I-THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử VOV News có bài Bộ trưởng ngoại giao ASEAN bắt đầu các hoạt động tại Hà Nội. Bài báo phản ánh: Trong suốt tuần này sẽ diễn ra gần 20 hội nghị, trong đó đáng chú ý là Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 43 sẽ khai mạc vào ngày 20/7 và Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) lần thứ 17 sẽ tiến hành trong ngày 23/7.
Sau cuộc họp của các Quan chức Cao cấp ASEAN (SOM) ngày 17- 18/7, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN sẽ bắt đầu các hoạt động đầu tiên tại Hà Nội. Trong ngày 19/7 sẽ diễn ra Hội nghị Uỷ ban Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân, Hội nghị Hội đồng Cộng đồng Chính trị- An ninh ASEAN lần thứ 4. Đây là những hội nghị rất quan trọng đối với an ninh khu vực. Bắt đầu từ ngày 19-23/7, tại Thủ đô Hà Nội, Phòng cảnh sát giao thông công an thành phố sẽ tiến hành phân luồng giao thông trên một số tuyến đường. Phòng cảnh sát giao thông công an thành phố Hà Nội khuyến cáo, các chủ phương tiện khi tham gia giao thông phải tự giác chấp hành Luật giao thông, thực hiện nghiêm theo thông báo phân luồng, chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông, nhường đường khi thấy có tín hiệu của đoàn xe ưu tiên, tránh vì những lỗi vô ý dẫn đến bị xử lý. Cũng trong ngày 19/7, Ủy ban Quốc gia về ASEAN và Đài TNVN sẽ tổ chức tổng kết, trao giải cuộc thi "Cộng đồng ASEAN đoàn kết và thịnh vượng". Sau 5 tháng triển khai, cuộc thi đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của thính giả trong và ngoài nước, với hàng chục nghìn Báo điện tử VOV News có bài tin nhắn, bài thi tham dự
2. Báo Nhân dân có bài Lễ trao đổi văn kiện phê chuẩn Việt Nam- Thái Lan. Bài báo phản ánh: Ngày 19/7, bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 43, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với Đại sứ quán Vương quốc Thái Lan tại Hà Nội tổ chức Lễ trao đổi Văn kiện phê chuẩn Hiệp định giữa nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan về chuyển giao người bị kết án phạt tù và hợp tác thi hành án hình sự, ký tại Bangkok ngày 3/3/2010.
Tại buổi lễ, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Vương quốc Thái Lan Kasit Piromya đã ký Biên bản trao đổi Văn kiện phê chuẩn Hiệp định. Theo đó, Hiệp định sẽ có hiệu lực kể từ ngày 19/7. Hiệp định được ký kết đã góp phần tăng cường hợp tác giữa các cơ quan tư pháp của hai nước; đồng thời, cũng đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ hợp tác giữa hai nước về phòng, chống tội phạm
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Xây dựng Khu tưởng niệm Bác Hồ tại Hải Dương. Bài báo phản ánh: Ngày 19-7, tại xã Nam Chính (huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương) đã diễn ra lễ khởi công Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khu tưởng niệm được xây trên diện tích 8.285 m2 với tổng kinh phí gần 12 tỉ đồng từ nguồn ngân sách tỉnh. Dự kiến công trình hoàn thành sau 360 ngày. Cách đây 45 năm, Bác Hồ đã về thăm quê hương Nam Chính. Chính quyền và người dân xã đã xây một ngôi nhà mái ngói tại thôn An Thường (nơi Bác Hồ dừng chân nói chuyện) để lưu giữ những kỷ vật và hình ảnh về Bác.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo CAND online có bài Ủy ban Tư pháp của Quốc hội giám sát xử lý hành vi tham nhũng. Bài báo phản ánh: Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã có kế hoạch làm việc với lãnh đạo các cơ quan tư pháp Trung ương để xem xét việc giải quyết một số vụ án phức tạp, vụ án được dư luận quan tâm.