qua sông Cấm, nằm trên tuyến giao thông huyết mạch nối nội thành Hải Phòng sang huyện Thuỷ Nguyên.
3. Báo Tuổi trẻ Online đưa tin: Ít ai biết Việt Nam đã từng hợp tác với nước ngoài khai thác đất hiếm từ năm 1960. Với trữ lượng lên đến trên 22 triệu tấn, giới khoa học đánh giá Việt Nam có thể đứng thứ 3 trên thế giới về tiềm năng đất hiếm.
4. Thời báo kinh tế Sài Gòn có bài Câu chuyện về trách nhiệm. Bài báo phản ánh: Gần đây đọc báo thấy nhiều vụ “tai nạn” thương tâm: học sinh chết vì điện giật khi đang đi trên đường ngập nước, trẻ em chết đuối vì thụt hố ga, xe taxi lao xuống hố tử thần,... Dư luận lên án sự tắc trách của các đơn vị thi công, điện, nước, giao thông công chính và yêu cầu các đơn vị này phải chịu trách nhiệm. Luật sư cũng đăng đàn cho rằng người dân có quyền kiện, ít nhất là khởi kiện dân sự các cơ quan, tổ chức có liên quan.
Dư luận thì đã ủng hộ, hành lang pháp lý thì đã có nhưng ít thấy người dân nào đi kiện và vẫn hiếm có tổ chức nào chịu trách nhiệm một cách chính thức trước pháp luật về những “tai nạn” thương tâm. Vậy đâu là bản chất của vấn đề?
Trước hết, thử nhìn sang các nước, với những vụ việc tương tự, quyền lợi của người dân được bảo vệ như thế nào?
Ở Vương quốc Anh, bất kỳ ai đã từng nghiên cứu về hệ thống luật án lệ (common law hoặc case law) đều ít nhiều biết đến vụ kiện nổi tiếng “ốc sên trong chai bia gừng” (snail in the bottle) diễn ra vào những năm 30 của thế kỷ 20 tại nước này.
Trong vụ này, nguyên đơn uống bia gừng do một người bạn mời tại quán cà phê. Sau đó bạn của nguyên đơn phát hiện trong đáy chai bia gừng có một xác con ốc sên đang trong quá trình thối rữa. Nguyên đơn khởi kiện nhà sản xuất bia gừng đòi bồi thường cho các thiệt hại về sức khỏe và tinh thần và đã được tòa án chấp nhận. Vụ kiện có nhiều ý nghĩa về mặt khoa học pháp lý, tôi không tiện trình bày ở đây nhưng có thể thấy ý nghĩa ở một khía cạnh khác: đó là dù chỉ bị thiệt hại nhỏ nhưng người dân Anh từ cách đây 80 năm đã có ý thức tự bảo vệ mình bằng các thiết chế pháp luật và từ đó có thể suy ra bản thân các thiết chế pháp luật này cũng có độ tin cậy rất cao.
Một ví dụ khác ở Úc. Một cô gái đi qua công viên trên đường về nhà thì bị lạm dụng tình dục. Cô đâm đơn khởi kiện cảnh sát khu vực vì mấy lý do: thứ nhất, cảnh sát khu vực thiếu trách nhiệm vì không tuần tra khi khu vực này đã từng xẩy ra các vụ lạm dụng tình dục; thứ hai, cảnh sát khu vực không đưa ra các biển báo cần thiết cũng như yêu cầu lắp đặt hệ thống đèn đường đủ sáng để đảm bảo an toàn cho khách bộ hành. Cuối cùng, tòa xử cô gái thắng kiện, cảnh sát khu vực là người phải chịu một phần trách nhiệm trong việc cô gái bị lạm dụng tình dục.
Vụ việc này không phải là “án điểm” vì nó là câu chuyện thường ngày. Không có gì lạ khi một người dân thắng kiện cảnh sát khu vực, nhưng có vẻ như thông điệp của nó đối với Việt Nam là rất rõ ràng trong bối cảnh hiện nay.
Theo đó, trách nhiệm của cơ quan công quyền là phải quan tâm đến tính mạng, danh dự, sức khỏe và tài sản của công dân. Nhà nước phải bảo vệ được người dân của mình tối đa, một cách có thể.
