Điểm tin báo chí sáng ngày 02 tháng 6 năm 2010

02/06/2010
Trong buổi sáng ngày 02/6/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 1-6, tin từ Tòa án Nhân dân tối cao cho biết, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự (Tòa án Nhân dân tối cao) vừa mở phiên xét xử theo trình tự giám đốc thẩm vụ án Nông trường Sông Hậu. Hội đồng giám đốc thẩm đã chấp nhận các điểm trong kháng nghị của Viện KSND tối cao, tuyên hủy án để điều tra lại từ đầu theo quy định pháp luật.
Trước đó, ngày 6-4, Viện KSND tối cao có kháng nghị đối với 2 bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm của vụ án này. Kháng nghị của cơ quan công tố cho rằng 2 bản án trên đã mắc nhiều sai lầm, cả về nội dung cũng như thủ tục tố tụng nên đề nghị Tòa án Nhân nhân tối cao xét xử giám đốc thẩm vụ án theo hướng hủy các bản án hình sự trên để điều tra lại từ đầu. Tại 2 phiên tòa trước bà Trần Ngọc Sương, nguyên Giám đốc Nông trường Sông Hậu đã bị tuyên phạt 8 năm tù giam về tội lập quỹ trái phép, buộc phải bồi thường cho Nông trường Sông Hậu hơn 4,3 tỷ đồng. 4 thuộc cấp của bà Sương cũng bị phạt từ 18 tháng đến 6 năm tù.
Báo cũng phản ánh: Chiều 1-6, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức lễ công bố báo cáo môi trường quốc gia 2009 với chuyên đề “Môi trường khu công nghiệp (KCN) Việt Nam”.
Theo báo cáo, bên cạnh những hiệu quả tích cực về kinh tế-xã hội, hoạt động của các KCN cũng đã gây ra nhiều bức xúc về môi trường cần quan tâm giải quyết. Khoảng 70% trong số hơn 1 triệu m³ nước thải/ngày đêm từ các KCN được xả thẳng ra các nguồn tiếp nhận không qua xử lý. 57% trên tổng số các KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Môi trường không khí tại các KCN, đặc biệt là các KCN cũ, đang ở mức ô nhiễm do các nhà máy sử dụng công nghệ cũ, không có hệ thống xử lý khí thải. Cá biệt, cuối tháng 10-2009, đã có trường hợp khí thải công nghiệp từ cụm công nghiệp Quán Toan (Hải Phòng) ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân trong khu vực, làm 72 học sinh và 1 giáo viên của Trường THCS Quán Toan bên cạnh đó phải đi cấp cứu.
Tại buổi công bố báo cáo, xuất phát từ thực trạng về môi trường KCN, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên khuyến nghị, Chính phủ và chính quyền các địa phương cần cân nhắc kỹ khi phê duyệt quy hoạch phát triển các KCN và có những điều chỉnh phù hợp đối với những quy hoạch đã phê duyệt. Hiện tại, cả nước có 223 KCN với tổng diện tích tự nhiên gần 57.300ha, phân bố tại 56/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong đó có 171 KCN đã đi vào hoạt động, 52 KCN đang trong quá trình xây dựng hạ tầng kỹ thuật. Tính chung cả nước, tỷ lệ lấp đầy các KCN mới đạt 46% với 17.107ha đất đã cho thuê.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: UBND TP.HCM vừa ký văn bản chính thức yêu cầu Công ty Vedan phải bồi thường 45,7 tỉ đồng cho 839 hộ dân làm nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản ở xã Cần Thạnh (huyện Cần Giờ). Văn bản này sẽ được gửi đến Công ty Vedan và Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Trước đó, Viện Môi trường và Tài nguyên (Đại học Quốc gia TP.HCM) đã hoàn thành bản báo cáo chi tiết về diện tích ô nhiễm và số tiền mà Công ty Vedan phải chi trả cho các hộ dân bị ảnh hưởng ở TP.HCM tương đương số tiền trên. Trong các buổi làm việc với Hội Nông dân Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, TP.HCM trước đó, ông Yang Kun Hsiang, Tổng Giám đốc Công ty Vedan, hứa khi nào có số liệu đánh giá thiệt hại từ các cơ quan chuyên môn, Vedan sẽ khắc phục cho nông dân.
