Trong buổi sáng ngày 01/6/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Lao động có bài Quản lý xe ôm: Khó khả thi. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Dự thảo quản lý và hướng dẫn sử dụng xe thô sơ, xe gắn máy... (gọi tắt là xe ôm) để vận chuyển hàng hóa, hành khách của Sở Giao thông Vận tải TPHCM vừa đưa ra thì ngay lập tức nhận được nhiều ý kiến trái chiều.Sáng 28.5, Uỷ ban MTTQVN TPHCM đã tổ chức hội nghị góp ý về vấn đề này.
Ông Lê Trung Tín - Trưởng phòng Quản lý vận tải - Sở GTVT TP - cho rằng, mục đích chính của dự thảo là đảm bảo quyền lợi cho người sử dụng xe ôm và chủ xe ôm, chỉ cần đăng ký thủ tục gọn nhẹ, không hề mang tính chất xin - cho gì cả. Vì vậy, tất cả những người hành nghề xe ôm đều phải đưa vào tổ đội, nghiệp đoàn, những người không tham gia tổ đội, nghiệp đoàn đều là xe ôm “dù!” Tuy nhiên, để phân biệt xe ôm “dù” cũng trở nên... bất khả thi. Ông Tín cũng thừa nhận, việc quản lý xe ô tô “dù” còn chưa thực hiện được, thì việc quản lý xe ôm “dù” là điều còn khó hơn nhiều.
Ngay trong dự thảo, nhiều đại biểu đã chỉ ra các điểm bất hợp lý. Bà Nguyễn Thị Thanh Mai - đại diện Sở LĐTBXH TP - cho rằng, đưa những người hành nghề xe ôm vào các tổ đội, nghiệp đoàn là ý tốt mong muốn quản lý chấn chỉnh hoạt động này theo quy củ, trật tự, nhưng ngay trong dự thảo lại không hề có một điều khoản nào để quy định hướng dẫn thực hiện về việc thành lập tổ đội, nghiệp đoàn. Nhiều đại biểu không đồng tình với việc đăng ký cấp quận, huyện mà cho rằng khi thành lập tổ hội, nghiệp đoàn thì nên đăng ký ở cấp phường, xã sẽ quản lý sâu sát và chặt chẽ hơn. Đồng thời, quy định chung trang phục và logo cho xe ôm trên địa bàn TPHCM một màu đồng nhất, tuy nhiên cần hỗ trợ cho người dân vì đa số có hoàn cảnh khó khăn.
Ông Nguyễn Hồng Chi - đại diện tổ xe ôm tự quản huyện Hóc Môn - tỏ ra bức xúc: “Ở Hóc Môn và các địa bàn ngoại ô TPHCM, ngoài việc chạy xe ôm, người dân có tập quán sử dụng xe ôm móc thùng phía sau (xe lôi) để chở cỏ chăn nuôi bò sữa trong gia đình, bây giờ nếu cấm thì chúng tôi biết sống bằng cái gì?”.
Người hành nghề xe ôm đa phần là người dân nghèo, chọn nghề xe ôm để kiếm sống. Hiện tại, ở TPHCM đang có rất nhiều hình thức hoạt động xe ôm, từ hoạt chuyên nghiệp tới bán chuyên nghiệp, hoạt động theo tổ hội (đội xe ôm tự quản ga Sài Gòn, đội xe gắn máy tự quản P.10, Q.10 - BV Nhi Đồng I, TPHCM...) và hoạt động theo nhóm, hoạt động cá nhân. Ông Hoàng Minh Thái (69 tuổi - ảnh) - hành nghề xe ôm tự do từ 10 năm nay ở đường Phan Xích Long, P.2, Q. Phú Nhuận - cho biết, mặc dù không vào tổ hội gì cả, nhưng cũng hoạt động theo nhóm, cũng giúp đỡ lẫn nhau trong làm ăn, mỗi khi có người trong nhóm gặp khó khăn thì họ đều chung tiền giúp đỡ, nhất là trong thời buổi hiện nay, nhiều người dân chọn taxi làm phương tiện công cộng chủ yếu vì “mưa không đến mặt, nắng không đến đầu”, bí quá họ mới phải dùng tới xe ôm.