Gần đây, các vụ kiện liên quan đến phanh (thắng) không an toàn của xe Toyota buộc hãng này phải thu hồi hàng triệu xe hơi tại Mỹ và một số nước khác, cho thấy trách nhiệm của nhà sản xuất đối với người tiêu dùng và đối với công chúng như thế nào trong xã hội hiện đại. Thậm chí, chính Tổng giám đốc Toyota phải ra điều trần, nhận trách nhiệm trước Quốc hội Mỹ.
Trách nhiệm quan tâm, cẩn trọng (duty of care) của một người đối với tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản của người khác là một trong những chế định pháp luật quan trọng và lâu đời của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là tại các nước theo hệ thống án lệ.
Từ nhà sản xuất, người bán hàng, nhà thầu xây dựng, cơ quan công quyền cho đến các cá nhân bình thường trong xã hội đều có nghĩa vụ hành xử thận trọng và thích hợp đối với sự an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản của người khác; nếu không, anh sẽ gánh chịu sự trừng phạt nghiêm minh và nghiêm khắc của pháp luật. Ý thức cao của người dân trong việc sử dụng pháp luật để tự bảo vệ mình trước sự xâm hại cố tình hay vô tình của người khác cũng là một yếu tố làm tăng trách nhiệm quan tâm, cẩn trọng của mọi đối tượng trong xã hội.
Nhìn người lại ngẫm đến ta. Người dân khi lâm vào cảnh tai bay vạ gió như chết người vì hố ga, miệng cống đề cập ở trên phải nghĩ rằng đó đơn thuần không phải là tai nạn. Trong cái không may của con cháu, người thân của mình có lỗi rất lớn kéo theo trách nhiệm của nhiều đối tượng có liên quan. Người dân, trước hết hãy mạnh dạn và tập thói quen sử dụng pháp luật và các thiết chế của nó để truy cứu trách nhiệm của những người thiếu trách nhiệm.
Tất nhiên cái khó của ta là nhiều khi “chưa được vạ thì má đã sưng”. Quá trình tố tụng kéo dài, mệt mỏi, chế tài pháp luật chưa nghiêm khắc, độ tin cậy vào hệ thống tư pháp chưa cao là nguyên nhân chính khiến người bị hại ngại ngần kiếm tìm công lý và họ đành chọn giải pháp im lặng hoặc nhận chút ít bồi thường hoàn toàn không tương xứng của bên có trách nhiệm. Cuối cùng thì trách nhiệm lại được xử lý qua loa, lại “chìm xuồng” và chính điều đó lại vô tình khuyến khích cho thái độ coi thường an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản của người dân tiếp tục phát triển.
Ngoài việc người dân mạnh dạn khởi kiện, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải vào cuộc thực sự. Trước hết hãy lôi kẻ coi thường pháp luật để xử lý theo pháp luật, thiết lập trật tự, kỷ cương. Gần đây, việc Vedan chịu bồi thường cho nông dân có thể coi là "ánh lửa" đầu tiên được thắp lên, nhưng chúng ta vẫn cần nhiều hơn nữa những "ánh lửa" như thế.
Cuối cùng, để mạng người không còn bị rẻ rúng, về dài hạn phải sửa đổi pháp luật theo hướng tăng nặng mức độ trừng phạt, cụ thể ở đây là tăng trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất dân sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), tăng khung hình phạt trong luật hình sự.
Có như thế, mọi công dân mới cảm nhận được sự an toàn vì được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Xa hơn, những người có lương tri sẽ không còn đau lòng khi không phải đọc những mẩu tin về “tai nạn” thương tâm trên báo chí như thời gian vừa qua.
5. Báo Dân trí có bài Cần xây dựng luật về Đảng cầm quyền. Bài báo đăng bài Góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI của TS Lại Huy Phương như sau:
Cần xây dựng luật về Đảng cầm quyền trong đó luật hoá các vấn đề như: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”...“Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”... Luật hoá về quyền và trách nhiệm của người lãnh đạo, của cơ quan Đảng các cấp...
Theo tôi một nội dung chính của cương lĩnh là: Xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” để “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối.“ nhằm mục tiêu “xây dựng một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;“.
Các ý kiến của tôi dưới đây cũng tập trung vào nội dung này. (Phần chữ nghiêng trong dấu “…” của bài này là trích từ văn kiện dự thảo).
