I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tiền phong Online có bài Bão Megi có thể không vào Việt Nam. Bài báo đưa tin: Siêu bão Megi cấp 14 có thể tiếp tục mạnh thêm, nhưng lại đang le lói hy vọng nó có thể trườn lên phía bắc biển Đông và không đổ bộ vào đất liền Việt Nam, theo Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương.
Tối qua, 19-10, vị trí tâm bão số 6 với tên quốc tế là Megi ở vào khoảng 17 độ vĩ bắc; 118 độ kinh đông, cách quần đảo Hoàng Sa khoảng 600 km về phía đông. Sức gió mạnh nhất ở vùng gần bão mạnh cấp 14 (tức là từ 149 đến 167 km một giờ), giật cấp 16, cấp 17.
Dự báo trong 2-3 ngày tới, bão số 6 di chuyển theo hướng giữa tây tây bắc và tây bắc mỗi giờ đi được khoảng 10-15km, hướng về phía đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) và tiếp tục mạnh thêm, lên cấp 15.
Với hướng di chuyển có thay đổi như vậy, bão số 6 được nhận định ít có khả năng ảnh hưởng đến nước ta. Tuy nhiên, còn 3-4 ngày nữa bão mới đổ bộ lên đất liền nên bất cứ tình huống nào cũng có thể xảy ra, khi đường đi của bão trên Biển Đông luôn gây bất ngờ vào phút chót.
Do ảnh hưởng của bão, vùng biển phía đông biển Đông có gió mạnh cấp 11, cấp 12, vùng gần tâm bão đi qua cấp 14, cấp 15, giật cấp 17. Sóng biển cao từ 12 - 14 mét; biển động dữ dội. Vùng biển quần đảo Hoàng Sa gió sẽ mạnh dần lên cấp 8, cấp 9, sau tăng lên cấp 10, cấp 11, vùng gần tâm bão mạnh cấp 12, cấp 13, giật cấp 14, cấp 15; biển động dữ dội.
2. Báo VnMedia đưa tin: Theo Quyết định 1908/QĐ-TTg ngày 19/10 của Thủ tướng Chính phủ, ông Nguyễn Viết Tiến, Giám đốc Bệnh viện Phụ - Sản Trung ương được bổ nhiệm có thời hạn, giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế.
Cùng ngày, theo Quyết định 1912/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, bà Lê Thị Thủy, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Nghệ An được điều động, bổ nhiệm có thời hạn giữ chức Phó Tổng Thanh tra Chính phủ.
3. Báo Vietnam.net có bài Luật về Đảng và tính tự chịu trách nhiệm của Chính phủ. Bài báo đưa tin: Ngày 19/10, VietNamNet tiếp tục giới thiệu ý kiến của ông Nguyễn Đăng Dung, Chủ nhiệm bộ môn Hiến pháp, Khoa Luật, ĐH Quốc gia Hà Nội. Theo ông Dung, cơ chế chính trị của Việt Nam khác với cơ chế chính trị của các nước, thế giới đa số là đa nguyên, ta là nhất nguyên. Nhất nguyên có cái hay là dễ thống nhất, nhưng bên cạnh đó, Đảng lại dễ rơi vào chủ quan, áp đặt, mà trở thành một lực lượng chuyên chế. Đảng và Nhà nước phải hết sức đề phòng căn bệnh cố hữu này, để luôn xứng đáng với lòng tin yêu như đã và đang có của nhân dân.
Góc nhìn của ông Nguyễn Đăng Dung có thể còn cần phải bàn thảo thêm để làm sáng tỏ vấn đề. Trên tinh thần tôn trọng những ý kiến khác biệt mà Đảng luôn kêu gọi, tôn trọng không khí tranh luận cởi mở, VietNamNet giới thiệu nội dung cuộc trò chuyện này.
4. Báo Đầu tư điện tử có bài Công bố kết quả khảo sát xã hội học về game online. Bài báo đưa tin: Ngày 19/10, Viện Xã hội học thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã chính thức công bố Báo cáo Khảo sát xã hội học về dịch vụ trò chơi trực tuyến ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đây là bản khảo sát mang tính chất tương đối toàn diện đầu tiên về game online được tiến hành.