3. Báo Thanh niên phản ánh: Theo báo cáo của Bộ Công thương tại cuộc họp báo ngày 1.6, tình hình nắng nóng diễn ra gay gắt kể từ tháng 4.2010, khiến các hồ thủy điện đang áp sát mực nước chết - gần với mực nước không thể vận hành phát điện. Bộ Công thương, dự báo từ nay đến trung tuần tháng 6, do mưa lũ chưa về trên các hồ thủy điện miền Bắc, trong khi mực nước các hồ miền Trung, miền Nam vẫn đang ở mức rất thấp, nên khả năng cung ứng điện sẽ tiếp tục diễn biến căng thẳng.
Theo ông Đặng Hoàng An, Phó tổng giám đốc EVN, trong tháng 6.2010, sản lượng điện khả dụng bình quân 1 ngày của EVN cũng chỉ có thể ở mức 275 triệu kWh, nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống, chỉ có thể đến sau ngày 20.6, tình trạng thiếu điện mới trở lại bình thường. Ông Đinh Thế Phúc, Phó cục trưởng Cục Điều tiết điện lực đề nghị, EVN phải cân đối lại việc cắt điện. Theo ông Phúc, sở dĩ mới đây Bộ Công thương phải ban hành Chỉ thị 16 là vì EVN cắt quá nhiều điện sinh hoạt, một số nơi thường xuyên bị cắt cả ngày lẫn đêm làm đảo lộn sinh hoạt của người dân.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Hà Nội mới có bài Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế khi bị tai nạn giao thông: Các ngành mải miết tranh luận, dân chịu khổ. Bài báo phản ánh: Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) Lê Hồng Sơn cho biết, Thông tư số 09 của liên bộ Y tế và Tài chính hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế (BHYT) gây phiền hà, bế tắc cho người dân. Với trách nhiệm của mình, Cục đã yêu cầu 2 cơ quan trên sửa văn bản nhưng đại diện Bộ Y tế vẫn khẳng định "không sai". Trong khi đó, chậm sửa Thông tư 09 ngày nào sẽ thêm nhiều trường hợp bị tai nạn giao thông (TNGT) không được thanh toán bảo hiểm ngay cả khi họ không có lỗi.
Theo ông Sơn, Luật BHYT quy định, người tham gia bảo hiểm chỉ bị tước quyền chi trả bảo hiểm trong trường hợp tai nạn do hành vi vi phạm của chính người đó gây ra. Tuy nhiên, khoản 3, điều 8, Thông tư 09 lại quy định ngược lại nội dung này của Luật BHYT: "Trường hợp chưa xác định được là có vi phạm pháp luật về giao thông hay không thì người bị TNGT tự thanh toán các chi phí điều trị với cơ sở y tế. Khi có xác nhận không vi phạm pháp luật về giao thông của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì người bệnh mang chứng từ đến bảo hiểm xã hội (BHXH) để thanh toán theo quy định".
Cục Kiểm tra văn bản phân tích, ở đây, việc xác định có vi phạm pháp luật về giao thông của người tham gia BHYT thuộc về cơ quan có thẩm quyền, trong đó có BHYT. Trường hợp không chứng minh được có hành vi vi phạm thì bảo hiểm phải thanh toán cho dân chứ không được phớt lờ nhiệm vụ này. Mặt khác, theo quy định của Thông tư 09 thì để được thanh toán bảo hiểm, cần có giấy xác nhận không vi phạm pháp luật về giao thông của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, "cơ quan có thẩm quyền" xác nhận là ai, đồng thời ai là người đưa ra giấy xác nhận này cho BHYT thì thông tư không làm rõ. Cách quy định như vậy dẫn đến sự hiểu nhầm là trách nhiệm này thuộc về người bệnh, gây phiền hà, bế tắc cho người hưởng BHYT. Cũng theo Bộ Tư pháp, có nhiều ý kiến cho rằng cơ quan có thẩm quyền xác nhận là CSGT. Tuy nhiên, qua nghiên cứu luật pháp Việt Nam, có thể thấy, nếu người bị tai nạn có đến xin giấy xác nhận CSGT thì cơ quan này cũng không có cơ sở để cấp. Như vậy, nếu áp dụng điều 8, Thông tư 09 như trên sẽ có nhiều trường hợp người bị TNGT không được hỗ trợ hoặc thanh toán BHYT, ngay cả khi họ không có lỗi.