1. Tôi cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (độc quyền), là một kế thừa tất yếu của lịch sử và cũng là lựa chọn đúng cho giai đoạn hiện nay nếu “độc quyền lãnh đạo” và “dân chủ - dân làm chủ” được gắn với các quy định để không dẫn đến mâu thuẫn, đảm bảo “chính danh, chính ngôn”.
- Là Đảng cầm quyền duy nhất, Đảng phải là Đảng của toàn dân, đại diện cho ý chí, quyền lợi của toàn dân. Dân phải thực sự quyết đinh việc cử ra, giám sát và bãi miễn các đồng chí đứng đầu Đảng các cấp, để chọn được những người ưu tú nhất được dân tín nhiệm.
Ví dụ như: thông qua bầu cử trực tiếp, dân bầu ra người đứng đầu chính quyền của cả nước, của cấp tỉnh, cấp xã; và Điều lệ Đảng (sửa đổi) quy định những người đó (nếu là Đảng viên) sẽ là người đứng đầu Đảng cấp tương ứng.
- Để thực sự dân chủ và phản ảnh thực chất trong bầu cử, phải đảm bảo tự do ứng cử, đề cử (kể cả người ngoài Đảng), giám sát tốt việc bầu cử, dân cần có các thông tin minh bạch của những người được đề cử, ứng cử, đủ căn cứ để người dân lựa chọn.
Ví dụ : Đề cương tranh cử, cam kết, đối thoại và tranh luận; kê khai tài sản của bản thân và vợ, con, bố mẹ... Cách thức này được áp dụng cho cả các cuộc bầu cử khác như quốc hội, toà án … Là đảng viên, tôi đề nghị cũng cần áp dụng cách này trong bầu cử của Đảng.
- Cần xây dựng luật về Đảng cầm quyền, trong đó luật hoá các vấn đề như: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; “Quốc Hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước”; “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” ... luật hoá về quyền và trách nhiệm của người lãnh đạo, của cơ quan Đảng các cấp và quan hệ tương ứng với người đứng đầu, và cơ quan của quốc hội (HĐ nhân dân), toà án, chính quyền các cấp... “phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước” (pháp luật).
- Trong đoạn “ … , trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” nên thêm “,tầng lớp doanh nhân”.
- “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”
2. “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ...”
- Có cần dùng từ định hướng khi khái niệm XHCN đã được nêu? Bởi “định hướng” làm cho vấn đề có vẻ mơ hồ, thiếu kiên định.
- Khái niệm “kinh tế thị trường” là rõ còn khái niệm “xã hội chủ nghĩa” cơ bản là rõ, và có thể hoàn chỉnh tiếp. Cụ thể tính “xã hội chủ nghĩa” của nền kinh tế thể hiện ở các ý đã nêu tại nhiều chỗ trong dự thảo : “do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo” , “chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”, “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”, “Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”, “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất” v...v…
- “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” không có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước có nội dung rộng hơn. Thực tế vừa qua cho thấy hiệu quả làm ăn của một số doanh nghiệp nhà nước là thấp, làm ăn thua lỗ, đã xảy ra tình trạng nợ nần siêu lớn, dễ thất thoát, tham nhũng; có thể trở thành gánh nặng và lực cản của nền kinh tế. Cần sớm hoàn chỉnh các quy định quản lí để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động bình đẳng, hiệu qủa, nếu không thì giải thể và khuyến khích tư nhân làm.
- Tính chất XHCN của nền kinh tế, theo tôi không thực chất nằm ở tỷ trọng của các doanh nghiệp nhà nước (đầu vào) mà thực chất nằm ở khâu điều tiết phân phối của cải thu nhập xã hội (đầu ra). Đó là, thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư, thuế thu nhập, chính sách phúc lợi xã hội… Nhà nước điều tiết, giảm dần chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các vùng đồng bằng miền núi, nông thôn thành thị, các dân tộc, các nhóm lợi ích, các tầng lớp xã hội mà đặc biệt cần quan tâm là đời sống nông dân, công nhân … Còn cách nào giúp tạo ra nhiều, tăng nhanh và bền vững của cải thu nhập xã hội, sẽ là cách được chọn và được khuyến khích bằng các chính sách thích hợp .