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Thu Ba, nhiều nội dung quan trọng thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và thẩm tra báo cáo giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề từ nay đến hết năm 2010 của Uỷ ban là khá nặng. Các nội dung này liên quan trực tiếp lĩnh vực chức năng thuộc Viện KSND tối cao, TAND tối cao, Bộ Công an, Thanh tra Chính phủ… Cụ thể, Ủy ban chủ trì, phối hợp Viện KSND Tối cao, TAND tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp thẩm tra dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8); Luật Phòng, chống buôn bán người (do Bộ Tư pháp, Bộ Công an soạn thảo). Thẩm tra dự án Pháp lệnh chi phí giám định, định giá, chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng. Chủ nhiệm Lê Thị Thu Ba cho rằng, Ủy ban sẽ chủ động tổ chức việc nghiên cứu, chuẩn bị ý kiến tham gia bằng văn bản về các dự án luật nhằm đảm bảo chiều sâu, tổ chức nghiên cứu và tham gia ý kiến về các dự án luật, pháp lệnh khác trình Quốc hội, cho ý kiến hoặc xem xét thông qua. Đáng chú ý, việc thẩm tra các báo cáo công tác của Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao và các báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của tòa án, kiểm sát sẽ được tăng cường. Thời gian tới, Chính phủ cũng sẽ có báo cáo về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng năm 2010, trình Quốc hội. Giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, TAND tối cao, VKSND tối cao. Đặc biệt, vấn đề cử tri rất quan tâm là nội dung giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, giải quyết đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của cá nhân, cơ quan, tổ chức…
Ủy ban có kế hoạch làm việc với lãnh đạo các cơ quan tư pháp Trung ương để xem xét việc giải quyết một số vụ án phức tạp, vụ án được dư luận quan tâm. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện báo cáo kết quả khảo sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động luật sư và giám định tư pháp
2. Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online có bài Trước hết, cần sự phân quyền thực chất. Bài báo phản ánh: TBKTSG số 28-2010 có đăng bài “Tập quyền hay phân quyền?” của TS. Nguyễn Quang A. Xin góp thêm tiếng nói vào vấn đề rất quan trọng đã được nêu lên.
Quốc hội có dự kiến sửa Hiến pháp trước khi kết thúc nhiệm kỳ. Rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi để có một bản Hiến pháp thấu lý, đạt tình, là cơ sở để xây dựng một đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, và để có một nhà nước “của dân, do dân và vì dân”. Song, vấn đề quan trọng, cấp bách hơn cả khi sửa Hiến pháp là cần xác lập cho được sự phân quyền thực chất, trong đó Quốc hội phải trở thành Quốc hội thực sự chuyên nghiệp. Ở các quốc gia trên thế giới, dù có thể được gọi với những cái tên khác nhau, nhưng bất kỳ quốc gia nào cũng có ba nhánh quyền lực độc lập để quản lý, điều hành đất nước, đó là: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội với chức năng lập pháp ban hành những bộ luật, đạo luật, pháp lệnh để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của xã hội được thực hiện theo những nguyên tắc chung, hợp lý và vì lợi ích của đất nước, của nhân dân. Đó cũng là căn cứ để xử lý những vi phạm của các cá nhân, tổ chức khi có những hành vi gây thiệt hại cho đất nước ở từng lĩnh vực như trốn thuế, lậu thuế; tham ô tài sản; buôn, bán hàng cấm... Chính phủ và các cơ quan của chính phủ từ trung ương đến các địa phương có trách nhiệm trực tiếp quản lý, điều hành mọi hoạt động của đất nước trên cơ sở những luật, pháp lệnh do quốc hội ban hành - đó là nhánh hành pháp. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan hành pháp không có quyền sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành thay thế các luật, pháp lệnh do quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất đã phê chuẩn. Các cơ quan tư pháp gồm tòa án nhân dân các cấp có trách nhiệm kiểm tra, xử lý những vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức khi hoạt động kinh doanh, thi hành công vụ... cũng trên cơ sở những luật, pháp lệnh do quốc hội thông qua.
Với chức năng, nhiệm vụ được nêu một cách khái quát như trên, có thể thấy sự độc lập giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp là điều kiện đặc biệt quan trọng để đảm bảo sự minh bạch, ngăn chặn sự lạm quyền và hình thành các nhóm lợi ích cục bộ trong quản lý, điều hành đất nước.