Mặc dù vậy, bà Tống Thị Song Hương, Vụ trưởng Vụ BHYT, Bộ Y tế vẫn khẳng định, nội dung hướng dẫn về thanh toán các trường hợp người tham gia BHYT bị TNGT quy định tại Thông tư liên tịch số 09 không trái với tinh thần và nội dung của Luật BHYT. Liên bộ chỉ quy định về nguyên tắc theo đúng tinh thần của luật và các văn bản liên quan, không bó buộc và cũng không "tước bỏ quyền lợi" của người tham gia BHYT. Nếu khách hàng chưa thanh toán tại bệnh viện thì thanh toán sau tại cơ quan BHXH? Tuy nhiên, bà Hương cũng thừa nhận, Thông tư 09 chưa rõ ràng nên khó khăn trong tổ chức thực hiện. Theo bà Hương, giấy xác nhận "không vi phạm giao thông" quy định trong Thông tư 09 có nghĩa là biên bản khám nghiệm hiện trường, thông báo sơ bộ kết quả điều tra ban đầu vụ TNGT của cơ quan CA.
Luật gia Nguyễn Ngọc Minh khẳng định, không bàn về tính hợp pháp hay phù hợp của Thông tư 09 đối với Luật BHYT, nhưng quy định tại khoản 3, điều 8 của Thông tư 09 là không phù hợp với điều kiện ở nước ta hiện nay. Ông phân tích, Bộ Y tế muốn có biên bản khám nghiệm hiện trường, thông báo sơ bộ kết quả điều tra ban đầu vụ TNGT của cơ quan CA thì cần nêu rõ là các trường hợp bị TNGT cần có những loại giấy tờ này mới được thanh toán bảo hiểm. Đằng này lại để người dân mải miết tìm giấy xác nhận "không vi phạm giao thông", trong khi đó mẫu giấy này không có trên thực tế. Nhiều câu hỏi được ông Minh đặt ra nữa là, hiện nhiều vụ án được đưa ra tòa án để yêu cầu bồi thường sau TNGT được xác định là do "lỗi hỗn hợp" nghĩa là cả hai bên đều có lỗi. Lúc đó sẽ xác định nạn nhân bị TNGT được hưởng BHYT như thế nào, hay chỉ được hưởng ½ mức chi trả bảo hiểm do cũng "tham gia" vào quá trình gây tai nạn? Trên thực tế, người bị TNGT còn gặp phải nhiều trường hợp oái oăm hơn như TNGT bất ngờ, người gây TNGT bỏ chạy, tự vấp ổ gà té ngã, tai nạn không người chứng kiến... Khi đó sẽ chẳng CSGT nào dám xác nhận bởi không chứng kiến và không có ai làm chứng. Nghĩa là trong rất nhiều trường hợp, người bị nạn sẽ hoàn toàn bị bít cánh cửa được hỗ trợ thanh toán bằng BHYT. Mặt khác, việc xác nhận người bị TNGT có phạm luật hay không theo Thông tư 09 chủ yếu dựa vào CSGT. Dễ dàng nhất là những vụ có sự xuất hiện đúng lúc của CSGT khi dấu vết hiện trường còn nguyên. Nhưng ngay cả khi có CSGT thì trong nhiều vụ, việc xác định bên nào có lỗi, lỗi bao nhiêu cũng không dễ. Đó còn là chưa kể trong nhiều vụ TNGT, lực lượng này không đến kịp.
Rõ ràng, dưới góc độ nhân văn, quy định như vậy cũng không phù hợp với tiêu chí, mục đích của chính sách BHYT là bảo hiểm toàn dân. Vì vậy, Bộ Y tế cần làm hết chức trách của mình trong việc hoàn thiện Thông tư 09,  không nên vô cảm trước người dân. Bởi nói đến bảo hiểm là nói đến tính chất nhân đạo và chia sẻ rủi ro, trong đó tổn thất của cá nhân được bù đắp phần nào từ cộng đồng thông qua cơ quan chi trả bảo hiểm.
