I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Thông tấn xã Việt Nam phản ánh: Sáng 22/7, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát Nhân dân. Phạm vi sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Kiểm sát viên tập trung vào sửa đổi quy định về phân loại kiểm sát viên và việc điều động, biệt phái kiểm sát viên. Các vấn đề vướng mắc khác như nhiệm kỳ kiểm sát viên… sẽ đề cập đến khi sửa đổi cơ bản, toàn diện Luật tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân trong thời gian tới. Ủy ban Tư pháp cũng tán thành với quan điểm này của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và cho rằng việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh lần này cần được tiến hành đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án Nhân dân, đồng thời cần có bước đi thích hợp bảo đảm phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành và định hướng của yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW.
Viện Kiểm sat Nhân dân tối cao thống nhất chọn phương án 1, sửa đổi làm 4 loại kiểm sát viên là kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao; Kiểm sát viên cao cấp; Kiểm sát viên trung cấp; Kiểm sát viên sơ cấp. Theo đó, cơ cấu kiểm sát viên ở mỗi cấp kiểm sát được thể hiện ở Viện Kiểm sát cấp huyện chủ yếu là kiểm sát viên sơ cấp, trung cấp, có thể bố trí cả kiểm sát viên cao cấp giữ chức vụ Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân ở các địa bàn trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự xã hội. Ở Viện Kiểm sát cấp tỉnh chủ yếu là kiểm sát viên trung cấp, sơ cấp và một số kiểm sát viên cao cấp giữ chức vụ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát. Ở Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương chủ yếu là kiểm sát viên cao cấp, một số kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và có một số kiểm sát viên trung cấp, sơ cấp.
Về cơ cấu kiểm sát viên, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Thu Ba cho rằng việc bố trí kiểm sát viên cho mỗi cấp Viện Kiểm sát phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện Kiểm sát cấp đó. Vì vậy nếu sửa đổi theo hướng đề nghị của Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao là ở Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao bố trí cả 4 ngạch kiểm sát viên thì sẽ không phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân về thẩm quyền của Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao bổ nhiệm kiểm sát viên cao cấp, kiểm sát viên trung cấp, kiểm sát viên sơ cấp tại Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao.
Ủy ban Tư pháp cho rằng trong khi chưa sửa đổi cơ bản Luật tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, trước mắt nên bố trí kiểm sát viên ở mỗi cấp theo hướng: Ở Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao được giữ nguyên như quy định hiện hành. Kiểm sát viên Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao được bố trí tại các vụ chức năng, Ủy ban kiểm sát Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát Quân sự Trung ương...
2. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: Trong buổi thương lượng cuối cùng sáng ngày 22/7, Vedan đưa ra mức hỗ trợ 16 tỷ đồng, thấp hơn nhiều số thiệt hại thực tế 107 tỷ đồng của nông dân huyện Cần Giờ. Hội nông dân TP HCM quyết định sẽ nộp đơn kiện công ty này lên tòa án vào cuối tháng 7.
Trả lời về quyết định của Hội nông dân tỉnh Đồng Nai khi không khởi kiện mà thương lượng với Vedan, ông Trần Văn Làm, Ủy viên ban thường vụ Hội nông dân Việt Nam, phụ trách 19 tỉnh phía Nam cho rằng Hội nông dân Đồng Nai làm việc theo chỉ đạo của tỉnh. “Công việc của Hội nông dân Đồng Nai rất chậm chạp, Ủy ban cũng chưa kiểm tra đôn đốc, trách nhiệm đối với nông dân thuộc về chính quyền của UBND tỉnh Đồng Nai”, ông Làm phân tích. Trong khi đó, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu dự kiến ngày 25/7 sẽ đưa đơn ra tòa.
3. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: Mới đây, tại một cuộc hội thảo về phát triển đô thị bền vững, Bộ Xây dựng đã đưa ra một nhận định, ở Việt Nam hiện nay, mỗi tháng lại có một đô thị mới mọc lên. Nhận định này có thể hơi quá lời, song nó nói lên thực trạng đô thị hóa đang bùng phát gần như tự phát. Luật về quản lý hành chính hiện hành không hề có cấp khu mà chỉ có tỉnh/thành, quận/huyện, phường/thị trấn, thị xã. Vậy thì các khu đô thị thuộc cấp nào quản lý?