Bản báo cáo đưa ra những kiến nghị đối với người chơi game online, cơ quan quản lý nhà nước, nhà sản xuất game online....Trong đó, đối với cơ quan quản lý nhà nước cần xây dưng và ban hành sớm các văn bản quy phạm pháp luật về game online phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển game online hiện nay của Việt Nam. Đồng thời đổi mới phương thức quản lý phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu của dịch vụ game online tránh tư tưởng "cấm" hoặc "hạn chế" khi có khó khăn trong công tác quản lý.
Còn đối với các nhà sản xuất game online cần phải nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật trong việc kiểm soát, hạn chế đúng mức người chơi, thời gian chơi phù hợp trong các sản phẩm của mình, đặc biệt là đối với những sản phẩm dành cho nhóm xã hội chưa có đầy đủ nhận thức về hành vi của mình như trẻ em.
Được biết, hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Dự thảo Quy chế của Thủ tướng Chính phủ về Quản lý trò chơi trực tuyến. Dự kiến bản Quy chế này có thể sẽ được ban hành trong tháng này.
5. Báo Nhân dân điện tử có bài WB: Kinh tế Việt Nam phục hồi tương đối mạnh mẽ. Bài báo đưa tin: Ngân hàng Thế giới sáng 19-10 công bố báo cáo Cập nhật kinh tế khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, trong đó có phần đánh giá “nền kinh tế thực tế của Việt Nam đã phục hồi tương đối mạnh mẽ, sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn, nhưng chưa đồng đều”.
Theo Ngân hàng Thế giới, những chỉ số kinh tế chủ chốt như GDP thực, sản xuất công nghiệp, đầu tư và xuất khẩu của Việt Nam đã phục hồi gần như thời trước khủng hoảng. Tuy nhiên, thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn ở mức cao và các hộ gia đình cũng như các công ty dường như vẫn tiếp tục dự trữ vàng và ngoại tệ, gây áp lực liên tục cho đồng nội tệ.
Thị trường chứng khoán, sau sự phục hồi đáng kế năm 2009, đã sụt giảm trở lại và tiếp tục gây ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế ngày càng lớn hơn. Biên độ của trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ của Việt Nam vẫn nằm ở mức cao chung quanh 400 điểm cơ bản và cao hơn hầu hết những nước trong khu vực.
6. Báo cũng đưa tin: Sáng 18/10 Đại hội Đảng bộ các tỉnh: An Giang, Thanh Hóa, Bến Tre, Bạc Liêu, Long An, Hòa Bình, Đồng Tháp đã khai mạc.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có các bài:
* Cục trưởng Trợ lý pháp lý nhận giải Phụ nữ Việt Nam 2010. Bài báo đưa tin: Lễ mít tinh trọng thể kỷ niệm 80 năm ngày thành lập hội LHPN Việt Nam và Lễ trao Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam 2010 diễn ra tối ngày 19/10, tại Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930-20/10/2010)
TS. Tạ Thị Minh Lý, Cục trưởng Cục trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp là một trong 10 cá nhân vinh dự được trao Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam 2010.
* Nhiều “chiêu” qua mặt thi hành án. Bài báo phản ánh: Giả ốm, “trốn” khỏi địa phương hoặc “bịa” ra một lý do nào đó trì hoãn thi hành án là các “chiêu” mà đương sự thường sử dụng nhằm “qua mặt” chấp hành viên.
Ông Nguyễn Văn M. là người phải thi hành án trong một bản án đã có hiệu lực của TAND TP. Hà Nội. Theo đó ông M phải trả cho bà N.T.T khoản tiền hơn 300 triệu đồng. Sau thời gian để ông M tự nguyện mà ông M vẫn không trả tiền, cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp trừ lương hàng tháng. Tuy nhiên, quyết định chưa được thực hiện thì ông M. “đột ngột” xuất trình giấy nhập viện với lý do bị bệnh gan. Vì thế ông M. được hoãn THA.
Một thời gian sau, cơ quan THA tiếp tục xác minh để THA với ông M. khi ông đã xuất viện thì thêm một lần nữa, ông M. lại “trình” hồ sơ liên quan đến một loại bệnh khác. Cẩn trọng, cơ quan THA đến tận nơi cấp giấy xác nhận bệnh tình của ông M. tìm hiểu thì được cơ sở y tế này khẳng định: “bệnh” của ông M là căn bệnh không nguy hiểm đến tính mạng như ông trình bày, hoàn toàn có thể điều trị nếu thực hiện chế độ ăn kiêng.