Công việc xe ôm đã không ổn định, mà nay bắt họ vào tổ hội có khác gì gây thêm khó khăn, rồi lại phải đóng phí này phí nọ phiền phức. Anh Trần Tích Hùng - đội xe ôm tự quản - phòng, chống tội phạm KP3, P.Bến Nghé, Q.1 - cho biết, đội của anh có 10 người chung tiền mua đồng phục và logo để tạo sự yên tâm và uy tín cho người đi xe ôm, không còn xảy ra tình trạng “chặt chém” khách, đồng thời hoạt động hành nghề xe ôm cũng trở nên “an toàn” hơn. Tuy nhiên, để quản lý xe ôm thực sự có hiệu quả và không làm “khó” xe ôm thì phải “đơn giản hóa” hết mức việc quản lý đối tượng này - anh Hùng nhấn mạnh.
Báo cũng phản ánh: Liên tiếp trong 2 ngày (24 và 25.5), Công an TP.Hạ Long sau khi phát hiện một đường ống đường kính 700mm của Cty dầu thực vật Cái Lân có hiện tượng xả thẳng nước thải công nghiệp ra môi trường vịnh Hạ Long, lại tiếp tục tìm ra 3 hố ga tại khu vực này chứa đầy rác bẩn, bốc mùi xú uế, có đường ống đầu nối trực tiếp với đường xả của Cty dầu thực vật Cái Lân và vẫn không ngừng đẩy nước bẩn ra vùng thượng nguồn của di sản thế giới. Sẽ còn đủ thời gian và các biện pháp để xác định chính xác nguồn nước bẩn trên xuất phát từ đâu và chủ thể nào sẽ phải chịu trách nhiệm về luật pháp khi mà tại đây không chỉ có riêng một Cty dầu thực vật Cái Lân hoạt động. Tuy nhiên, chuyện cố tình làm bẩn môi trường vùng vịnh không phải bây giờ mới thấy. Đầu năm 2010, lực lượng cảnh sát và dân phòng phường Bãi Cháy đã bắt quả tang một gã làm nghề hút bể phốt thuê đang xả cả một xtec phân tươi ra bờ vịnh Hạ Long; khủng khiếp hơn là nạn đổ bùn tứ tung vung vãi từ các sà lan tự hành nạo vét thuê cho các công trình lấn biển. Ban quản lý vịnh Hạ Long từng rình phục suốt đêm mới tóm được những kẻ có hành vi đê tiện này - họ đã xả bùn ngay tại vùng nước dưới chân cầu Bãi Cháy. Chưa bao giờ môi trường vịnh Hạ Long bị đối xử một cách tồi tệ như hiện nay. Cty trai ngọc Halong Pearl phá sản bởi vì nguồn nước bị ô nhiễm. Hằng tháng, vào ngày thuỷ triều xuống 0,1m, trong vùng vịnh trồi lên rất nhiều mô bùn - dấu tích của nạn đổ thải bừa bãi. Trong khi đó, hàng nghìn hécta rừng ngập mặn ven bờ đã sạch quang. Thay vào đó là hàng loạt công trình sản xuất công nghiệp nặng. Chưa hết, nhiều dự án lấn biển vẫn tiếp tục khởi động với nhiều mục đích xem ra có vẻ như “cao cả”, thực chất là sự nuốt dần mặt vịnh. Ngay cảng nước sâu Cái Lân cũng đang bị o ép bởi luồng vào bị thu hẹp.
Nếu không nói lớn cho cả cộng đồng cùng nhìn rõ thực trạng này, thì vô hình trung, sự im lặng của mỗi người chính là sự tiếp tay đẩy di sản vô giá của mình tới bước suy vi. Và như vậy, ngày mai Hạ Long sẽ còn gì để tôn vinh?
Báo cũng có bài “Kêu khó, vẫn lãi to”. Bài báo phản ánh: Kết quả kinh doanh được các ngân hàng thương mại công bố mới đây cho thấy, dù gặp nhiều khó khăn trong kênh huy động vốn thể hiện qua những biến động mạnh về lãi suất, các ngân hàng vẫn kiếm được lãi lớn trong các tháng đầu năm. Theo công bố mới đây, chỉ riêng trong 4 tháng đầu năm, OCB lãi tới 112 tỉ trước thuế, tương đương mức tăng 116% so với cùng kỳ. Nhiều chỉ tiêu khác của OCB cũng khá khả quan với tổng dư nợ cho vay đạt 9.135 tỉ đồng, đạt 69% so với kế hoạch năm và tổng vốn huy động đạt 8.765 tỉ đồng, xấp xỉ 67% kế hoạch năm.