Theo lẽ thường, khu đô thị mới nào “tọa lạc” trên địa bàn địa phương nào thì do địa phương đó quản lý. Thế nên mới có chuyện trái khoáy, một đô thị mới được xây dựng bề thế, quy mô dân số lớn, trình độ dân trí cao lại thuộc quyền cai quản của chính quyền… xã hoặc phường. Cách quan hệ chức năng này đã nảy sinh rất nhiều vấn đề rắc rối, khó xử và rất mâu thuẫn. Đơn cử chủ tịch xã không thể quyết những vấn đề liên quan đến đất đai, xây dựng, quản lý một khu dân cư hiện đại bởi vì tiêu chí và quyền hạn của một xã nông thôn hoàn toàn không thể áp dụng với một phường hay một khu đô thị. Thế nên hiện nay, khi có sự cố “ngoài ý muốn” về an ninh trật tự, an toàn xã hội hoặc cháy nổ, cần sự chỉ đạo và quyết định về quy hoạch kiến trúc, tổ chức dân cư đô thị thì không biết tìm đến cơ quan quản lý nào.
Đã từng xảy ra mâu thuẫn gay gắt giữa dân cư khu đô thị và ban quản lý về việc truy thu tiền sử dụng đất dẫn đến bế tắc không lối thoát, đây chỉ là một trong nhiều dẫn chứng về sự bất hợp lý trong việc quản lý nhà nước trong các khu dân cư mới mọc này. Trước thực tế khó xử này, theo ý kiến của giới chuyên gia về quản lý đô thị, phải mau chóng thay đổi trong tư duy, quan niệm và luật pháp để tiến tới thay đổi hiện trạng này vì quá trình đô thị hóa theo chiều rộng vẫn tiếp tục loang ra với tốc độ chóng mặt. Muốn làm được điều này thì Hà Nội, TP.HCM phải được “đổi tên” là vùng đô thị hay “siêu” đô thị. Với cách tổ chức này, hàng loạt các khu đô thị mới đã và đang xây dựng ở ngoại vi trung tâm hai thành phố lớn Hà Nội, TP.HCM sẽ được gọi là thành phố hay thị trấn.
Không phải chờ đợi lâu, hiện tại những bất cập trong quản lý các khu đô thị mới đã dẫn đến những hệ lụy và hậu quả đáng tiếc. Một khu đô thị mới với hàng trăm hộ dân, hàng nghìn dân sinh sống, hàng ngày “đẻ” ra không biết bao vấn đề liên quan đến hành chính, an ninh trật tự, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, rồi chuyện điện, nước, môi trường, giáo dục, y tế… không thể coi là chuyện nội bộ. Đó là chưa kể đang tồn tại nhiều khu đô thị mới ở vùng giáp ranh, vừa chịu sự điều hành của ban quản lý khu, vừa chịu sự chia cắt quản lý của một hoặc hai phường của quận, nhiều khi của UBND cấp xã. Thực trạng mỗi tháng một đô thị mới chứng tỏ tốc độ đô thị hóa quá nhanh. Chắc chắn công tác quản lý bất cập hiện nay không thể “đuổi” theo kịp. Sự cần thiết phải có mô hình quản lý hợp lý không có nghĩa “khuyến khích” xu hướng này mà thực tế là thời thế thế thời phải thế, còn hơn là bó tay ngồi nhìn.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Người lao động có bài Người tiêu dùng vẫn "dài cổ" chờ Luật. Bài báo phản ánh: Dự thảo Luật Bảo vệ Người tiêu dùng (NTD) đã được Quốc hội xem xét lấy ý kiến các đại biểu Quốc hội và dự kiến sẽ được thông qua vào tháng 10-2010. Phóng viên Báo Người cao tuổi (PV) đã trao đổi với Kĩ sư Nguyễn Thị Quỳnh Chi, Chủ nhiệm CLB NTD Nữ Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam về một số vấn đề Luật chưa "can thiệp" hết...