3. “Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”
Tham nhũng, hối lộ rất khó phát hiện. Người có chức có quyền mới có điều kiện tham nhũng, quyền chức càng to nếu tham nhũng thì thiệt hại cho đất nước càng nghiêm trọng, càng lớn. Để chống tham nhũng phải có cán bộ trong sạch. Như vậy chống tham nhũng thực là khó.
Tuy nhiên tham nhũng thường đi kèm với các biểu hiện thất thoát, lãng phí lớn, sai phạm về quản lí tài chính, sai phạm về quản lí tài nguyên… đi kèm với tăng nhanh tài sản, giầu không chính đáng (phần nổi của tham nhũng).
Theo tôi để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả cần làm đồng bộ các biện pháp: phát huy mạnh mẽ cơ chế giám sát của dân; kiên quyết việc kê khai tài sản của các quan chức, của các lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước; điều chỉnh luật để xử lí nặng các thất thoát, lãng phí, các sai phạm về quản lí tài chính, tài nguyên; điều tra sai phạm cần gắn với điều tra tài sản của các đương sự và phát hiện hành vi tham nhũng;… Bên cạnh đó, kiên quyết xử lí các tham nhũng đã được trực tiếp phát hiện và xử lí nặng đủ mức răn đe.
Còn giải quyết tận gốc lại là vấn đề nâng cao phẩm chất cán bộ, vấn đề xây dựng Đảng.
4. “Hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi”.
Trong việc hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, hoạt động của hệ thống Tuyên giáo của Đảng, hệ thống báo chí truyền thông của nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội, trường học… có vai trò quan trọng. Bên cạnh việc phát hiện phê phán cái xấu tiêu cực, theo tôi, toàn hệ thống cần làm tốt hơn, nhiều hơn việc tuyên dương, ca ngợi các gương người tốt việc tốt, các gương liêm chính, ứng xử văn minh, các gương - truyền thống văn hoá ứng xử tốt đẹp của cha ông… tạo một luồng gió chính khí át tà khí, để mọi người nghĩ, nói và làm theo.
5. Một số vấn đề cụ thể khác
- “Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, …” theo tôi đây là nguyên tắc của Đảng, còn bộ máy nhà nước phải tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật.
- “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị”. Theo tôi cần rất thận trọng vấn đề này, có các quy định sao cho vẫn đạt được ý tốt và miễn dịch với cái xấu. Thực tế thời gian qua cho thấy đây là một vấn đề dễ dẫn tới tệ nạn cơ hội, bè cánh, chạy chức chạy quyền.
Minh bạch, công khai các quy định tiêu chuẩn về đề cử, thi tuyển cán bộ chăng?
- “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm đầy đủ dân chủ và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân.”
Tôi băn khoăn cơ chế - động lực nào để làm việc này. Đến nay tình hình tiêu cực vẫn “chưa được ngăn chặn, đẩy lùi;” dẫn đến “làm tăng thêm bức xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước”. Có một thực tế là, khi gánh vai trò đảng cầm quyền và độc quyền, Đảng cũng tự đặt mình vào thế “thách thức”.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường, “duy nhất cầm quyền” và nhiều nhiệm kỳ, bộ phận lãnh đạo dễ bị thoái hoá sa sút phẩm chất, mất dần cán bộ tốt, hình thành bè cánh - nhóm lợi ích, “biểu hiện "tự diễn biến" trong nội bộ” và thật nguy hiểm nếu càng lên cao, nguy cơ này càng tăng. Theo tôi giải pháp khả thi nhất là: phải dựa vào dân, giám sát của toàn dân để xây dựng Đảng, trước hết ở khâu bầu cử cán bộ, đã nêu ở điểm 1, và ở mục ngay dưới đây.
- “Hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước, nhất là về các chính sách kinh tế, xã hội, về quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển quan trọng”.
Đây là việc cấp bách và rất đúng; ngoài những nội dung đã nêu, còn là những nội dung khác như: “cương lĩnh, chiến lược, và đặc biệt vấn đề xây dựng đảng …” ; Công việc này cần làm thường xuyên, như cần hơi thở, không chỉ vài tháng trước mỗi kì đại hội đảng.