Biết không thoát, ông M. “tự nguyện” đến cơ quan THA và đến nay ông đã thực hiện xong ½ nghĩa vụ của mình theo án tuyên.
Ví dụ trên đây chỉ là một trong vô vàn các kiểu hoãn THADS mà đương sự sử dụng nhằm trốn tránh, kéo dài việc THA. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm án tồn đọng.
Ông Phạm Anh Dũng, chấp hành viên Cục THADS Hà Nội cho biết: nhiều vụ, chỉ hôm trước đương sự vẫn bình thường, hôm sau nhận thông báo THA đã “lăn đùng” ra...ốm. “Những trường hợp “ốm” bất thường chúng tôi phải làm rõ xem có đúng ốm không hay chỉ để trì hoãn việc THA”, ông Dũng cho biết và nói thêm “tuy nhiên, việc này cũng rất khó khăn vì không phải lúc nào chấp hành viên cũng “kề” bên họ để xem tình trạng bệnh tật của họ ra sao”.
Ngoài “ốm nặng”, chưa xác định được địa chỉ, theo Luật, nếu có “lý do chính đáng khác” thì cũng được hoãn THA. Tuy nhiên, những lý do đó là gì thì chưa cụ thể. “Đúng đến thời điểm phải THA thì đương sự được cơ quan cử đi nước ngoài học tập dài hạn, như vậy có được coi là lý do chính đáng không?” một chấp hành viên nêu tình huống.
Ngoài ra, việc hoãn THA còn được thực hiện khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu. Tuy nhiên, Luật quy định yêu cầu phải trước 24h khi cưỡng chế. Còn sau thời điểm này, Thủ trưởng cơ quan THADS có quyền “quyết” hoãn hay không.
Quy định là vậy song theo một Cục trưởng THADS “thường cứ có quyết định kháng nghị hay yêu cầu hoãn là hoãn, bất kể phạm vi đó trên hay dưới 24h”. Vị lãnh đạo này còn cho biết, nhiều vụ, sát giờ cưỡng chế họ mới nhận được yêu cầu hoãn hoặc văn bản kháng nghị, và đương nhiên trường hợp đó thực tế vẫn phải hoãn và nó làm “mất công, mất của” của nhà nước.
Kiên quyết với đương sự và xác minh chính xác điều kiện THA, đồng thời phối hợp tốt với chính quyền cơ sở là những biện pháp hữu hiệu để cơ quan THA xác định đúng bản chất của sự việc, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Lần đầu tiên, thừa phát lại cưỡng chế thi hành án. Bài báo phản ánh: Sáng 19-10, Văn phòng Thừa phát lại quận Tân Bình tổ chức cưỡng chế thi hành án theo yêu cầu của khách hàng. Buổi cưỡng chế có mặt đại diện VKS quận Tân Bình, chính quyền địa phương tham gia hỗ trợ. Đây là lần đầu tiên tổ chức này thực hiện việc cưỡng chế thi hành án kể từ khi tổ chức thừa phát lại được thành lập thí điểm tại TP.HCM.
Hiện TP.HCM có năm văn phòng thừa phát lại, hoạt động gần năm tháng qua nhưng người dân chưa biết nhiều về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức này. Hoạt động chủ yếu của thừa phát lại trong thời gian qua là lập vi bằng…
3. Báo điện tử Chính phủ có bài Bắc Giang: Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Bài báo đưa tin: Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang vừa yêu cầu các đơn vị kịp thời xử lý dứt điểm các vụ việc thi hành án dân sự phức tạp, khó thi hành, có khả năng ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Cùng với đó, các đơn vị cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là pháp luật về công tác thi hành án dân sự.
Một trong những yêu cầu với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện là phải kịp thời phát hiện, động viên tập thể, cá nhân làm tốt, đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm minh các cá nhân sai phạm và phải liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về các sai phạm (nếu có).
4. Báo cand.com có bài Nhập quốc tịch miễn phí cho 142 người Campuchia. Bài báo đưa tin: Ngày 18/10, ông Bùi Quang Phụng, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước cho biết, thừa lệnh của Chủ tịch nước, cơ quan này vừa nhập quốc tịch miễn phí cho 142 trường hợp là người Campuchia hiện đang cư trú tại Trại 979C, xã Minh Long (huyện Chơn Thành), đã có hơn 20 năm cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam.