Với kế hoạch này, OCB tin tưởng vào khả năng đạt lợi nhuận 400 tỉ đồng trong cả năm với tổng vốn điều lệ được nâng lên 3.100 tỉ đồng, tăng dư nợ tín dụng bình quân 30%, huy động vốn tăng 40% và thu nhập cổ đông 15%, trong đó cổ tức tối thiểu đạt 10%. Chỉ riêng trong 4 tháng, NH SCB công bố đạt lợi nhuận tới hơn 352 tỉ đồng, đạt mức tăng kỷ lục 370,16% so với cùng kỳ 2009. Đến thời điểm đầu tháng 5, tổng tài sản của SCB đạt hơn 54.161 tỉ đồng, tổng vốn huy động đạt hơn 48.814 tỉ đồng, tăng 41,15% so với cùng kỳ năm 2009 và dư nợ tín dụng đạt 21.155 tỉ đồng.
Với mức lợi nhuận 80 tỉ đồng kết thúc tháng 4, hầu hết các chỉ tiêu khác của HDBank cũng đạt và dự kiến tăng do với các chỉ tiêu được đề ra trước đó. Cụ thể, tổng vốn huy động đạt 18.933 tỉ đồng, xấp xỉ 90,16% kế hoạch năm và tăng 159,57% so với cùng kỳ năm trước. Tổng dư nợ của HDBank cũng đạt 7.648 tỉ đồng, đạt 72,83% so với kế hoạch 2010, tăng 54,41% so với cùng kỳ năm trước. Trước đó, chỉ riêng trong quý I, Sacombank công bố lãi trên 510 tỉ đồng, tăng 46% so với cùng kỳ trong đó nguồn thu từ tín dụng chiếm 26,48%. Đáng lưu ý với dư nợ cho vay đạt 57.546 tỉ đồng và tổng tài sản đạt 103.734 tỉ đồng, tỉ lệ nợ xấu của Sacombank chỉ ở mức 0,75%. Chưa kể các hình thức khuyến mãi có thể khiến lãi suất tăng cao hơn thực tế, một vài NHTM đã chính thức niêm yết lãi suất huy động VND với lãi suất cao nhất tới 11,99%/năm.
Theo biểu lãi suất vừa được NHTM cổ phần Miền Tây (Western Bank) áp dụng, một loạt các kỳ hạn gửi tiền được điều chỉnh tăng lãi suất với mức lãi suất cao nhất lên đến 11,8%/năm. Bên cạnh đó, sản phẩm tiền gửi 36 tháng lãi suất thả nổi (định kỳ lĩnh lãi 1, 2, 3, 4 tháng) tại NH này có lãi suất lên đến 11,99%/năm. Lãi suất của sản phẩm này tự điều chỉnh linh hoạt theo lãi suất thị trường vào mỗi đầu định kỳ lĩnh lãi. Khách hàng vẫn được quyền rút trước hạn bất cứ lúc nào mà vẫn được hưởng lãi suất cao, có thể rút gốc và lãi vào cuối mỗi định kỳ lĩnh lãi.
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Từ thứ hạng 89 trong năm 2009, năm nay Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 71 trong bảng số xếp hạng về môi trường thương mại toàn cầu năm 2010 do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) vừa công bố.
Kết quả này được xem xét trong tổng số 125 nền kinh tế, trong đó Singapore và Hồng Công (Trung Quốc) tiếp tục dẫn đầu thế giới về phương diện tạo điều kiện thuận lợi, tăng cường trao đổi thương mại toàn cầu. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, VN là một trong những nước có mức cải thiện thứ hạng mạnh mẽ nhất trong năm 2010. Đây là kết quả từ việc VN gia nhập WTO và đang triển khai thực hiện khá tốt việc mở cửa thị trường theo các cam kết nên xuất khẩu của VN cũng đang gặp nhiều thuận lợi.