Mặc dù về tổ chức, ở nước ta có đầy đủ các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trên văn bản. Song, sự đan xen, kiêm nhiệm về con người đã hạn chế (ở những mức độ khác nhau) sự độc lập của những cơ quan này. Trước hết là ở thành phần của Quốc hội. Là cơ quan lập pháp - các đại biểu Quốc hội là những người do nhân dân bầu ra và phải đại diện cho lợi ích của toàn dân, của đất nước. Muốn thực hiện được sứ mệnh đó, các đại biểu Quốc hội phải độc lập hoàn toàn với các cơ quan hành pháp và tư pháp để không bị ràng buộc, vướng mắc bởi những lợi ích cục bộ.
Trong Quốc hội của nước ta, điều đó chưa đạt yêu cầu. Hơn 75% số đại biểu Quốc hội là cán bộ giữ những trọng trách của các cơ quan hành pháp và tư pháp. Mỗi năm họ chỉ là “đại biểu Quốc hội” ở hai kỳ họp. Phần lớn thời gian còn lại họ làm việc và hưởng lương ở cơ quan mình. Vì vậy, họ khó có thể trở thành người bảo vệ lợi ích chung nếu lợi ích chung của đất nước và lợi ích cục bộ của cá nhân/tổ chức họ đang làm việc hay quản lý có xung đột (điều lại thường xảy ra). Chính vì vậy, các cơ quan hành pháp can thiệp ngày càng sâu vào lĩnh vực lập pháp, lái các luật, pháp lệnh do Quốc hội ban hành theo hướng phục vụ cho lợi ích cục bộ là hiện tượng đã, đang và sẽ còn xảy ra. Chẳng hạn, để trình Quốc hội một đạo luật, cơ quan bộ có liên quan - cơ quan hành pháp - làm nhiệm vụ dự thảo, trình bày, bảo vệ trước Quốc hội (và không ít trường hợp là độc thoại). Và kết quả là, Quốc hội thông qua những đạo luật được gọi là “khung, ống”. Sau đó, Chính phủ và các cơ quan thuộc Chính phủ - cơ quan hành pháp - lại ra những văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đạo luật đó. Khi chưa có những văn bản “dưới luật” thì luật đã được ban hành vẫn bị “treo”. Hơn nữa, khi có vụ việc vi phạm pháp luật xảy ra, các cơ quan tư pháp phải căn cứ vào “luật khung” và những văn bản hướng dẫn của các cơ quan hành pháp để xét xử. Do đó, về bản chất, cơ sở pháp lý để xét xử lại cũng do cơ quan hành pháp quy định. Cũng chính vì sự lồng ghép về con người giữa cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nên chất lượng chất vấn tại nghị trường Quốc hội chưa đạt yêu cầu. Qua rất nhiều kỳ họp Quốc hội, có thể thấy, dám chất vấn một cách thẳng thắn trên nghị trường Quốc hội chỉ là những đại biểu không có chức sắc gì trong bộ máy hành pháp.
Để đảm bảo sự độc lập giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, việc đảm bảo sự độc lập cao hơn nữa của cơ quan lập pháp có vị trí quyết định. Vì vậy, rất cần những đại biểu quốc hội chuyên nghiệp; hạn chế đến mức thấp nhất sự tham gia của quan chức cơ quan hành pháp vào Quốc hội.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Luật hóa quyền nhân dân giám sát nhà nước. Bài báo phản ánh: Luật hóa một số quyền của dân còn chậm: Luật hội, luật tiếp cận thông tin...
Pháp luật về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân còn những “mảng trống”. Ở một số lĩnh vực, quyền công dân được thực hiện còn hình thức, chưa bảo đảm để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách hữu hiệu trong mối quan hệ với nhà nước... Những nhận xét trên được đưa ra tại Hội thảo sơ kết việc triển khai thực hiện Nghị quyết 48 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hồi cuối tuần qua.