Trước đó, UBND tỉnh đã ban hành quyết định giải quyết việc nhập quốc tịch cho những người không quốc tịch, không xác định được nhân thân, đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên (tính đến ngày 1/7/2009) và hiện đang cư trú ổn định trên địa bàn tỉnh Bình Phước
5. Báo CAND online có bài Vẫn còn những quy định gây khó đối với dân! Bài báo phản ánh: Tổ công tác cải cách hành chính của Chính phủ đã kiến nghị sửa đổi một loạt quy định, thủ tục, từ đó dự kiến có thể tiết kiệm mỗi năm tới 30.000 tỉ đồng và giảm nhiều phiền hà cho người dân và DN. Trái ngược với kiến nghị đó thì không ít cơ quan đã ban hành những văn bản gây khó khăn đối với người dân.
Cuối tháng 9 vừa qua, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) Bộ Tư pháp Lê Hồng Sơn đã ký công văn gửi đến 7 Bộ và 13 tỉnh, thành phố để đôn đốc thực hiện các thông báo mà Cục đã gửi trong khoảng hơn 1 năm qua về những văn bản có dấu hiệu trái pháp luật do các Bộ, tỉnh thành này ban hành. Nhiều Bộ, ngành, địa phương đã nhanh chóng "tự xử" sau khi nhận ra những sai sót trong văn bản ban hành. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn 7 Bộ (với 9 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật) gồm: Bộ Xây dựng, Tài chính, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương, Giáo dục và Đào tạo, LĐ-TB&XH và 13 tỉnh, thành phố vẫn chưa gửi thông báo xử lý về Cục.
Nhìn chung, các văn bản bị Cục Kiểm tra VBQPPL "thổi còi", hầu hết đều sai về nội dung hoặc hình thức, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Dù thế, nhiều cơ quan ban hành vẫn làm ngơ trước đề nghị của Cục Kiểm tra VBQPPL về việc cần xử lý những văn bản này. Một trong những văn bản phi lý ở địa phương, đó là Quyết định 07/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh Nghệ An ban hành kèm theo quy định về quản lý hoạt động lái xe ôtô chở khách từ 10 chỗ ngồi trở lên trên địa bàn tỉnh.
Theo văn bản này, tiêu chuẩn đối với người lái xe ôtô vận tải hành khách phải "có thâm niên lái xe (tính từ ngày được cấp giấy phép lái xe) từ ba năm trở lên". Ngoài ra, còn yêu cầu người lái xe ôtô vận tải hành khách phải "xét nghiệm HIV khi cấp đổi, cấp lại giấy phép lái xe vận tải hành khách…".
Không khó để hình dung sự sai lầm của một văn bản dưới luật gây ra thiệt hại to lớn, khôn lường cho xã hội và người dân, hoặc đem lại lợi ích riêng kếch sù cho một nhóm người biết cách "lobby" chính quyền. Đã đến lúc, cần có chế tài rõ ràng, cụ thể và mạnh tay hơn đối với vi phạm, thiếu trách nhiệm trong việc ban hành VBQPPL.
6. Báo Đầu tư có bài Thủ tục hành chính về đất đai gầy phiền hà nhất. Bài báo phản ánh: Theo kết quả khảo sát độc lập được Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) và báo điện tử VietnamNet công bố ngày 19/10, có 44,66% ý kiến cho rằng thủ tục hành chính liên quan đến giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gây phiền hà nhất.
Thủ tục liên quan đến đăng ký kết hôn, khai sinh và làm chứng minh thư là những thủ tục thuận lợi nhất. Có tới 67% số người cho rằng thủ tục hành chính cần quá nhiều giấy tờ và 73% khẳng định cần có mối quan hệ quen biết mới hoàn thành được thủ tục cần làm. 50% số người tham gia khảo sát nhận thấy công chức không thạo việc.
Kết quả phân tích số liệu khảo sát cho thấy, để tăng mức độ hài lòng của người dân khi làm việc với hệ thống hành chính công nói chung và thủ tục hành chính nói riêng, cần cải tiến nỗ lực trong ba lĩnh vực chủ chốt gồm: thực hiện trả kết quả đúng như lịch hẹn, nâng cao trình độ nghiệp vụ và thái độ phục vụ của công chức, cung cấp thông tin rõ ràng về thủ tục cần làm.