3. Trang web bee.net.vn phản ánh: "Việt Nam nên nghĩ đến 2 phương án: Lùi thời hạn vận hành tuyến đường sau năm 2020, hoặc làm các tuyến ngắn hơn vì nếu xây tuyến HN - Vinh và TP.HCM - Nha Trang thôi cũng đã là quá dài và quá đắt". Xung quanh vấn đề Việt Nam sẽ xây đường cao tốc Bắc - Nam, mới đây, nhân chuyến hăm Việt Nam hồi đầu tháng 5, Bộ trưởng Giao thông Nhật Bản Seiji Maehara đã đưa ra lời khuyên như vậy. Theo Bộ trưởng Seiji Maehara, nếu xây tuyến Hà Nội - Vinh và TP.HCM - Nha Trang thôi "cũng đã là quá dài và quá đắt". Vì bên cạnh tính toán về chi phí thì chắc chắn sẽ không nhiều hành khách chọn tuyến đường sắt cao tốc để đi chặng Hà Nội - TP.HCM hoặc ngược lại, bởi thời gian sẽ mất khoảng 6h trong khi đường hàng không chỉ chưa đầy 2h.
Còn theo Đại sứ Nhật Bản Mitsuo Sakaba, tuyến đường sắt cao tốc sẽ chỉ mang lại ích lợi vào khoảng năm 2030 - 2035, khi các đô thị dọc tuyến đã phát triển kinh tế ở một tầm cao nhất định. Dân số đông hơn, mức sống cao hơn và sẽ có nhiều hành khách chọn lựa sử dụng tàu cao tốc hơn. Việc xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc vô cùng tốn kém, Nhật Bản cũng phải xây đoạn ngắn từ Tokyo - Osaka trước và phải mất 50 năm mới có tuyến Shinkansen toàn quốc. Đại sứ Nhật Bản cho biết thêm, phía Nhật Bảni muốn lắng nghe dư luận và chờ quyết định của VN. Ngoài ra, Nhật Bản muốn xem xét kết quả của báo cáo khả thi đang được VN nghiên cứu và hoàn tất trong vài năm tới. Khi đó, Nhật Bản mới quyết định hợp tác như thế nào trong dự án này với VN.
4. Báo Người lao động phản ánh: Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc cho phép UBND TP Hà Nội thực hiện thí điểm dự án đầu tư phương tiện giao thông sạch (xe điện) phục vụ khách du lịch tham quan khu phố cổ và xung quanh hồ Hoàn Kiếm.
Trước đó, UBND TP Hà Nội đã cho phép Công ty CP Đồng Xuân được đầu tư thí điểm phương tiện giao thông sạch phục vụ khách du lịch tham quan khu vực nói trên. Theo đó, sẽ có 20 ô tô điện vận chuyển 2 tour du lịch gồm 15 điểm dừng. Mỗi ô tô điện có thể chở 5-12 khách với giá dự kiến khoảng từ 10.000-30.000 đồng/người/lượt. Sau 3 năm thực hiện thí điểm, Bộ GTVT phối hợp với UBND TP Hà Nội tổng kết, đánh giá kết quả và báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài LIÊN QUAN ĐẾN VỤ MẤT NỬA GIA TÀI VÌ GIẤY CHỨNG NHẬN KẾT HÔN “CUỘI”: Sai rành rành sao không sửa?. Bài báo phản ánh: Ông Hồ Văn Liếc (SN 1955, ngụ ấp 5, xã Minh Hưng, huyện Chơn Thành) làm đơn tố cáo, đề nghị các cơ quan chức năng làm rõ và xử lý trách nhiệm đối với ông Trương Minh Hùng (cán bộ tư pháp xã Minh Hưng) và ông Trần Thanh Sơn (nguyên Chủ tịch UBND xã Minh Hưng) vì hành vi cấp giấy chứng nhận kết hôn (CNKH) cho ông Liếc và bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp trái pháp luật. Căn cứ vào giấy CNKH này, phiên tòa phúc thẩm ngày 16-9-2009 của TAND tỉnh Bình Phước do thẩm phán Nguyễn Thị Thu Hương ngồi ghế chủ tọa, tuyên: thuận tình ly hôn, công nhận cho bà Diệp được làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng 7.004m2 đất. Khu đất này của cụ Hồ Văn He, giao cho con trai là ông Liếc quản lý, trồng cao su.