Đảng cần coi vịêc giám sát của dân là cứu cánh, là nguồn lực, là sức mạnh cũng là áp lực xã hội, để trợ giúp Đảng “xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao”;
Cần động viên, mời gọi toàn dân, các đoàn thể chính trị-xã hội, hệ thống thông tin, báo chí, báo điện tử… tham gia xây dựng Đảng. Bởi lẽ hoặc làm tốt công tác xây dựng Đảng nâng cao phẩm chất cán bộ hoặc Đảng sẽ để cán bộ tha hóa, mất sức chiến đấu.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Biên phòng đưa tin: Bên lề kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII, trả lời báo chí về những vấn đề cần chỉnh sửa tại dựt hảo Luật Phòng, chống mua bán người, đại biểu Nguyễn Minh Thuyết, Đoàn đại biểu tỉnh Lạng Sơn cho biết:
- Qua nghiên cứu dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người, tôi thấy cần phải sửa nhiều. Như tên gọi của luật, thì đây là luật quy định về các biện pháp phòng ngừa và chống mua bán người, nhưng nội dung của dự thảo luật chủ yếu quy định về các biện pháp phòng ngừa, trong khi đó nội dung chống mua bán người lại quá mờ nhạt và chỉ được quy định dưới dạng nguyên tắc chung mà ở các luật khác đã quy định. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong đấu tranh phòng chống mua bán người chưa rõ ràng, cụ thể. Việc đầu tư xây dựng các cơ sở hỗ trợ nạn nhân với tư cách là một tổ chức độc lập ở tất cả các tỉnh, thành phố sẽ gây rất nhiều tốn kém và lãng phí. Hơn nữa hiện nay ở tất cả các tỉnh, thành phố đều đã thành lập Trung tâm bảo trợ xã hội thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, vì vậy sẽ hợp lý hơn nếu bổ sung chức năng, nhiệm vụ hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán và tăng cường đầu tư cho các Trung tâm này. Đồng thời, để phòng ngừa hiệu quả nạn mua bán người, các cơ quan chức năng, nhất là tuyến cơ sở cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân. Bên cạnh đó, cần phát hiện và ngăn chặn ngay từ những lĩnh vực dễ bị lợi dụng để mua bán người như xuất khẩu lao động, cho nhận con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài...
2. Báp Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài DN có thêm kênh kiến nghị về chính sách, pháp luật. Bài báo đưa tin: Báo Pháp Luật TP.HCM, Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn và kênh truyền hình FBNC hợp tác thực hiện chương trình Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Chiều nay, 2-11, tại Cao ốc Hoàng Việt, 34 Hoàng Việt, phường 4, quận Tân Bình sẽ diễn ra buổi lễ công bố thỏa thuận hợp tác thực hiện chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giữa báo Pháp Luật TP.HCM, Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn và kênh truyền hình FBNC.
3. Báo Đời sống và Pháp luật có bài Bà Rịa - Vũng Tàu: Vì sao bản án vẫn chưa được thi hành? Bài báo phản ánh: Sau 4 năm tuyên án, nhưng bản án của Tòa án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xung quanh vụ tranh chấp đất vẫn chưa được thi hành án. Sự việc xảy ra tại ấp Gò Cà, xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Mẹ Nguyễn Thị Hóa (Mẹ Việt Nam anh hùng) là nguyên đơn trong vụ tranh chấp đất lại phải mòn mỏi chờ Cục thi hành án để lấy lại phần đất của mình.
Mẹ Hóa có 6 người con, có 3 người con đã hi sinh. Hiện mẹ sống với con trai út. Ở cái tuổi "gần đất xa trời" mẹ chỉ mong đòi lại được miếng đất mà mẹ đã chắt chiu tiền lương hàng tháng để mua.
Ngày 31/07/2008, Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc đã xử sơ thẩm vụ tranh chấp đất đai giữa mẹ Hóa và ông Tứ. Tòa đã tuyên án buộc ông Trần Văn Tứ và ông Trần Văn Dững phải trả lại cho mẹ Hóa 8.686m2 và bồi thường 12.279.000 đồng. Bên ông Tứ đã kháng án và hồ sơ được chuyển lên tòa án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày 29/09/2008, Tòa tỉnh đã tuyên y án sơ thẩm phần tranh chấp thuộc quyền sở hữu của mẹ Hóa và bên phía ông Tứ phải bồi thường cho mẹ Hóa 10.549.500 đồng. Tuy nhiên từ đó đến nay bản án vẫn chưa được thi hành.