7. Báo Nông nghiệp Việt Nam có bài Có bàn tay can thiệp. Bài báo phản ánh: Vụ án sở dĩ kéo dài đến gần 7 năm với 6 bản kết luận điều tra (KLĐT) và KLĐT bổ sung, 2 bản cáo trạng nhưng vẫn chưa được đưa ra xét xử, bởi vì ngay từ đầu, dư luận đã phát hiện nhiều điều mờ ám của Công an huyện Hoài Đức và Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Hà Tây (cũ).
Điều mờ ám thứ nhất là sau vụ cãi cọ, xô sát xẩy ra tại khu vực nhà ông Quản Đắc Họp vào ngày 19/7/2003 do bố con ônh Đỗ Đăng Chuyên, Đỗ Đăng Cẩu cưỡng chiếm đất đai của gia đình ông Họp một cách trái phép, Công an xã Vân Côn có ý định tổ chức hòa giải giữa 2 gia đình, nên chưa báo cáo với Công an huyện Hoài Đức.
Mãi đến ngày 27/10/2003, sau nhiều lần hòa giải không thành, Công an xã Vân Côn mới có báo cáo gửi Công an huyện Hoài Đức. Ngày 17/11/2003, Công an huyện Hoài Đức khởi tố vụ án hình sự. Nhưng ngày 19/8/2003, Công an huyện Hoài Đức đã có quyết định trưng cầu Viện KHHS (Bộ Công an) giám định thương tích cho Đỗ Đăng Cẩu. Tức là việc trưng cầu giám định xẩy ra trước khi Công an huyện Hoài Đức biết vụ việc tới hơn 2 tháng. Vì sao lại có sự lạ lùng như vậy?
Điều mờ ám thứ hai là ngày 19/8/2003 Công an huyện Hoài Đức có quyết định trưng cầu Viện KHHS Bộ Công an giám định thương tích cho Đỗ Đăng Cẩu. Nếu quyết định đó được gửi bằng đường bưu điện thì phải ít nhất 2 ngày mới tới Viện KHHS và ông Viện trưởng hay người phụ trách được ủy quyền phải có thời gian xem xét, ra quyết định giao nhiệm vụ cho giám định viên, nghĩa là từ lúc công an ra quyết định trưng cầu cho đến khi giám định viên được phân công tiến hành giám định, phải mất ít nhất 3 ngày (những vụ án loại này không thuộc loại cấp bách như những vụ án phải có quyết định ngay).
Thế nhưng ngày 19/8/2003 Công an huyện Hoài Đức có quyết định trưng cầu giám định thì ngay ngày hôm sau, 20/8/2003, Đỗ Đăng Cẩu đã được giám định viên của Viện KHHS tiến hành giám định ngay và ngày 3/9/2003 Viện KHHS đã có bản kết luận giám định, trong đó kết luận Đỗ Đăng Cẩu bị thương tích 34,16%. Tại sao lại có sự “nhanh chóng” một cách kỳ lạ như vậy?
Còn ông Đỗ Đăng Chuyên, vụ việc xẩy ra từ ngày 19/7/2003 nhưng đến ngày 22/7/2003 mới đến Phòng khám ngoại Bệnh viện tỉnh Hà Tây khám và điều trị ngoại trú, 25/8/2003 mới vào nằm viện đến ngày 1/9/2003 thì ra viện, vậy mà thương tích được giám định cũng là 21% (?).
Điều mờ ám thứ ba là trong suốt quá trình điều tra, cơ quan CSĐT chỉ “tin tưởng tuyệt đối” vào những nhân chứng là ruột thịt của ông Đỗ Đăng Chuyên
Thứ tư là theo lời khai của ông Đỗ Đăng Chuyên, thì rẻo đất mà ông Quản Đắc Họp nhận thầu của thôn và cả 60 m2 đất thổ cư của ông Họp là đất mà ông Đỗ Đăng Chuyên đã được UBND xã “cho thuê”, địa chính xã đã xuống đo đất, cắm đất cho ông Chuyên. Nhưng UBND xã Vân Côn đã nhiều lần xác nhận bằng văn bản rằng cho đến ngày 19/7/2003 là ngày xẩy ra xô sát, UBND xã chưa hề cho Đỗ Đăng Chuyên thuê đất ấy, và cũng không hề có chuyện địa chính xã cắm đất ấy cho Chuyên.