PV: Bà nhận định như thế nào về việc các Đại biểu Quốc hội cho rằng, trong Dự thảo Luật Bảo vệ NTD vẫn còn thiếu và phải chỉnh sửa nhiều nội dung quan trọng như vai trò của Nhà nước, tổ chức và thậm chí cả trách nhiệm của NTD?
Bà Nguyễn Thị Quỳnh Chi: Dự thảo Luật Bảo vệ NTD đang được Quốc hội xem xét, lẽ ra trong quá trình soạn thảo cần hướng vào việc lấy ý kiến NTD nhiều hơn, ngoài các ý kiến của lãnh đạo các cơ quan chức năng. Nếu Ban soạn thảo chỉ chăm chăm lấy ý kiến của các nhà lãnh đạo, NTD sẽ không có tiếng nói của mình trong Luật, và như vậy, khi Luật ban hành sẽ phải mất một thời gian rất dài để NTD "hấp thụ" luật. Liệu có bao nhiêu % NTD Việt Nam, nhất là NTD bình thường ở cấp địa phương đã được tập hợp lấy ý kiến cho Dự thảo Luật? Đơn cử như trong Luật đã nêu được rất nhiều vấn đề khiếu nại, tuy nhiên việc khiếu nại đó thế nào, tới đâu? Trong Luật cũng chưa nêu trách nhiệm bảo vệ NTD là của toàn xã hội, vai trò của hệ thống các cơ quan nhà nước không được nêu rõ, trong khi đó, Pháp lệnh cũ lại thể hiện rất rõ trách nhiệm của UBND các cấp. Hoặc, với vấn đề Luật nêu liên quan đến thương nhân, vậy thương nhân là gì, có phải ai cũng hiểu hết về thương nhân? Thương nhân trong nước, hay cả nước ngoài… Rồi vấn đề trách nhiệm của NTD, Luật cũng không được nêu cụ thể. Trong Luật thiếu các quy định về trách nhiệm của các cấp như tổ dân phố, xã, phường, quận, huyện… đối với vấn đề bảo vệ NTD. Nên chăng, tại các điểm xã phường cần có các hòm thư lấy ý kiến NTD để mỗi khi có sản phẩm tốt, hoặc xấu, NTD có thể phản hồi ý kiến với các cơ quan chức năng. Điều dư luận thắc mắc là tại sao nói về vấn đề Luật bảo vệ NTD, chúng ta chỉ nghĩ một chiều, ngăn chặn các tiêu cực là chính, còn một mảng rất ý nghĩa là NTD khen các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp tốt, hoặc thỏa mãn thị hiếu của họ thì gần như không có…
PV: Đòi quyền lợi trước các sự cố về sản phẩm, phải có bằng chứng, rồi "kêu cứu" cơ quan chức năng… những điều đó NTD không phải ai cũng biết. Để tiện đường cho người dân khiếu nại, theo bà, chúng ta cần làm gì?
Bà Nguyễn Thị Quỳnh Chi: Luật Bảo vệ NTD có sự chi phối rất rộng, gần như mang tính dân sự, bất kì ai cũng có thể là NTD và có thể liên quan tới nó, kể từ lãnh đạo cao nhất trở xuống. Chính vì vậy, yêu cầu bảo vệ NTD là phải biết được quyền lợi, trách nhiệm của mình và điều kiện để thực hiện tốt trách nhiệm đó. Tức là cần phải giáo dục kiến thức về quyền lợi và trách nhiệm, thông tin đầy đủ về hàng Việt Nam đạt chất lượng. Với các sự cố về chất lượng sản phẩm hàng hóa, người tiêu dùng quay lưng lại với các sản phẩm, không cần phải có sự hô hào, đồng ý của các cơ quan chức năng. Việc minh chứng về sản phẩm có vấn đề, ngoài những vật chứng, còn đòi hỏi phải có hóa đơn mua hàng. Thực tế, có không ít trường hợp mua hàng không lấy được hóa đơn vì giá trị hàng quá thấp, hoặc NTD muốn có hóa đơn, phải nộp một phần tiền thuế.
PV: Với những hoạt động khuyến mại, quảng cáo không trung thực, lừa NTD mà không phải ai cũng chứng minh hết được, vậy việc bảo vệ NTD trước các khuyến mại, quảng cáo quá đà sẽ phải như thế nào, thưa bà?