Có mặt tại tòa soạn Báo CATP kêu oan, ông Liếc khẳng định: “Tôi chưa bao giờ lập hồ sơ đăng ký kết hôn với bà Diệp, cũng như không ký vào các giấy tờ liên quan đến thủ tục đăng ký kết hôn. Vậy mà bà Diệp lại có giấy CNKH. Thật oái oăm, tòa căn cứ vào giấy CNKH “cuội” này để buộc tôi mang khu đất hương hỏa của ông già chia cho bà Diệp. Tôi đã nhiều lần đề nghị tòa làm rõ giấy CNKH “cuội” nhưng không được xem xét để rồi tuyên xử oan”. Ông Liếc cho biết thêm, chẳng hiểu sao bà Diệp lại rất “thích” khu đất 7.004m2, từng làm hồ sơ, giả chữ ký của ông để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhưng bất thành. Vậy mà cuối cùng tòa cũng “chiều” theo ý bà Diệp!
Sau khi Báo CATP có bài phản ánh (Mất nửa gia tài vì giấy chứng nhận kết hôn “cuội”), Chủ tịch UBND xã Minh Hưng là ông Nguyễn Văn Bằng có văn bản khẳng định việc cấp giấy chứng nhận kết hôn cho ông Liếc và bà Diệp là sai. Do tủ tài liệu “quá tải, nấm mốc” nên cán bộ tư pháp xã đã tiêu hủy, trong đó hồ sơ vụ kết hôn của ông Liếc - bà Diệp. Một cán bộ của Văn phòng UBND huyện Chơn Thành cho biết, lãnh đạo huyện Chơn Thành đã giao Phòng Tư pháp làm rõ. Vụ việc liên quan đến trách nhiệm Phó chủ tịch huyện Chơn Thành Trần Thanh Sơn (ký giấy CNKH “cuộ khi làm Chủ tịch UBND xã Minh Hưng) nên huyện ủy sẽ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo, xử lý.
Không chỉ tố cáo, ông Liếc còn làm đơn khiếu nại bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Bình Phước. Sau khi nghiên cứu kỹ hồ sơ, ông Phạm Anh Kỳ - Phó viện trưởng Viện KSND tỉnh Bình Phước - đã ký văn bản số 92/CV-VKS nêu rõ: “Viện KSND tỉnh Bình Phước thấy có đủ căn cứ để đề nghị Viện KSND tối cao kháng nghị giám đốc thẩm bản án phúc thẩm số 23/HNPT ngày 16-9-2009 của TAND tỉnh Bình Phước do có những thiếu sót và vi phạm...”. Giám đốc Sở tư pháp tỉnh Bình Phước Bùi Quang Phụng cho biết, Phòng Tư pháp huyện Chơn Thành có văn bản gửi Sở Tư pháp xin ý kiến nhưng thẩm quyền giải quyết vụ việc này thuộc UBND huyện Chơn Thành. Về phía Viện KSND tỉnh, nếu xác định khiếu nại của ông Liếc có căn cứ, cần phối hợp với các cơ quan chức năng đề nghị xem xét tạm hoãn thi hành án...
Tiếp xúc với báo chí, Trưởng phòng Tư pháp huyện Chơn Thành Đỗ Danh Trí cho biết, vụ việc đang trong giai đoạn hoàn tất hồ sơ để báo cáo UBND huyện xử lý, sau đó sẽ thông báo cho dân và các cơ quan báo chí. Đề cập đến văn bản số 92/CV-VKS của Viện KSND tỉnh Bình Phước, ông Trí không ngại miệng: văn bản này không “nghĩa địa” gì (?!). Xem thường cả văn bản của Viện KSND tỉnh Bình Phước, không biết văn bản nào mới đủ “áp phê” với ông Trưởng phòng Tư pháp Đỗ Danh Trí?
Những sai phạm của cán bộ xã trong việc cấp giấy chứng nhận kết hôn trái pháp luật đã thể hiện rõ. Chúng tôi đề nghị lãnh đạo Viện KSND, Sở Tư pháp tỉnh Bình Phước và huyện Chơn Thành khẩn trương giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo của ông Hồ Văn Liếc theo đúng quy định pháp luật vì đã kéo dài quá lâu, đồng thời xem xét trách nhiệm của trưởng phòng tư pháp trong việc phát ngôn...