8. Tạp chí Tia sáng có bài Chế độ sở hữu toàn dân và vấn đề sở hữu đất đai (Kỳ I). Bài báo phản ánh: Trong suốt thời gian qua, bất chấp mọi cố gắng của các nhà làm luật, các vấn đề cơ bản liên quan đến sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước vẫn chưa được giải quyết. Vấn đề sở hữu vốn thuộc một trong những phạm trù “cổ điển” của khoa học pháp lý và phạm trù “sơ đẳng” của một hệ thống pháp luật. Do đó, hầu như không có khó khăn gì để minh định nó. Nguyên nhân có thể có nhiều, nhưng theo chúng tôi, phần quan trọng nằm ở các “rào cản” mà các nhà làm luật chưa thể vượt qua cả về tâm lý chính trị và nhận thức chính trị.
Ở khía cạnh pháp lý, “sở hữu” luôn luôn là vấn đề nền tảng của cả pháp luật kinh tế lẫn pháp luật dân sự. Hơn một nửa thế kỷ qua, việc xây dựng pháp luật ở nước ta đều đã xoay quanh khái niệm này, và trên thực tế đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản và nổi bật. Đó là thông qua các Hiến pháp từ 1946, 1959, 1980 và 1992 và các đạo luật đơn lẻ khác, đặc biệt là Bộ luật Dân sự năm 1995 như một đỉnh cao, sau đó sửa đổi năm 2005, Nhà nước ta đã khẳng định và sáng tạo ra các chế định liên quan đến chế độ và hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của chủ sở hữu, các chế định kề cận v.v..
Tuy nhiên, có một thực tế là cho tới hiện nay, vẫn tồn tại hai cách tiếp cận với vấn đề sở hữu khác nhau, thậm chí chồng chéo và lẫn lộn. Đó là tiếp cận chính trị và tiếp cận pháp lý.
Nhấn mạnh cách “tiếp cận chính trị”, chúng ta luôn luôn tìm cách phân định và phân biệt giữa chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa (với nền tảng là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa (mà nòng cốt là sở hữu tư nhân). Trong khi đó, cách tiếp cận pháp lý đòi hỏi phải xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các chủ sở hữu và các đối tượng liên quan trong các giao dịch liên quan đến sở hữu theo “hình thức sở hữu”, vốn đa dạng, phong phú và đậm màu sắc thực tiễn hơn “chế độ sở hữu”.
Cụ thể, Hiến pháp 1992 quy định ba chế độ sở hữu là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Đồng thời, Hiến pháp cũng xác định các đối tượng quan trọng thuộc sở hữu toàn dân, trong đó bao gồm đất đai và “phần vốn và tài sản Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp …”. Đến năm 2003, trong hai đạo luật quan trọng được Quốc hội thông qua là Luật Đất đai và Luật Doanh nghiệp nhà nước lại có hai quy định khác nhau liên quan đến hai đối tượng thuộc sở hữu toàn dân. Trong khi Luật Đất đai vẫn khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân còn Nhà nước là “đại diện chủ sử hữu toàn dân”, thì Luật Doanh nghiệp nhà nước lại định nghĩa rằng “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ…”.
Trong suốt thời gian qua mặc dù mọi cố gắng của các nhà làm luật, các vấn đề cơ bản liên quan đến sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước vẫn chưa được giải quyết. Tại sao vậy? Và vấn đề nằm ở đâu?
Có thể khẳng định rằng lý do không tại năng lực chuyên môn của các nhà làm luật. Vấn đề sở hữu vốn thuộc một trong những phạm trù “cổ điển” của khoa học pháp lý và phạm trù “sơ đẳng” của một hệ thống pháp luật. Do đó, hầu như không có khó khăn gì để minh định nó. Nguyên nhân có thể có nhiều, nhưng theo chúng tôi, phần quan trọng nằm ở các “rào cản” mà các nhà làm luật chưa thể vượt qua cả về tâm lý chính trị và nhận thức chính trị.
Về tâm lý chính trị, phải chăng đó là sự e ngại và né tránh để đối diện và cắt nghĩa về lý luận sự thay đổi có tính bước ngoặt của các chế định có tính nguyên tắc của Hiến pháp 1980 (trong đó khẳng định vị trí độc tôn của sở hữu xã hội chủ nghĩa với hai chế độ sở hữu là “toàn dân” và “tập thể”) thông qua ban hành Hiến pháp 1992 (với sự khẳng định cùng tồn tại của sở hữu tư nhân và nền kinh tế đa thành phần)?