Bà Nguyễn Thị Quỳnh Chi: Đúng là hoạt động quảng cáo và khuyến mại đang có vai trò rất quan trọng trong kích thích việc tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên thị trường. Cũng bắt đầu từ năm 2009, Bộ Chính trị phát động chương trình "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", không ít doanh nghiệp Việt đã bán được hàng nhưng bên cạnh đó có nhiều sản phẩm ngoại cũng bán rất chạy. Cụ thể với các sản phẩm sữa ngoại bán giá cao mà vẫn được ưa chuộng nhờ nhiều chiêu quảng cáo tô hồng như uống sữa làm trẻ thông minh hơn, cao lớn hơn, sữa có chứa ô-mê-ga, DHA… Một bộ phận NTD cho rằng, các sản phẩm ngoại được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, đất nước văn minh, vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được đề cao, nhập khẩu sang các nước lại chịu sự chi phối của nhiều hàng rào chất lượng nên sản phẩm đương nhiên là tốt. Tuy nhiên, theo ý kiến của các nhà chuyên môn, sữa ngoại chưa chắc đã tốt bằng sữa nội, thậm chí là chất lượng còn thấp hơn sữa nội. Hoặc một ví dụ khác cũng rất điển hình như có nhiều người, kể cả bác sĩ, tiếp thị sản phẩm dược phẩm, thực phẩm chức năng tới tận giường của bệnh nhân, mặc dù bị cấm nhưng với nhiều chiêu hấp dẫn nên NTD vẫn bị "qua mặt". Các hoạt động khuyến mại thời gian qua cũng diễn ra phức tạp với nhiều hình thức giảm giá, mua trả góp, mua và tặng quà kèm hàng… nhưng NTD rất khó nhận biết chất lượng thật của sản phẩm. NTD như lạc vào mê cung của các hoạt động khuyến mại. Khắc phục điều đó không có cách nào khác, người tiêu dùng phải thể hiện trách nhiệm của mình với sản phẩm mình mua sử dụng, không bị cám dỗ trước các hoạt động khuyến mại.
2. Báo Đất Việt có bài Vì sao không quản được game online?. Bài báo phản ánh: Đây là câu hỏi hoàn toàn không mới. Nhưng với thực trạng hàng loạt tệ nạn, vấn đề xã hội nhức nhối có liên quan đến game online đang hoành hành như hiện nay, câu hỏi một lần nữa cần đặt ra. Vì sao các cơ quan nhà nước không thể quản lý được game online nói chung và không thể cấm được các game bạo lực, cờ bạc nói riêng dù hành lang pháp lý đã có? Vì sao một vấn đề từng đặt lên bàn nghị sự các bộ, ngành và các kỳ họp Quốc hội vẫn chưa thể giải quyết, mà ngược lại ngày càng trầm trọng, mức độ tác động ngày càng nguy hiểm? Phải chăng đây là vấn đề không thể quản - cấm được?
Theo các chuyên gia CNTT cũng như chuyên gia pháp luật, việc quản lý hay cấm các trò chơi game online về phương diện kỹ thuật lẫn pháp lý đều được, thậm chí hết sức đơn giản. Nhiều nước trên thế giới đã thực hiện thành công: các nước ở châu Á đã áp dụng quy định hạn chế giờ chơi; ở châu Âu, dựa trên hệ thống phân loại độ tuổi người chơi, tính tự giác cũng như sự quản lý của phụ huynh. Còn ở nước Việt Nam, quy định hạn chế giờ chơi cũng đã ban hành, nhưng gần như không nơi nào thực thi.
Cách đây gần 5 năm, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành ban hành nghị định quản lý trò chơi trực tuyến. Và gần đây nhất, ngày 14/7, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã chỉ đạo các bộ, ngành phải thực hiện chặt chẽ và cụ thể hơn việc kiểm soát mặt tiêu cực của game online. Yêu cầu ngay trong tháng 9/2010, các bộ, ngành liên quan phải phải công bố được danh mục những trò chơi trực tuyến được phép kinh doanh và chơi ở Việt Nam… Cách đây vài ngày, UBND TP HCM đã có văn bản kiến nghị Thủ tướng cấm nhập game online mới, đồng thời kiến nghị không khuyến khích phát triển game online vì những tác hại và yếu tố gây nghiện của nó.