2. Báo Nhân dân có bài Văn phòng Thừa phát lại: Vừa làm vừa gỡ. Bài báo phản ánh: Mới đây, năm Văn phòng Thừa phát lại (TPL) đầu tiên của TP Hồ Chí Minh (cũng là của cả nước) đã chính thức nhận quyết định thành lập. Đây là mô hình mới, được triển khai thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh, tạo tiền đề cho việc xã hội hóa hoạt động này trên phạm vi cả nước. Phóng viên NDĐT đã có buổi trao đổi với ông Lê Mạnh Hùng - Trưởng Văn phòng TPL ở quận Bình Thạnh (Thành phố Hồ Chí Minh) (ảnh) về một số vấn đề của văn phòng TPL.
PV: Xin ông cho biết, các văn phòng TPL trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh lại đã thực sự đi vào hoạt động chưa?
Ông Lê Mạnh Hùng: Tuy các văn phòng TPL đã có quyết định thành lập nhưng chính thức hoạt động thì tất cả các văn phòng đều chưa vì có nhiều vướng mắc ở việc khắc dấu, khi nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh. Theo cơ quan tiếp nhận giấy đăng ký kinh doanh, chức năng của văn phòng TPL là công, nhưng lại hoạt động theo hình thức doanh nghiệp tư nhân nên chẳng biết cấp dấu như thế nào, phải chờ. Chúng tôi đã có phản hồi với Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp về vấn đề vướng mắc này. Hiện Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh đã có công văn gửi Công an thành phố, tuần tới chắc sẽ có con dấu, có con dấu thì chúng tôi mới tiến hành các việc tiếp theo được.
PV: Vậy còn vướng mắc gì khác nữa không thưa ông?
Ông Lê Mạnh Hùng: Ý tưởng ban đầu của văn phòng chỉ là lập vi bằng và tống đạt giấy tờ còn THA khó khăn. Tôi cho rằng điều này phụ thuộc rất lớn vào bản lĩnh TPL, đặc biệt trưởng văn phòng, chưa vận hành nên chưa nói vướng mắc cụ thể. Hôm trước trao quyết định, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính có nói trong quá trình làm nếu có vướng mắc (chắc chắn sẽ có) thì cần chủ động phản ánh kịp thời để giải quyết. Hiện nhiều người cho rằng, mô hình hoạt động là loại hình Doanh nghiệp tư nhân sao luật trao quyền cho lớn thế. Nhưng tôi nghĩ dù công hay tư, chấp hành viên hay TPL thì đều là người thực hiện bản án, mục đích cuối cùng là tính hiệu lực của bản án chứ không phải ai là người thực hiện mà công hay tư. Ngoài ra, hiện chưa có Thông tư hoạt động liên quan đến phí, đặc biệt là về việc tống đạt, vẫn chưa có thống nhất giữa Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính và TANDTC.
PV: Những gì thuộc bí mật đời tư, thừa pháp lại có được lập vi bằng?
Ông Lê Mạnh Hùng: Vi bằng được lập ra để ghi nhận sự kiện, hiện tượng mang tính hình thức,còn nội dung của vi bằng có chấp nhận không còn do Thẩm phán, tôi ghi nhận đúng sự thật, hiện tượng đó nhưng khi ra tòa thẩm phán quyết định có công nhận vi bằng không. Vi bằng cũng mới được quy định không biết giới hạn được làm đến đâu. Ví dụ bắt ông đó đang ngoại tình có được lập vi bằng không, có phải xâm phạm bí mật đời tư không. Ở Pháp nếu lăn tăn người ta có thể thông qua thẩm phán. Ngay cả bí mật đời tư hiện cũng chưa rõ theo Bộ luật Dân sự, và vẫn cớ phải làm theo kiểu cứ mò đi rồi sẽ tỏ…Đương sự sẽ được khiếu nại, cần thiết TPL ra tòa với tư cách người làm chứng.
PV: TPL có phải công ty chuyên đòi nợ thuê không?