Theo nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu, tư tưởng cốt lõi của nhà nước pháp quyền XHCN là tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân lập ra bộ máy nhà nước, tức là bầu ra các đại biểu của mình. Nhân dân ủy quyền cho bộ máy nhà nước thay mặt mình để điều hành đất nước. Quyền dân chủ trực tiếp của dân là ứng cử, bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp. Nhưng cách thức bầu cử như thế nào để thực sự người dân chọn và bầu ra người xứng đáng thay mặt mình vào các cơ quan nói trên thì vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện. Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đình Lộc nêu một thực tế tồn tại, có nhiều người dân đi bầu cử nhưng ngay sau đó không hề nhớ mình đã bầu cho ai. Mặt khác, khi đã ủy quyền xong thì người dân chỉ còn giữ vai trò là người quan sát vì chúng ta vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu để nhân dân giám sát quyền lực của nhà nước. Ông Yểu kiến nghị cần phải thể chế hóa, phải luật hóa cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực của chính mình đã giao cho các cơ quan nhà nước. “Quốc hội bầu ra người đứng đầu các cơ quan hành pháp và tư pháp, bầu ra chủ tịch nước, đó là thực hiện quyền của nhân dân chứ không phải quyền tự có của mình” - ông Yểu nhấn mạnh. Ở khía cạnh khác, ông Yểu cho rằng việc luật hóa một số quyền tự do dân chủ của người dân còn chậm. “Nói thật là tôi hơi thất vọng” - ông Yểu bày tỏ. Ông Yểu cho biết có nhiều luật đã dự định làm từ khóa XI, tới nay, một khóa Quốc hội nữa sắp trôi qua nhưng vẫn chưa thấy bóng dáng những luật đó đâu. “Luật hội tại sao không làm? Hay một quyền rất lớn khác đã được khẳng định từ Hiến pháp 1946 là trưng cầu dân ý, sau 64 năm đến giờ vẫn giẫm chân tại chỗ trong khi dự thảo chúng ta chuẩn bị đã hòm hòm rồi” - ông Yểu nói.
Trong khi đó, chuyên gia kinh tế cao cấp - TS Lê Đăng Doanh thì kiến nghị cần sớm ban hành Luật Tiếp cận thông tin. Luật này phải quy định rõ những thông tin phải công bố công khai cho người dân được biết; trách nhiệm của cơ quan cung cấp phải bảo đảm tính xác thực của thông tin đã công bố; quy định quyền của người dân được quyền tiếp cận thông tin và được quyền chất vấn.
Nhóm nghiên cứu của GS-TS Trần Ngọc Đường, chuyên gia cao cấp của Viện Nghiên cứu lập pháp (Ủy ban Thường vụ Quốc hội), kiến nghị người dân có quyền con người, quyền công dân hay không, có nhiều hay ít, có thực chất hay hình thức, chủ yếu dựa vào việc giải quyết quan hệ này về phương diện pháp lý. Vì thế, nhu cầu đầu tiên của hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân là phải tiếp tục cụ thể hóa các quyền hiến định. Đồng thời, phải hoàn thiện các luật hiện có theo hướng đề cao trách nhiệm của cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền trong việc bảo đảm cho công dân dễ dàng, thuận lợi, tin tưởng các quyền của mình trong mối quan hệ với nhà nước.
4. Báo cand.com có bài Tính pháp lý của những bản kết luận giám định pháp y đóng dấu… BV Việt Đức. Bài báo phản ánh: Gần đây các cơ quan tiến hành tố tụng ở Hà Nội lo ngại trước thông tin về những trường hợp giám định pháp y (GĐPY) ở Bệnh viện Việt - Đức (Khoa Giải phẫu bệnh lý) - được thực hiện bởi những bác sĩ không phải là giám định viên tư pháp có thẩm quyền? Đặc biệt, sau khi bản kết luận GĐPY về nguyên nhân cái chết của một trưởng văn phòng công chứng xảy ra cuối tháng 4 vừa qua đánh dấu Bệnh viện Việt - Đức được gửi tới Cơ quan điều tra thì Viện Pháp y quốc gia đã buộc phải lên tiếng cảnh báo về tính pháp lý của bản kết luận giám định pháp y này khi nó được thực hiện bởi những "giám định viên" không đủ tư cách pháp nhân... Tại sao lại có tình trạng một số bác sĩ ở khoa Giải phẫu Bệnh viện Việt - Đức và Bộ môn Y pháp, Đại học Y Hà Nội từng được bổ nhiệm là giám định viên pháp y đến nay lại không đủ tư cách pháp nhân để hành nghề giám định theo quy định của pháp luật nữa?