2. Báo Đất Việt có bài Nhiều án tồn vì thủ tục ủy thác tư pháp. Bài báo phản ánh: Hàng nghìn vụ án dân sự mà TAND TP HCM đang thụ lý và các vụ việc đã giải quyết sơ thẩm liên quan đến yếu tố nước ngoài, có kháng cáo của đương sự trong nước đang bị tắc từ tháng 9/2009 đến nay. Lý do là có sự “xung đột” giữa Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM với TAND TP HCM về việc thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp (UTTP). Việc thực hiện thủ tục UTTP liên quan đến những vụ - việc dân sự có yếu tố nước ngoài của TAND TP HCM từ trước đến nay vẫn được áp dụng theo “lệ” vì quy định, hướng dẫn về vấn đề này chưa cụ thể.
Mặc dù Luật tương trợ tư pháp có hiệu lực thi hành từ 1/7/2008, nhưng đây cũng chỉ mới là luật khung, chỉ đưa ra các nguyên tắc về UTTP, mà chưa có hướng dẫn cụ thể để thực hiện. Do đó, để bảo đảm việc giải quyết các vụ - việc dân sự, TAND TP HCM và Bộ Tư pháp căn cứ trên một số nguyên tắc và văn bản luật thống nhất về UTTP làm căn cứ giải quyết án. Theo đó, đối với đương sự là cá nhân, tổ chức nước ngoài thì hồ sơ UTTP gửi cho Tòa án có thẩm quyền của nước tiếp nhận UTTP thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam; đối với cá nhân, tổ chức Việt Nam thì hồ sơ UTTP gửi cho Đại sứ quán Việt Nam ở nước tiếp nhận UTTP thông qua Bộ Tư pháp Việt Nam. Tuy nhiên, theo ông Bùi Hoàng Danh, Chánh án TAND TP HCM trong hầu hết trường hợp UTTP là không có kết quả; không nhận được sự trả lời của đương sự liên quan, không có hồi âm của Bộ Tư pháp và Đại sứ quán Việt Nam đã thực hiện việc chuyển hồ sơ UTTP… Vì vậy, hồ sơ vụ - việc dân sự chỉ có bản lưu của hồ sơ UTTP đã gửi đi, các biên nhận của bưu điện về việc đã chuyển hồ sơ của Tòa án cho Bộ Tư pháp… Tòa án lấy đó làm căn cứ để giải quyết vụ - việc dân sự.
Cách làm này của TAND TP.HCM từ tháng 8/2009 trở về trước đều được Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM chấp nhận. Nhưng từ tháng 9/2009 trở đi, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM đã không chấp nhận cách làm này. Tất cả vụ - việc dân sự TAND TP HCM đã xét xử, có kháng cáo đều bị Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM trả lại hồ sơ. Từ tháng 9/2009 đến tháng 12/2009, có hơn 1.500 vụ án bị tồn đọng do tòa phúc thẩm không nhận xử kháng cáo, buộc phải thực hiện đầy đủ các thủ tục UTTP.
Thẩm phán Trần Thị Hồng Việt, Chánh văn phòng TAND TP HCM, cho biết năm 2009, TAND TP HCM thụ lý 3.622 vụ án có yếu tố nước ngoài (trong đó, án dân sự là 1.367, hôn nhân gia đình 1.106, kinh doanh thương mại 1.227 và lao động 22). Do đặc điểm về lịch sử, nhiều gia đình tại TP HCM cũng như các tỉnh tại miền nam có nhiều người thân định cư làm ăn sinh sống ở Mỹ, Australia, Canada, Anh…, đây là những nước chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam nên việc thực hiện UTTP gặp nhiều khó khăn. Đối với những nước có Hiệp định tương trợ tư pháp thì có thể nhận được kết quả nhưng rất chậm.