Ông Lê Mạnh Hùng: Ngay sau khi khai trương cũng có những khách hàng tìm tới chúng tôi yêu cầu đòi nợ thuê. Tôi nói vui tôi đòi nợ đó nhưng phải có bản án đã có hiệu lực. Tuy nhiên, khi hoạt động sẽ phải linh hoạt hơn, đặc biệt trong thi hành án, ví dụ vấn đề cưỡng chế có thể sẽ “vấp”. Chức năng của TPL được cưỡng chế, nhưng phải có phương án và được phê duyệt của Trưởng Thi hành án. Tôi hứng thú với lập vi bằng và thi hành án, còn tống đạt thì không. Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang có khoảng 30% thời gian là tống đạt, tôi cho rằng 30% là xác minh thi hành án. Nếu không xác minh, không có kết quả thì không thể thi hành.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Theo thông tin từ Sở Tư pháp TP.HCM, từ ngày 1 đến ngày 30-6, Sở Tư pháp TP.HCM sẽ bắt đầu phát hành và tiếp nhận hồ sơ đăng ký thành lập văn phòng công chứng trên địa bàn các huyện.
Số lượng và địa bàn thành lập các văn phòng công chứng cụ thể như sau: Củ Chi, Bình Chánh thành lập ba văn phòng; Cần Giờ, Hóc Môn thành lập hai văn phòng; Nhà Bè thành lập một văn phòng.
4. Trang web Vtc.vn có bài Đề nghị truy tố 2 cán bộ thi hành án về “kỳ án” đấu giá. Bài báo phản ánh: Ngày 28/5, Cơ quan điều tra - VKSND Tối cao có kết luận điều tra về vụ án, đề nghị truy tố đối với các bị can Nguyễn Văn Tám (nguyên Phó trưởng THADS tỉnh Tiền Giang), Lê Tấn Trung (nguyên Trưởng phòng nghiệp vụ thi hành án tình Tiền Giang) về tội “Ra quyết định trái luật, quy định”. Cơ quan tố tụng cũng kiến nghị phải xử lý kỷ luật đối với các ông Nguyễn Văn Quyết (Trưởng Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Tiền Giang), Lê Anh Dũng (Phó trưởng THADS tỉnh Tiền Giang), Phạm Văn Khiêm (Giám đốc Trung tâm DVBĐGTS tỉnh Tiền Giang), Lê Văn Chín (Trưởng phòng Kiểm sát thi hành án - VKSND tỉnh Tiền Giang), Nguyễn Văn Tính (Phó Viện trưởng VKSND tỉnh Tiền Giang).
VKSND Tối cao nhận định: Việc soạn thảo, ban hành văn bản trái pháp luật của Tám và Trung là nguyên nhân dẫn đến việc khiếu kiện đông người, làm mất trật tự trị an xã hội. Theo điều tra, thực hiện việc bán đấu giá tài sản để thi hành án, ngày 14/6/2000, ông Nguyễn Văn Quyết - Trưởng Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh này đã ký quyết định kê biên căn nhà số 17, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đồng thời phân công Lê Tấn Trung - Chấp hành viên - Trưởng phòng nghiệp vụ và tổ chức Thi hành án dân sự tỉnh Tiền Giang thực hiện quyết định này. Tiếp đó, Lê Tấn Trung và ông Phạm Văn Khiêm - Giám đốc Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Tiền Giang tiến hành hoàn tất các thủ tục để bán đấu giá căn nhà trên.
Tháng 12/2000, bà Cao Quế Hoa trúng đấu giá mua căn nhà nêu trên với giá 206 triệu đồng với cam kết giữa các bên quy định ngày 18/1/2001 là hạn cuối cùng để bên sở hữu tài sản có thể chuộc lại nhà và đơn xin mua lại tài sản phải có chứng nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú. Sau thời hạn trên, ngày 31/1/2001, Trung tâm DVBĐGTS đã lập văn bản xác nhận bà Hoa là người mua được tài sản để làm cơ sở chuyển quyền sở hữu nhà số 17. Tuy vậy, ngày 12/2/2001, bà Hoa mang tiền đến nộp theo thư mời của Trung tâm DVBĐGTS thì bị từ chối vì chủ cũ có đơn xin chuộc lại nhà (!).