Rõ ràng những tác hại của game online đã được các cơ quan quản lý nhìn nhận một cách nghiêm túc. Ít nhất cũng đã nhìn thấy được những “di chứng” nặng nề của trò chơi này để lại cho một bộ phận không nhỏ giới trẻ. Thế nhưng, hiện thực về một khả năng quản lý hiệu quả hay cấm một số game online là… rất mong manh. Khi mà các nhà cung cấp, kinh doanh trò chơi này vẫn còn “hăng say” với khoản lợi nhuận khổng lồ trong khi ràng buộc pháp lý quá lỏng lẻo. Chưa nói đến việc một số cơ quan quản lý nhà nước còn đưa ra khoản đóng góp vào ngân sách của game online lên đến 20 triệu USD/năm như một chứng cứ để cân nhắc “cấm hay không cấm”. Bên cạnh yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội cũng phần nào “níu kéo” để game online còn “đất sống”. Sự bùng nổ của CNTT, cũng như xã hội hiện đại, việc tiếp xúc hệ thống thông tin trực tuyến là tất yếu. Và với nhiều trò chơi trực tuyến lành mạnh, nội dung phù hợp vẫn là sự lựa chọn của giới trẻ như một nhu cầu cuộc sống. Vì thế, không thể “đóng cửa” hoàn toàn với các trò chơi. Vì lý do “không thể” này mà các trò chơi bạo lực, “gây mê” vẫn tồn tại khi mà cơ quan quản lý nhà nước chưa thể đánh giá, phân loại được. Chưa nói đến việc không gian sống, các loại hình giải trí, thư giãn khác dành cho giới trẻ ngày càng bị thu hẹp, thậm chí nhiều nơi gần như không có. Nhiều người lớn đã từng băn khoăn, không cho giới trẻ chơi game thì chúng có thể ra đường, bị lôi kéo thì càng… nguy hiểm hơn cho xã hội.
Đây có thể là một vài gợi ý cho câu hỏi vì sao không quản - cấm game online. Chưa giải quyết được “cái gốc” của vấn đề thì dù địa phương có kiến nghị, Chính phủ có liên tục họp, chỉ đạo… cũng chưa thế hạn chế những tác hại của game online đang từng ngày xâm nhập vào mỗi gia đình.
3. Báo Kinh tế và Đô thị có bài Phát triển hệ thống bán lẻ: Dây cương pháp lý còn lỏng lẻo. Bài báo phản ánh: Sau hơn 3 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực phân phối. Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật Việt Nam về dịch vụ phân phối chưa hoàn thiện đã gây khó cho doanh nghiệp trong việc phát triển hệ thống phân phối bán lẻ, đó là nhận định của hầu hết các đại biểu tại hội thảo "Thực tiễn quản lý dịch vụ phân phối - Kinh nghiệm các nước và thực trạng của Việt Nam" do Vụ Thị trường trong nước - Bộ Công thương vừa tổ chức.