Đối với các vụ án hôn nhân gia đình, bị đơn thường là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, công dân nước ngoài, hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang định cư ở nước ngoài. Với các vụ án dân sự yếu tố nước ngoài thường là những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang ở nước ngoài. Các vụ kinh doanh thương mại thì công ty chính ở nước ngoài. Các vụ lao động thì chủ doanh nghiệp là người nước ngoài đã trở  về nước mà không thanh toán các khoản tiền cho người lao động. Việc UTTP để ghi lời khai của người đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp thì hầu như không có kết quả. Các vụ án này thường thời hạn xét xử không đảm bảo, việc kéo dài và bế tắc khi không có kết quả ủy thác sẽ làm người trong nước thiệt thòi. Nếu họ đi bước nữa thì cuộc sống hôn nhân tự nhiên trái pháp luật, do đó các quyền lợi về vợ chồng không được đảm bảo… Đối với án xử xong, nếu có đương sự trong nước kháng cáo thì hồ sơ không thể chuyển ngay để Tòa phúc thẩm giải quyết mà phải chờ kết quả ủy thác bản án đối với người đang ở nước ngoài, kéo dài thời gian thêm thời gian giải quyết vụ án…
Ông Bùi Hoàng Danh, Chánh án TAND TP HCM, cho biết TAND TP HCM đã có nhiều công văn đề nghị TAND Tối cao, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao có hướng dẫn thực hiện thủ tục UTTP nhưng đến nay vẫn chưa chuyển biến.
3. Báo Sài Gòn giải phóngbài Nga ban hành Hiệp định tương trợ pháp lý Nga-Việt Nam. Bài báo phản ánh: Ngày 1-6, Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã ký ban hành Hiệp định tương trợ pháp lý LB Nga - Việt Nam. Hiệp định trên được hai nước ký tại Mátxcơva tháng 8-1998 nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý của mối quan hệ hợp tác giữa Nga và Việt Nam.
Hiệp định quy định trình tự và quy chế Nga và Việt Nam dành cho nhau sự tương trợ pháp lý, giải quyết các vấn đề liên quan đến pháp luật và hỗ trợ pháp lý cho công dân hai nước, trong đó có quy chế cá nhân, quyền lao động và quyền miễn trừ. Hiệp định cũng xác định tiêu chuẩn truy cứu tội phạm hình sự, trao trả hoặc từ chối trao trả tội phạm hình sự giữa hai nước. Hiệp định tương trợ pháp lý LB Nga - Việt Nam đã được Duma Quốc gia (Hạ viện) và Hội đồng Liên bang (Thượng viện) Nga thông qua vào các ngày 14 và 26-5 vừa qua.
4. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài Trở lại cơ chế xin - cho?. Bài báo phản ánh: Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi sẽ được Quốc hội thông qua trong kỳ họp lần này. Các quy định mới của luật sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của lĩnh vực này trong giai đoạn sắp tới thế nhưng điều đáng quan tâm là bóng dáng của cơ chế xin - cho dường như thể hiện khá rõ nét trong lần sửa luật này.
Dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi lần này có nhiều quy định mới khắc phục được các bất cập trong quá trình quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ví dụ như dự thảo luật mở rộng phạm vi điều chỉnh từ chỗ chỉ điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng sang điều chỉnh về thành lập, tổ chức, quản lý, hoạt động, kiểm soát đặc biệt, tổ chức lại và giải thể của các tổ chức tín dụng. Đặc biệt quan trọng là nội dung quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng ngày càng chặt chẽ hơn. Đây là một trong những nội dung mới được các tổ chức tín dụng là đối tượng điều chỉnh của Luật này đặc biệt quan tâm. Phát biểu tại Quốc hội ngày 22-5, ông Cao Sỹ Kiêm, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN), cho rằng dự thảo luật vẫn còn nhiều quy định không cụ thể, giao cho Chính phủ, NHNN hướng dẫn. Đây lại là những vấn đề rất cụ thể liên quan trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Ví dụ như ngân hàng thương mại muốn mua lại công ty con, công ty liên kết hoặc góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp phải được sự chấp thuận bằng văn bản trước của NHNN. Tuy nhiên, dự thảo luật không quy định