Ông Trần Văn Mười, Cục trưởng cục thi hành án của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho biết có một số nguyên nhân khiến việc thi hành án bị "treo" 2 năm nay. Thứ nhất là do lời khai và quá trình quản lý đất đai không thống nhất. Thứ hai diện tích đất đang tranh chấp nằm trong khu bảo tồn Bình Châu - Phước Bửu. Thứ 3 là Cục thi hành án tỉnh còn chờ giải quyết kiến nghị của cấp trên. Khi phóng viên có đặt một số câu hỏi về xung quanh vấn đề này thì đều do ông Châu Vũ - Chi cục trưởng Chi cục thi hành án... huyện Côn Đảo trả lời (!?).
Đến nay bản án đã tuyên được 2 năm nhưng việc thi hành án vẫn cứ "dậm chân tại chỗ", mẹ Hóa chỉ còn biết mòn mỏi chờ đợi. Con trai mẹ kể lại "Mỗi lần có ai nhắc đến vụ đất đai mẹ lại khóc, cứ đòi chở mẹ lên tỉnh gặp cục thi hành án" Nhưng vì mẹ tuổi cao sức yếu, nên con trai chỉ đưa mẹ đi vài lần rồi thôi.
Ngày 25/09/2010 Bộ Tư pháp gửi công văn đến Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu yêu cầu sớm giải quyết dứt điểm vụ việc. Bán án lại tiếp tục bị "treo" kèm theo đó là những đơn kiến nghị của Cục thi hành án dân sự tỉnh đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao.. đề nghị xem xét. Nhưng cho đến nay bản án vẫn chưa được thực thi vì còn chờ giải quyết kiến nghị của cấp trên.
4. Báo Pháp luật và Xã hội có bài “Dính” tội vì chống người thi hành công vụ? Bài báo phản ánh: Theo VKSND huyện Đông Anh, khoảng 15g ngày 5-7-2007, lực lượng cưỡng chế liên ngành do Thi hành án dân sự (THADS) huyện Đông Anh tổ chức đã đến nhà bà Ngô Thị Quý để thực hiện Quyết định số 08/QĐCC ngày 5-7-2007 về việc cưỡng chế, giao đất và tài sản trên đất cho anh Tô Kim Kiên (anh Kiên ủy quyền cho ông Tô Kim Dương). Khi đoàn cưỡng chế đến nhà bà Quý, ông Nguyễn Khả Đoàn (chấp hành viên THADS huyện Đông Anh – người được giao giải quyết vụ việc) đã yêu cầu bà Quý nhận quyết định cưỡng chế.
Bà Quý không nhận mà đứng ở sân nhà mình chửi bới, lăng mạ ông Đoàn và những người trong đoàn cưỡng chế. Bà Quý chạy vào nhà cầm một con dao xông thẳng đến chỗ đoàn cưỡng chế đang đứng. Bà Quý chém ông Đoàn, ông Dương. Nhưng ông Đoàn tránh được, ông Dương bị dao sượt vào cánh tay phải làm rách da. Khi lực lượng cưỡng chế bắt giữ, lập biên bản, bà Quý đã giằng co khiến ông Dương Ngọc Tiến (CA huyện Đông Anh) và anh Nguyễn Duy Chung (cán bộ dân phòng xã Uy Nỗ) bị thương ở tay.
Tuy nhiên, ông Dương, anh Chung, anh Tiến từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường về dân sự. VKSND huyện Đông Anh đã truy tố bà Quý ở khoản 1 Điều 257 (tội “Chống người thi hành công vụ”) BLHS. Theo đó, ngày 27-9-2007, TAND huyện Đông Anh tuyên phạt bà Quý sáu tháng tù. Cho rằng, mình không phạm tội, bà Quý kháng cáo. Sau đó, TAND TP Hà Nội đã tuyên y án sơ thẩm.