Để hiểu rõ vấn đề này chúng tôi xin ngược dòng thời gian lại một chút: Năm 2001, Viện Y học Tư pháp Trung ương Bộ Y tế được thành lập đáp ứng yêu cầu GĐPY theo Nghị định 117/HĐBT. Năm 2002, Bộ trưởng Bộ Y tế Đỗ Nguyên Phương đã ký Quyết định số 1119 bổ nhiệm 52 giám định viên y pháp Trung ương trong đó có một số bác sĩ công tác ở khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện Việt - Đức và Bộ môn Y pháp - Đại học Y Hà Nội. Sau đó thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác cải cách tư pháp Quốc hội đã thông qua pháp lệnh giám định tư pháp năm 2004 và có hiệu lực thi hành từ 1/1/2005. Đến năm 2006, theo Quyết định số 451/QĐ - Thủ tướng thì Viện Y học tư pháp TW - Bộ Y tế không còn hoạt động nữa mà thay vào đó là việc thành lập Viện Pháp y Quốc gia. Căn cứ pháp lệnh giám định tư pháp và Nghị định 67/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều trong pháp lệnh thì các Bộ chủ quản sẽ phải lập danh sách bổ nhiệm lại giám định viên thuộc lĩnh vực do Bộ mình quản lý. Như vậy Bộ Y tế sẽ bổ nhiệm lại giám định viên tư pháp pháp y và pháp y tâm thần rồi lập hồ sơ đề nghị Bộ Tư pháp cấp thẻ giám định viên tư pháp. Chỉ khi được bổ nhiệm giám định viên tư pháp thì giám định viên mới đủ tư cách pháp nhân tiến hành giám định pháp y và ký vào bản kết luận giám định. Theo chức năng của mình là Viện Pháp y Quốc gia lãnh đạo Viện đã rà soát, đề nghị Bộ bổ nhiệm lại 16 giám định viên tư pháp (Ngày 24/5/2007 tại Quyết định số 1859/QĐ-BYT Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký quyết định bổ nhiệm các giám định viên do Viện Pháp y Quốc gia đề nghị. Đây là các giám định viên ở cấp Trung ương). Trong danh sách được bổ nhiệm lại không có tên một số bác sĩ ở khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện Việt - Đức và Bộ môn Y pháp - Đại học Y Hà Nội (chúng tôi không tiện nêu tên ở đây). Việc các bác sĩ không được bổ nhiệm lại này vẫn hành nghề GĐPY rồi đóng dấu... Bệnh viện Việt - Đức là sai pháp luật tố tụng. Bệnh viện Việt - Đức ký, đóng dấu vào kết luận GĐPY cũng là vi phạm bởi Bệnh viện Việt - Đức là bệnh viện ngoại khoa đầu ngành của Bộ Y tế chứ không phải cơ quan giám định?
Theo pháp lệnh, ở cấp Trung ương Bộ Y tế chỉ có Viện Pháp y Quốc gia là cơ quan giám định tư pháp duy nhất. Như vậy, bản kết luận GĐPY do một số bác sĩ ở Khoa Giải phẫu, Bệnh viện Việt - Đức và Bộ môn Pháp y - Đại học Y Hà Nội không được bổ nhiệm lại là giám định viên tư pháp theo pháp lệnh mà lại ký - đóng dấu Bệnh viện Việt - Đức rõ ràng không thể bảo đảm tính pháp lý. Điều này các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi pháp luật phải là những người hiểu rõ hơn ai hết (!). Nhân đây chúng tôi cũng xin nói thêm là ở một số bệnh viện lớn có khoa Giải phẫu bệnh hiện đại - bác sĩ đủ trình độ kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân nhưng họ kiên quyết từ chối giám định khi Cơ quan điều tra trưng cầu bởi một lý do đơn giản: Họ không phải là giám định viên pháp y!
Có bác sĩ trưởng khoa giải phẫu công tác tại một bệnh viện lớn phía bắc thủ đô (trước từng là giám định viên pháp y) - tham gia giải phẫu - giám định kết luận nguyên nhân chết của một số vụ tai nạn giao thông. Thế nhưng sau đó bản kết luận GĐPY do ông ký không được Viện Kiểm sát địa phương công nhận bởi ông không còn là giám định viên khi chuyển sang lĩnh vực chuyên môn khác trong ngành y. Báo hại cho ông và cơ quan điều tra trót trưng cầu giám định... sai. Cuối cùng, người ta đành phải... chữa cháy bằng cách mang toàn bộ hồ sơ đến cơ quan giám định chẩn đoán và kết luận hồi cứu. Cũng may đấy chỉ là những vụ tai nạn giao thông bình thường chứ nếu là vụ trọng án hình sự thì thực sự sẽ rắc rối.