cụ thể điều kiện, thủ tục để được NHNN chấp thuận cho ngân hàng thương mại góp vốn, mua cổ phần. Trong khi Luật Doanh nghiệp và nhiều luật được ban hành với cơ chế “hậu kiểm”, cho phép doanh nghiệp được chủ động quyết định đầu tư, kinh doanh với những điều kiện biết trước thì Luật tổ chức tín dụng lại được sửa đổi với xu hướng “tiền kiểm” không rõ ràng, trở thành mối lo ngại của các ngân hàng khi đứng trước các quyết định đầu tư, kinh doanh. Còn nhiều quy định tương tự khác. Chẳng hạn, dự thảo luật không quy định các điều kiện và giới hạn cụ thể mà giao cho NHNN quy định giới hạn và điều kiện cấp tín dụng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; hoặc ngân hàng thương mại chỉ được thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế và các dịch vụ thanh toán khác sau khi được NHNN chấp thuận; hoặc NHNN quy định phạm vi, điều kiện kinh doanh ngoại hối, kinh doanh cung ứng sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại…
Thậm chí trong trường hợp cần thiết (không rõ là trường hợp nào), NHNN có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng; danh sách dự kiến những người được bầu, bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, thành viên ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc) của tổ chức tín dụng cũng phải được NHNN chấp thuận trước khi bầu, bổ nhiệm các chức danh này. Những quy định quá chặt chẽ như thế khiến cho hoạt động của các ngân hàng thương mại trở lại cơ chế xin - cho, rất nặng nề. Như vậy, ngoài thủ tục xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động, các ngân hàng thương mại còn phải được sự chấp thuận của NHNN trước khi quyết định rất nhiều các hoạt động đầu tư, kinh doanh cụ thể - thực chất là các giấy phép con, không phù hợp với các nguyên tắc của Luật Doanh nghiệp.
Ngay cả quy định về điều kiện xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động của ngân hàng trong dự thảo luật cũng không rõ ràng, chẳng hạn như các điều kiện đối với cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập, chủ sở hữu, mà giao lại cho NHNN quy định. Dự thảo luật cũng không quy định cụ thể về mức lệ phí cấp giấy phép.Và ngay cả khi đáp ứng được tất cả các điều kiện theo quy định và được cấp phép, thì trước khi khai trương hoạt động, tổ chức tín dụng vẫn phải báo cáo NHNN. Những quy định như vậy chứng tỏ NHNN vẫn làm việc theo cơ chế ngồi đợi báo cáo, xem xét, chứ không chủ động kiểm tra trước, không tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng khi gia nhập thị trường cũng như tiến hành công việc kinh doanh. Các quy định quản lý quá cứng nhắc này khiến cho nhiều nhà đầu tư lo ngại về tương lai của lĩnh vực này. Luật này trao cho cơ quan quản lý nhiều quyền quyết định như vậy được lý giải là nhằm ngăn chặn, kiểm soát và bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng, nhưng thực chất là NHNN đã can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các tổ chức tín dụng, làm mất quyền tự chủ quyết định đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư. Thực ra, NHNN hoàn toàn có thể sử dụng các công cụ, biện pháp giám sát phòng ngừa khác bằng việc xem xét các báo cáo định kỳ của các tổ chức tín dụng, nếu phát hiệu có dấu hiệu vi phạm thì xử lý ngay chứ không nhất thiết phải phê duyệt cụ thể về từng hoạt động của mỗi tổ chức tín dụng.
Thời gian qua, chính sách quản lý trong lĩnh vực này khá mở, nhiều ngân hàng thương mại ra đời, các sản phẩm tín dụng ngày càng đa dạng, các hình thức đầu tư mở ra nhiều hơn, nhưng với các quy định của dự thảo sửa đổi này, các nhà đầu tư sẽ phải cân nhắc, thận trọng hơn với nhiều rào cản mới.
5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Luật sư gặp bị cáo tại tòa: Cho hay cấm?. Bài báo phản ánh: Gần đây, một số luật sư đã than phiền về việc cảnh sát dẫn giải không cho họ tiếp xúc với bị cáo tại tòa, gây khó khăn cho hoạt động bào chữa. Thực tế hiện nay có phiên xử luật sư được gặp thân chủ nhưng có phiên xử lại không...