Bà Quý đã chấp hành án xong bản án hình sự này. Tuy nhiên, bà tỏ ra ấm ức vì cho rằng, mình bị kết tội oan. Bà Quý gửi đơn kiến nghị đến các cơ quan chức năng bởi các lẽ:
Thứ nhất, THADS huyện Đông Anh đã cưỡng chế trái pháp luật, xâm hại đến quyền lợi của ông Nguyễn Tuấn Đạt (người được bà Quý chuyển nhượng 250m2 đất ở thôn Kính Nỗ, Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội). Bản án dân sự số 30/DSST nhận định, bà Quý không được bán đất để đảm bảo thi hành án; chứ không buộc cưỡng chế 238m2 đất của bà Quý để bàn giao cho anh Kiên. HĐXX đã nêu rõ: “Bà Quý phải bồi thường thiệt hại cho anh Kiên 325,2 triệu đồng”.
Điều đáng nói, phần đất bị “cắt” lại đúng lô đất bà Quý đã chuyển nhượng cho ông Đạt. Như lời ông Đạt, quá trình cưỡng chế, cơ quan thi hành án không thông báo cho ông biết. Việc bà Quý chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đạt là hợp pháp, ông Đạt hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước và UBND huyện Đông Anh đã xác nhận hợp đồng chuyển nhượng này.
Thứ hai, quá trình thi hành án, nếu thấy bản án tuyên bất hợp lý, THADS huyện Đông Anh cần làm đơn kiến nghị đến tòa án cấp trên có thẩm quyền để kháng nghị vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm. Nhưng cơ quan thi hành án đã không làm việc này.
Thứ ba, liên quan đến vụ án hình sự, trước mặt đông đảo lực lượng cưỡng chế, một mình bà Quý với sức vóc phụ nữ yếu ớt khó có thể chém một lúc cả ba cán bộ. Trong khi, cả ba bị hại đều từ chối giám định thương tích (?).
Các cơ quan chức năng cần xem xét lại các bản án, quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn của vợ chồng bà Quý để trả lại quyền và lợi ích chính đáng cho người phụ nữ bất hạnh này.
Báo cũng có bài Những câu chuyện “dở khóc...” Bài báo phản ánh: Không có một chút hiểu biết, đứa con trai mới 16 tuổi đã khiến cháu bé khóc ngằn ngặt. Sợ bị phát hiện, Tình đã bế cháu bé ra khu vườn sắn rậm rạp để giấu rồi bỏ chạy về nhà.
Gặp Đại úy Nguyễn Hùng - Cục cảnh sát Phòng chống tội phạm, Bộ CA, người trinh sát đã có thâm niên nhiều năm công tác tại các tỉnh miền núi, được đồng đội yêu mến đặt cho cái danh "án phụ nữ". Qua làn khói nóng của ly cà phê, ánh mắt người trinh sát nhiều kinh nghiệm đượm vẻ buồn khi kể về những vụ án xâm hại tình dục trẻ em vùng cao. Theo anh, nhiều khi cả bị hại lẫn bị can đều rất đáng thương, vì không được dạy dỗ về giới tính, cũng chẳng được học hành, phạm tội theo bản năng, có những trường hợp do "mù" luật.
Theo thống kê chưa đầy đủ của Cục Bảo vệ - Chăm sóc trẻ em thuộc Bộ LĐ - TBXH ba năm trở lại đây các vụ xâm hại trẻ em có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là với trẻ em nhỏ tuổi khiến dư luận bức xúc. Có nhiều vụ việc đau lòng xảy ra mà nguyên nhân chính của nó là do các đối tượng không được hướng dẫn, đến nơi đến chốn về sức khỏe sinh sản, giới tính, tâm sinh lý, đặc biệt là việc tuyên truyền, phổ biến về pháp luật ở nhiều tỉnh vùng cao còn rất hạn chế nếu không nói là hầu như không có.
Thiết nghĩ, nếu có sự chung tay của cộng đồng, từ việc quyết tâm đẩy mạnh giáo dục giới tính và các vấn đề về pháp luật trong nhà trường đến việc tuyên truyền của cán bộ y tế, tư pháp thường xuyên, liên tục tại các tỉnh miền núi, đặc biệt là các huyện vùng sâu, vùng xa, tổ chức được các lớp học ngắn trong phạm vi 1-2 ngày để tuyên truyền pháp luật thì những vụ án đau lòng đối với trẻ em sẽ được giảm thiểu đi rất nhiều.
5. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Phải khai sinh ngoài giá thú, dù cha mẹ hôn nhân hợp pháp. Bài báo phản ánh: Anh N. H.B và chị N.H.L được UBND phường X. làm thủ tục đăng ký kết hôn theo luật định rồi sinh hạ bé trai N. H.M. Khi anh chị làm thủ tục đăng ký khai sinh cho bé M. thì bị UBND phường từ chối với lý do, TAND quận đang thụ lý việc hủy đăng ký kết hôn trái pháp luật giữa hai người.
Liên quan đến cuộc hôn nhân của anh chị, người vợ cũ đã đứng lên “tố” UBND một phường khác đã cấp Giấy xác nhận hôn nhân cho anh B. khi quyết định ly hôn của anh với người đàn bà này chưa có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, UBND phường X. hướng dẫn anh B. làm thủ tục khai sinh cho con ngoài giá thú hoặc làm thủ tục nhận cha cho con ngoài giá thú.
Anh B. không đồng ý với lý lẽ, con anh sinh ra trong cuộc hôn nhân hợp pháp của anh chị, có đăng ký kết hôn được cơ quan có thẩm quyền cấp, nó không thể là đứa bé “sinh ngoài giá thú”. Còn nếu buộc anh phải làm thủ tục nhận cha cho con tại Tòa án thì cũng thật phiền phức và hệ quả của việc này cũng chẳng khác việc khai sinh ngoài giá thú. Đứa trẻ sinh ra không có tội và đặt trong hoàn cảnh của những người làm cha, làm mẹ như anh B, chị L. thì có thể hiểu tại sao họ lại không muốn cho con mình được khai sinh như hướng dẫn.
Có thể nói, lỗi trong trường hợp này là do cả hai phía. Cứ cho rằng công dân không hiểu pháp luật và họ vẫn xin xác nhận tình trạng hôn nhân để kết hôn với người mới khi vừa ly hôn với người cũ mà bản án đó chưa có hiệu lực thì vẫn có thể “châm chước”. Tuy nhiên, việc UBND phường không xác minh kỹ để “lọt” bản án chưa có hiệu lực thì không thể “châm chước” vì những người thi hành pháp luật không thể bao biện là không hiểu luật.
Chính vì họ “vô tư” cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (điều kiện bắt buộc để đăng ký kết hôn) dẫn đến những rắc rối rất khó giải quyết cho công dân. Nếu (lại là nếu) UBND phường qua kiểm tra phát hiện việc này để dừng việc cấp giấy, chờ đến khi bản án có hiệu lực thì mọi chuyện đã không trở nên bế tắc như hiện nay…
6. Báo VietNam.net có bài Giản tiện thủ tục đăng ký giữ quốc tịch của kiều bào. Bài báo đưa tin: Trao đổi với báo chí chiều 1/11, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài cho hay có thể xem xét áp dụng những chính sách đặc thù trong triển khai đăng ký giữ quốc tịch của kiều bào như giản tiện thủ tục, kéo dài thời hạn đăng ký.
Hơn 1 năm kể từ ngày triển khai quy định luật, Thứ trưởng Thanh Sơn cho hay vẫn đang trong giai đoạn "thí điểm" và chưa thấy có kiến nghị về khó khăn đối với bà con trong quá trình đăng ký giữ quốc tịch gốc. Tuy nhiên, ông cho hay dù 5 năm là khoảng thời gian không ngắn nhưng đối với bà con kiều bào sinh sống ở các vùng lãnh thổ, nơi chưa có cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam thì việc đăng ký giữ quốc tịch phải tính tới các yếu tố thủ tục thuận lợi.
Thứ trưởng Thanh Sơn cho hay, trong quá trình triển khai thực hiện quy định theo pháp luật, dựa trên thực tế, Ủy ban có thế kiến nghị xem xét áp dụng những chính sách đặc thù trong triển khai đăng ký giữ quốc tịch của kiều bào như giản tiện thủ tục, cho phép đăng ký qua mạng, thực hiện ủy thác hay kéo dài thời hạn đăng ký, tạo thuận lợi tối đa cho bà con kiều bào.
Triển khai chính sách quốc tịch cho kiều bào cũng sẽ là một trong những nội dung được thảo luận tại hội nghị quốc gia đầu tiên tổng kết 6 năm thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài diễn ra cuối tuần này tại Hà Nội. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, cơ quan, lãnh đạo 63 tỉnh thành trong nước sẽ cùng nhìn lại quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết nói trên trong cuộc sống.