Trong lần trao đổi với phóng viên Báo An ninh Thủ đô mới đây xung quanh câu chuyện này, bác sĩ Phạm Kim Bình - Trưởng khoa Giải phẫu Bệnh viện Việt - Đức và bác sĩ Lưu Sỹ Hùng - Trưởng bộ môn Y pháp - Đại học Y Hà Nội tỏ sự bức xúc vì thông tin "Họ không đủ tư cách tiến hành GĐPY"? Thiết nghĩ đây không còn là chuyện riêng của ngành y nữa mà nó thuộc phạm vi giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền - trước hết là Bộ Y tế và Viện Pháp y Quốc gia phải có văn bản xác định rõ ràng tư cách hành nghề của một số giám định viên đã từng được bổ nhiệm theo Quyết định 1119/QĐ BYT trước đây. Theo chúng tôi giải quyết việc này hoàn toàn đơn giản bởi căn cứ pháp lệnh giám định tư pháp có hiệu lực từ 1/1/2005 và Nghị định 67/2005 của Chính phủ thì tất cả cơ quan giám định tư pháp và giám định viên được thành lập - bổ nhiệm theo Nghị định 117/HĐBT trước đây sẽ hết thời hiệu hoạt động khi cơ quan giám định tư pháp mới được thành lập theo pháp lệnh.
Nghị định 67/2005 của Chính phủ chương V - Điều khoản thi hành nêu rõ: "Trong thời hạn 2 tháng kể từ ngày nghị định này có hiệu lực thi hành thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch UBND tỉnh có trách nhiệm rà soát lại đội ngũ giám định viên tư pháp thuộc lĩnh vực mình quản lý đề nghị Bộ Tư pháp cấp thẻ giám định viên cho những người có đủ điều kiện bổ nhiệm giám định viên theo quy định"... Như vậy rõ ràng chỉ những bác sĩ nào được bổ nhiệm theo pháp lệnh giám định tư pháp và được Bộ Tư pháp cấp thẻ mới đủ tư cách pháp nhân thực hiện GĐPY. Quyết định số 1859/QĐBYT ngày 24/5/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế bổ nhiệm lại 16 giám định viên tư pháp cấp Trung ương là một văn bản pháp lý thay thế cho Quyết định số 1119/QĐ BYT năm 2002. Tuy nhiên, theo chúng tôi, cũng cần có văn bản miễn nhiệm chính thức số giám định viên không được bổ nhiệm lại để "danh chính ngôn thuận", tránh tình trạng có bác sĩ vẫn lầm tưởng mình là... giám định viên".
Viện Pháp y Quốc gia đã nhiều lần báo cáo Bộ Y tế, Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp và cơ quan điều tra biết về thực trạng có một số bác sĩ không phải là giám định viên tư pháp vẫn tiếp tục hành nghề sai quy định. Thậm chí có cơ quan tố tụng do không nắm được hệ thống GĐPY hiện nay nên đã quyết định trưng cầu... sai địa chỉ.