Tuy thị trường Việt Nam có quy mô nhỏ nhưng lại có tốc độ phát triển nhanh, tiềm năng lớn,nên có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến thời điểm này, nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài như Metro Cash & Carry, Big C... đã có mặt tại thị trường bán lẻ Việt Nam. Ông Trương Đình Tuyển-nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại cho rằng: Việc mở cửa thị trường bán lẻ cũng sẽ tạo áp lực lớn đến các nhà sản xuất, đặc biệt là các nhà phân phối trong nước, trong đó nguy cơ khu vực phân phối bán lẻ bị lấn át bởi các nhà đầu tư nước ngoài có thể lan rộng sang cả lĩnh vực bán buôn, gây ảnh hưởng đến sự đảm bảo ổn định vĩ mô của toàn bộ mạng lưới sản xuất và tiêu dùng. PGS.TS Bùi Xuân Nhàn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Thương mại cho rằng, việc các tập đoàn nước ngoài chưa tràn vào thị trường Việt Nam sau hơn một năm mở cửa thị trường bán lẻ vì đây là thời gian thăm dò, nghiên cứu thị trường. Tuy nhiên, thời gian tới, cùng với việc kinh tế thế giới phục hồi, xu hướng các nhà phân phối nước ngoài xâm nhập thị trường Việt Nam ngày càng mạnh mẽ hơn. Còn theo bà Đinh Thị Mỹ Loan, Tổng thư ký Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam: Công nghệ bán lẻ của chúng ta còn sơ khai, non kém. Ứng dụng CNTT, thương mại điện tử chưa phát triển. Giá thuê mặt bằng tại các thành phố lớn còn quá cao, nhiều vị trí đẹp đều do các nhà phân phối nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh thuê được…
Trong thời gian qua, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển hệ thống phân phối, Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh ngành dịch vụ phân phối. Tuy nhiên, theo nhận định của Vụ Thị trường trong nước - Bộ Công thương: Hiện hệ thống pháp luật về dịch vụ phân phối đang còn có những điểm chưa hoàn thiện như: chưa có quy định thống nhất về dịch vụ phân phối, chưa làm rõ các khái niệm bán buôn, bán lẻ, tiêu chí kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Đồng thời các văn bản hiện hành còn nhiều bất cập trong việc quản lý hàng hóa hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện; Công tác quy hoạch còn chung chung chưa có quy hoạch tổng thể. Ông Lương Hoàng Thái, Vụ phó Vụ Chính sách thương mại đa biên cho rằng: Hiện nhiều nước trên thế giới đã có luật quy định cụ thể về quy hoạch hệ thống phân phối nhưng hiện nay ở Việt Nam, cơ quan quản lý ngành và các tỉnh, thành phố mới chỉ xây dựng quy hoạch ngắn hạn dưới dạng đề án chứ không có văn bản quy định chung để phân cấp và định hướng quy hoạch. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề trong việc thực hiện cam kết cũng chưa được giải quyết, chẳng hạn việc nhà đầu tư mua cổ phần của doanh nghiệp phân phối Việt Nam thì có phải thực hiện lại các thủ tục xin cấp phép như doanh nghiệp thành lập mới hay không...
Ông Võ Văn Quyền, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thị trường trong nước, Bộ Công thương cho rằng: Việc mở cửa thị trường là cần thiết nhưng cầncó sự điều tiết của Nhà nước. Theo đó, Nhà nước cần giám sát, điều chỉnh, không để tình trạngcác nhà phân phối lớn triệt tiêu các nhà phân phối nhỏ để thống lĩnh thị trường, như vậy mới đảm bảo bình đẳng trong kinh doanh và bảo vệ quyền lợilâu dài của người tiêu dùng cũng như đảm bảo thực hiện các cam kết mở cửa của WTO. Vì vậy, Nhà nước cần phải xây dựng quy định riêng trong lĩnh vực phân phối, đặc biệt chú ý đến bán lẻ và quy hoạch bán lẻ để tạo khung pháp lý cần thiết, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và tạo cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển kinh doanh trong lĩnh vực này.
4. Báo điện tử Vietnamnet có bài Dân phải được quyền phúc quyết sửa Hiến pháp. Bài báo phản ánh: Một trong những vấn đề Chính phủ dự kiến sẽ trình Bộ Chính trị chỉ đạo, sửa đổi, đó là nhân dân phải được thực hiện quyền phúc quyết những sửa đổi của Hiến pháp, Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm với các thành viên Chính phủ và tập thể Chính phủ. Vấn đề này được Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng nêu trong cuộc họp hôm qua (22/7) góp ý cho báo cáo của Chính phủ sơ kết triển khai Nghị quyết số 48 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật VN đến 2010, định hướng 2020.