Mới đây, trong phiên phúc thẩm vụ bị cáo Trương Minh Nhật phạm tội cướp tài sản tại TAND TP.HCM, giữa các cảnh sát dẫn giải và luật sư của Nhật đã xảy ra cãi vã sau khi luật sư không được tiếp xúc với bị cáo. Trước đó, Nhật bị TAND quận 12 phạt năm năm tù. Nhật kháng cáo kêu oan rằng mình nhận tội trong giai đoạn điều tra do bị ép cung, bị cáo không có ý định cướp tài sản cũng như không cầm miếng kính bể để uy hiếp nạn nhân… Trước khi phiên phúc thẩm được chính thức mở, lúc cảnh sát dẫn giải đưa bị cáo vào phòng xử, luật sư tranh thủ đến gặp thân chủ thì bị chặn lại. Luật sư nói mình đang bào chữa cho thân chủ theo hướng bị oan, rất cần tiếp xúc, trao đổi với thân chủ. Nhưng lực lượng dẫn giải đã từ chối với lý do cảnh sát tư pháp có trách nhiệm giám sát sự an toàn cũng như quản lý, không cho phép ai tiếp xúc với bị cáo. Trường hợp luật sư hay người khác muốn tiếp xúc với bị cáo thì phải xin phép chủ tọa phiên xử.
Dĩ nhiên là lúc đó luật sư chưa thể gặp được chủ tọa để xin phép. Rồi đến giờ nghị án, khi vị luật sư này đến ngồi gần bị cáo để trao đổi, động viên tinh thần cũng bị lực lượng dẫn giải yêu cầu quay lại chỗ ngồi của mình hoặc ra khỏi phòng xét xử, chờ đến khi tuyên án thì vào. Việc luật sư không được gặp gỡ thân chủ trong những lúc tranh thủ tòa chưa xử hay vào nghị án như trên không phải là hiếm. Nhiều luật sư kể khi tham gia phiên xử tại Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM, gặp tình huống này, họ thường phải nhờ thư ký phiên tòa “nói giúp” nhưng cũng lúc được, lúc không.
Xung quanh vấn đề trên hiện đang phát sinh nhiều luồng quan điểm khác nhau. Một kiểm sát viên cao cấp Viện Phúc thẩm 3 nói không nên cho phép luật sư tiếp xúc bị cáo tại phiên xử bởi có thể tạo điều kiện cho bị cáo phản cung. Hiện nay, việc phản cung của bị cáo tại tòa xảy ra ngày càng nhiều, xuất phát từ chỉ dẫn của các luật sư. Chưa kể, với những vụ án có nhiều bị cáo, lời khai mâu thuẫn, cơ quan tố tụng có khi còn phải cách ly họ. Việc cho luật sư tiếp xúc với các bị cáo sẽ gây phiền nhiễu, ảnh hưởng đến lời khai của họ. Trong khi đó, việc xét xử ở ta phụ thuộc vào quá trình điều tra, quá trình thẩm vấn và diễn biến tại tòa. Có luật sư chỉ vẽ, bị cáo bị tác động sẽ làm ảnh hưởng đến việc tìm ra sự thật vụ án… Ngược lại, một số thẩm phán chuyên xét xử hình sự lại cho rằng việc ngăn cản luật sư tiếp xúc với bị cáo ở phiên tòa là vi phạm tố tụng. Bởi lẽ khoản 1 Điều 188 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Bị cáo đang bị tạm giam khi ra phiên tòa chỉ được tiếp xúc với người bào chữa. Việc tiếp xúc với những người khác phải được phép của chủ tọa phiên tòa”. Như vậy, luật đã quy định rõ việc bị cáo được tiếp xúc với luật sư khi ra phiên tòa nhằm đảm bảo quyền được bào chữa, được bảo vệ của bị cáo. Hơn nữa, một nguyên tắc cơ bản là không ai bị cho là có tội khi chưa có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp luật. Việc cho rằng luật sư gặp gỡ bị cáo sẽ “mớm cung”, làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử là không có căn cứ bởi tòa không chỉ căn cứ vào bản cung bị cáo mà còn phải căn cứ vào các lời khai từ nhiều phía cùng chứng cứ khác.