Pháp y là một ngành nghề độc hại, chẳng bác sĩ nào tốt nghiệp Đại học Y muốn dấn thân vào làm gì cho... khổ. Công tác tuyển dụng bác sĩ pháp y phải nói là hết sức khó khăn, đào tạo được một giám định viên tư pháp pháp y ít nhất cũng phải sau... 5 năm. Và, để họ yên tâm làm việc lâu dài, gắn bó với nghề không đơn giản chút nào (2 bác sĩ pháp y của một đơn vị công an đã tình nguyện bỏ ngành xin ra ngoài làm y tế tư nhân). Hiện nay chúng ta còn thiếu khá nhiều bác sĩ, giám định viên pháp y, đặc biệt là những bác sĩ có trình độ, giàu kinh nghiệm thực tế... như bác sĩ Phạm Kim Bình, Trưởng khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Việt - Đức và bác sĩ Lưu Sỹ Hùng, Trưởng bộ môn Y pháp - Đại học Y Hà Nội. Viện Pháp y Quốc gia và Bộ Y tế nên xem xét tình hình thực tế để có quyết định bổ nhiệm lại chức danh giám định viên tư pháp pháp y cho hai vị chuyên gia này. Thêm một giám định viên tư pháp là thêm sức mạnh cho hệ thống giám định tư pháp ở nước ta. Nếu đó lại là giám định viên pháp y thì càng quý
5. Báo Tuổi trẻ online có bài: Thù lao luật sư: làm ít đòi nhiều. Bài báo phản ánh: Pháp luật có quy định mức trần về việc tính thù lao luật sư trong tố tụng hình sự nhưng lại bỏ ngỏ trong các vụ án dân sự, thương mại, hôn nhân gia đình... Việc này đã bị một số luật sư lạm dụng khi đưa ra mức thù lao quá cao so với công sức bỏ ra.
Ông Huỳnh Thanh Liêm, ngụ đường Tân Hòa Đông, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, TP.HCM, vừa gửi đơn “kêu cứu” đến nhiều cơ quan chức năng về việc tranh chấp thù lao với luật sư. Ông Liêm kết hôn với bà Dương Ánh Tuyết và có hai con chung. Đến năm 2002, bà Tuyết qua đời không để lại di chúc. Di sản của bà Tuyết gồm một căn nhà riêng của bà trên tỉnh lộ 10, quận Bình Tân và 1/2 căn nhà trên đường Tân Hòa Đông sở hữu chung với ông Liêm. Trước khi kết hôn với ông Liêm, bà Tuyết đã có một người con riêng sinh năm 1991. Vì không thỏa thuận được về việc phân chia di sản thừa kế của bà Tuyết, tháng 4-2009, người con riêng của bà Tuyết đã đưa vụ việc đến TAND quận Bình Tân. Khi bị kiện, ông Liêm đã tìm đến văn phòng luật sư (VPLS) HĐ có trụ sở ở quận 5, TP.HCM để nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình. Sau khi xem xét hồ sơ của ông Liêm, luật sư S.V.Đ. đại diện cho VPLS HĐ ký với ông Liêm một hợp đồng dịch vụ pháp lý. Theo đó, VPLS HĐ có trách nhiệm cử luật sư để đại diện, bảo vệ quyền lợi cho ông Liêm cùng hai con tham gia tố tụng tại tòa án (TAND quận Bình Tân và TAND TP.HCM). Đổi lại, ông Liêm và hai con phải trả cho VPLS khoản thù lao tương đương 20% tổng trị giá tài sản tranh chấp đạt được. Ông Liêm đã ứng trước cho luật sư 15 triệu đồng và VPLS HĐ cũng cam kết nếu làm không đạt kết quả tốt thì sẽ không có thù lao và phải trả lại số tiền tạm ứng. Tuy nhiên, vụ kiện chỉ mới qua thủ tục hòa giải (khoảng ba tháng sau) hai bên tranh chấp đã thỏa thuận được với nhau. Theo thỏa thuận, khoản tài sản thừa kế sẽ được phân chia theo đúng Luật dân sự: căn nhà thuộc sở hữu riêng của bà Tuyết và phần sở hữu của bà trong khối tài sản chung với ông Liêm sẽ được chia bốn phần bằng nhau cho những người gồm: con riêng của bà Tuyết, ông Liêm và hai người con chung của bà Tuyết - ông Liêm. TAND quận Bình Tân đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trên đây. Tính cụ thể thì người con riêng của bà Tuyết và hai con của ông Liêm được nhận mỗi người 500 triệu đồng, ông Liêm được nhận 1,5 tỉ đồng. Sau khi có quyết định của tòa án, VPLS HĐ đã yêu cầu ông Liêm phải thanh toán thù lao luật sư là 500 triệu đồng. Thấy việc hòa giải thành công mà chưa phải diễn ra tranh tụng kéo dài tại các phiên tòa, gia đình ông Liêm đề nghị thương lượng mức thù lao cho luật sư là 100 triệu đồng. Tuy nhiên, VPLS HĐ không đồng ý. Cho rằng đã bỏ “công sức” rất nhiều trong việc có được kết quả hòa giải trên, luật sư Đ. đã làm một văn bản thanh lý hợp đồng với số tiền thù lao là 250 triệu đồng (tức đã giảm một nửa so với mức thù lao ban đầu). Do không đồng ý với mức thù lao 250 triệu đồng, ông Liêm chưa thanh toán thù lao cho luật sư thì bị VPLS cho người đến tận nhà để đòi nợ. Theo ông Liêm, những người đòi nợ rất hung dữ và đe dọa sẽ “thanh toán” gia đình ông nếu không chịu trả tiền cho luật sư.