Về nhận thức chính trị, phải chăng vẫn tồn tại định kiến xưa cũ rằng chủ nghĩa xã hội và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được bảo đảm và xây dựng trên nền tảng của hoặc chế độ sở hữu toàn dân, hoặc hình thức sở hữu nhà nước ?
Ngoài ra, về mặt lý luận, dường như chúng ta vẫn để mặc nhiên tồn tại quan niệm mang tính giáo điều về phạm trù “sở hữu toàn dân” (cho đây là điều có tính tất yếu khách quan trong một xã hội xã hội chủ nghĩa), ở một cực này, và đơn giản hay tầm thường hoá nó bằng khái niệm “sở hữu nhà nước”, ở một cực khác, mà không có sự đào sâu để làm cho minh bạch.
Với cách đặt vấn đề như trên, trong bối cảnh Đảng, Nhà nước đang chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ XI với các chương trình nghị sự quan trọng được trông đợi như sửa đổi Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, lấy đó làm tiền đề để sửa đổi Hiến pháp 1992, chúng tôi xin kiến nghị và đề xuất như sau:
(a) Về phương diện chủ thể sở hữu:
Xem xét bỏ khái niệm và chế định “sở hữu toàn dân” vì không có cơ chế thực hiện đồng thời không có ý nghĩa thực chất, mà thay vào đó xác định các chủ thể mới thay cho “toàn dân” và “nhà nước”. Cụ thể, đưa vào hai khái niệm mới là sở hữu quốc gia và sở hữu của chính quyền (bao gồm sở hữu của chính quyền trung ương và sở hữu của chính quyền địa phương như tỉnh, huyện và xã), coi đó là hai hình thức quan trọng nhất của sở hữu công cộng. Theo chúng tôi, khái niệm “quốc gia” không chỉ rộng mà còn sâu sắc hơn khái niệm “toàn dân”. “Quốc gia” bao gồm cả lịch sử của nhiều thế hệ con người Việt Nam sống trên lãnh thổ này (tức quá khứ), hiện tại (toàn dân) và tương lai (bao hàm sự phát triển). Quốc gia là phạm trù khái quát nhưng có thực, tồn tại lâu dài, không phụ thuộc vào người dân với tư cách các cá thể thuộc phạm trù có tính biến động. Sở hữu quốc gia có ý nghĩa đặc biệt, là đối tượng bất di, bất dịch, không thể mua, bán, chuyển nhượng và được bảo hộ đặc biệt. Sở hữu của chính quyền, ngược lại, có tính linh hoạt. Chính quyền có thể mua, bán, chuyển đổi, chuyển nhượng các đối tượng thuộc sở hữu của mình trên cơ sở Bộ luật Dân sự.
(b) Về phương diện đối tượng sở hữu:
Hiến pháp 1992 hiện hành, tại Điều 17, có liệt kê các đối tượng thuộc sở hữu toàn dân, tuy nhiên vừa quá “mở” (rất tuỳ nghi), vừa không cụ thể và đặc biệt không có sự phân loại theo cấp độ quan trọng xét về mặt tài sản của một quốc gia hay nhà nước. Chẳng hạn, khi nói đến các “công trình kinh tế, văn hoá và khoa học…” thì quá mở và tuỳ nghi, hoặc khi liệt kê các đối tượng sở hữu thì lại đồng hạng giữa “đất đai, rừng núi, sông hồ …” với “phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp…” vốn rất khác nhau về tính chất cũng như ý nghĩa chính tị, kinh tế và xã hội. Cần lưu ý rằng tài sản thuộc sở hữu “quốc gia”, “nhà nước” hay “toàn dân” không chỉ mang đến nguồn lợi mà còn là gánh nặng về tài chính và các nghĩa vụ khác đối với nhân dân, trước hết với tư cách là người đóng thuế, do đó, vấn đề không chỉ là bảo vệ đối với các tài sản này mà còn là sự kiểm soát của nhân dân đối với sự gia tăng của nó (ví dụ sự đầu tư xây dựng công trình hay mua sắm của các cơ quan chính quyền cần phải bị kiểm soát trong các giới hạn theo luật định). Do đó, chúng tôi đề xuất cần có cơ chế pháp lý để phân định, phân loại, kiểm soát sự gia tăng và biến động cũng như đặt ra các giới hạn về loại cũng như quy mô giá trị đối với các tài sản thuộc loại hình sở hữu đặc biệt này.