Thứ trưởng Đinh Trung Tụng cho hay, thời gian tới phải kiến nghị Bộ Chính trị có ý kiến chỉ đạo về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 liên quan đến xây dựng nhà nước và pháp luật. Theo dự thảo báo cáo Chính phủ, thực tiễn tổ chức Nghị quyết số 48 đã cho thấy nhiều định hướng, chủ trương giải pháp cải cách pháp luật, tư pháp, hành chính đúng đắn song không thể thực hiện được do giới hạn bởi các quy định của Hiến pháp 1992. Do đó, đề nghị Bộ Chính trị cho ý kiến chỉ đạo về việc sửa đổi, bổ sung những nội dung cơ bản liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Cụ thể là phát triển đầy đủ nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong Hiến pháp 1992 theo hướng "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp". Xác định rõ trong Hiến pháp nguyên lý cơ bản: Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ là cơ quan hành pháp, Tòa án là cơ quan tư pháp. Tất cả các cơ quan này đều thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân giao phó/ủy quyền trực tiếp qua Hiến pháp. Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan lập pháp của nhà nước, thực hiện các chức năng lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, trừ những việc do nhân dân trực tiếp biểu quyết. Trong đó, nhân dân phải được thực hiện quyền phúc quyết những sửa đổi của Hiến pháp. Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm với các thành viên Chính phủ và tập thể Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của nhà nước, thực hiện chức năng thống nhất quản lý phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm việc thực hiện Hiến pháp. Chính phủ có trách nhiệm thực hành quyền công tố, thống nhất quản lý công tác thi hành án, hành chính - tư pháp, bao gồm cả việc đảm bảo các nguồn lực và điều kiện cần thiết cho tổ chức, hoạt động của các tòa án nhằm thực hiện nguyên tắc độc lập của cơ quan xét xử. Bộ Tư pháp cũng kiến nghị làm rõ chức năng, nhiệm vụ các ngành tòa án, vai trò chính quyền địa phương. Bổ sung quy định về Tòa án Hiến pháp để đảm nhận chức năng phán quyết về các vi phạm Hiến pháp.
Các chuyên gia pháp chế đến từ nhiều bộ, ngành cũng tranh thủ "than" về những bất cập trong làm luật. Đại diện Vụ Pháp chế, Bộ Công thương tâm tư: "Luật có lợi cho quản lý nhà nước như thuế, hải quan, kiểm soát... thì làm nhanh, ra nhiều. Nhưng luật bảo vệ quyền lợi người dân, doanh nghiệp thì làm chậm, ít". Vị chuyên gia của Bộ Công thương cũng phản đối cơ chế xin - cho trong làm luật với lý do luật soạn ra để đáp ứng đòi hỏi xã hội nhưng ở ta cứ phải thông qua Bộ Chính trị. Thậm chí, nhiều dự án luật chào đời sau còn lạc hậu và kéo lùi sự phát triển. Ông Đặng Anh (Vụ Pháp chế, Bộ Công an) bổ sung: "Như nhiều vị đã nói, chúng ta ngồi phòng điều hòa máy lạnh để soạn luật nên luật không đi vào cuộc sống được". Như đánh giá của Chính phủ thì vẫn còn sự "mất cân đối" khi soạn luật: "Coi trọng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN là cần thiết nhưng không có nghĩa coi nhẹ các lĩnh vực khác như quản lý tài sản công, bảo vệ quyền tự do, dân chủ". Liên quan đến những tranh cãi sôi nổi trong kỳ họp Quốc hội mới đây về tình trạng "đưa vào, rút ra" quá nhiều dự án luật, Vụ trưởng Vụ Pháp luật (Văn phòng Chính phủ) Phạm Tuấn Khải nhận định "chủ yếu do nể nhau nên cứ đưa vào".
Theo định hướng của Chính phủ, trong 10 năm tới, cần tập trung xây dựng hệ thống pháp luật bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân. Dự thảo báo cáo nêu rõ, hoàn thiện pháp luật về quyền lập hội, biểu tình nhằm xác định rõ quyền, trách nhiệm công dân. Xây dựng hệ thống pháp luật về quyền giám sát của các cơ quan dân cử, quyền trực tiếp giám sát, kiểm tra của công dân, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia công việc nhà nước. Cũng theo Thứ trưởng Đinh Trung Tụng, cần hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước với các quyền, lợi ích công dân, chế độ trách nhiệm của nhà nước, nhất là tòa án. Xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền, lợi ích công dân, khắc phục tình trạng oan sai. Thời gian tới, Chính phủ cũng cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý bảo vệ quốc phòng, an ninh quốc gia. Chẳng hạn các văn bản pháp luật bảo vệ biên giới quốc gia, vùng biển, vùng trời.