Trao đổi với chúng tôi, luật sư S.V.Đ. (thuộc Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận) xác nhận có ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với gia đình ông Liêm. Giải thích về khoản thù lao quá lớn trên, luật sư Đ. cho rằng đó là mức gia đình ông Liêm đã đồng ý thỏa thuận. Ông Đ. cũng cho rằng vụ tranh chấp rất phức tạp, VPLS đã có nhiều công sức thì mới có được kết quả giải quyết như trên. Ông Đ. nói: “Lúc đầu phía nguyên đơn đòi nguyên cả căn nhà trị giá 1 tỉ đồng, đôi co mãi thì mới có được con số 500 triệu đó chứ không phải dễ”.Khi chúng tôi đặt vấn đề vụ việc tranh chấp đơn giản, chỉ cần căn cứ theo đúng Luật dân sự là có thể biết ngay khoản tài sản mà các đồng thừa kế được hưởng là bao nhiêu, vì sao mức thù lao luật sư lại quá cao thì ông Đ. trả lời: “Thỏa thuận lấy thù lao luật sư bao nhiêu là pháp luật cho phép, đương sự cũng tự nguyện đồng ý thì chẳng có vấn đề gì”. Ông Đ. cũng nói có cho người đến đòi nợ ông Liêm nhưng đó là người nhà của ông chứ không phải “xã hội đen”. Luật sư Đ. còn cho biết thêm lúc đầu ông cũng đã tự nguyện “bớt” 50% phí luật sư, tức chỉ còn lấy 250 triệu đồng nhưng hiện nay do phía ông Liêm cố tình không chịu trả, lánh mặt nên ông đã gửi văn bản đòi đủ 500 triệu đồng. Nếu không chịu trả nữa thì ông sẽ tính đến chuyện kiện ra tòa.
Một luật sư mới vào nghề cho chúng tôi biết: hiện nay mức thù lao luật sư không chỉ căn cứ vào độ khó, thời gian, công việc luật sư làm trong vụ kiện mà còn dựa vào “thương hiệu” của luật sư. Thường với các vụ kiện đơn giản, những luật sư chưa có thương hiệu chỉ đưa mức giá 5-10 triệu đồng/vụ, nhưng cũng với vụ việc đó thì các luật sư nổi tiếng có thể “hét” tới vài chục triệu đồng.
Luật sư Trương Xuân Tám, ủy viên Hội đồng Luật sư toàn quốc, nói thù lao luật sư trong các loại việc tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại sẽ được tính toán dựa trên tính chất phức tạp của vụ kiện, khối lượng công việc, khoảng thời gian làm việc của luật sư và còn cả vấn đề uy tín, tên tuổi của luật sư nữa. Theo luật sư Tám, rất khó để khống chế mức trần thù lao của luật sư, tuy nhiên vẫn có thể nhận diện việc luật sư lợi dụng sự thiếu hiểu biết của khách hàng để đưa ra mức thù lao quá cao. Nếu có căn cứ cho rằng luật sư đã cố tình lợi dụng sự hiểu biết của mình để “bắt chẹt” khách hàng lấy thù lao cao một cách phi lý thì đoàn luật sư vẫn có thể căn cứ tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp luật sư để xử lý.
Luật sư Đinh Văn Thảo - phó chủ tịch hội đồng thi đua khen thưởng và kỷ luật, Đoàn luật sư TP.HCM - cho rằng khách hàng cũng cần tỉnh táo để tự bảo vệ mình. Nếu thấy mức thù lao luật sư đưa ra quá cao thì khách hàng có thể tìm đến luật sư khác vì hiện nay có hàng ngàn luật sư cùng hành nghề.