Trước đó, ngày 2/2/2001, ông Nguyễn Văn Thừa - đại diện cho chủ sở hữu nhà số 17 - đã có đơn xin chuộc lại căn nhà này. Không những thế, mặc dù thời điểm ông Thừa nộp đơn đã quá hạn 15 ngày và đơn không có xác nhận của chính quyền địa phương nhưng ngày 12/2/2001 ông Phạm Văn Khiêm vẫn ký công văn đề nghị THADS tỉnh Tiền Giang cho ông Thừa chuộc lại nhà. Ngày 20/2/2001, VKSND tỉnh có công văn hồi đáp trưởng THADS tỉnh Tiền Giang với nội dung đồng ý đề nghị của THADS tỉnh: cho ông Thừa chuộc lại nhà số 17. Công văn này do Lê Văn Chín (khi đó là Trưởng phòng kiếm sát Thi hành án - VKSND tỉnh) soạn thảo để ông Nguyễn Văn Tính (Phó Viện trưởng VKSND tỉnh) ký.
Trong khi đơn thư tố cáo của bà Hoa chưa được giải quyết, ông Lê Tấn Trung - chấp hành viên thụ lý THA soạn thảo văn bản để ông Nguyễn Văn Tám - phó trưởng THA ký quyết định cho ông Thừa chuộc lại nhà. Sau khi được nhận lại nhà, ông Thừa đã báo cho người khác. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 16/5/2005, TAND tỉnh Tiền Giang đã nhận định: Quyết định của Phòng THADS tỉnh Tiền Giang cho ông Nguyễn Văn Thừa chuộc lại tài sản đã bán đấu giá là “không hợp pháp cả về hình thức lẫn nội dung” và tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm. Tiếp đó, cuối năm 2007, Thanh tra Chính phủ cũng khẳng định quyết định của Phòng THADS tỉnh Tiền Giang cho ông Thừa chuộc lại nhà là “thể hiện sự tùy tiện, thiếu thận trọng, cân nhắc trong việc thực hiện cam kết trong biên bản, không tôn trọng quyền lợi hợp pháp của bà Cao Quế Hoa”.Sau khi có ý kiến kết luận của Thanh tra Chính phủ, đầu tháng 2/2008 UBND tỉnh Tiền Giang đã nhìn nhận khiếu kiện của bà Cao Quế Hoa là có cơ sở, đồng thời chỉ đạo Sở Tư pháp tiến hành các thủ tục hủy quyết định sai trái của Phòng THADS tỉnh Tiền Giang, công nhận kết quả trúng đấu giá của bà Hoa.
5. Báo Hà Nội mới có bài Góc nhìn cải cách: Nút thắt trong luật. Bài báo phản ánh: Luật Quản lý thuế có hiệu lực từ ngày 1-7-2007, gồm 14 chương, 120 điều, quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý thuế nhằm bảo đảm phục vụ hỗ trợ người nộp thuế và giám sát quá trình tuân thủ pháp luật thuế có hiệu quả.
Tuy nhiên, trong luật này còn một số điểm chưa phù hợp với thực tế, gây khó khăn cho cơ quan thực hiện. Cụ thể, Điều 110 quy định, đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; hành vi chậm nộp tiền thuế; hành vi khai thiếu nghĩa vụ thuế, thời hiệu xử phạt là 5 năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện. Điều này có thể dẫn tới tình trạng doanh nghiệp chây ỳ, cố tình không nộp thuế đúng hạn, tìm cách chậm nộp quá 5 năm để không bị xử phạt. Tương tự, theo Điều 93 thì các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế bao gồm: trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế tại Kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; yêu cầu phong tỏa tài khoản; khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật để thu đủ tiền thuế, tiền phạt…
Nhưng các biện pháp này không dễ thực hiện bởi đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, liên quan đến nhiều thủ tục hành chính và tốn khá nhiều thời gian. Đơn cử như việc phong tỏa tài khoản chẳng hạn, hiện nay việc mở tài khoản tại các ngân hàng khá dễ dàng, trong khi cơ quan thu thuế khó mà biết hết các tài khoản của doanh nghiệp để đề nghị phong tỏa. Bên cạnh đó, Điều 45 của luật này quy định: trong trường hợp người nộp thuế vừa có số tiền thuế nợ, tiền thuế truy thu, tiền thuế phát sinh, tiền phạt thì việc thanh toán được thực hiện theo thứ tự nộp tiền thuế nợ trước, tiếp đến tiền thuế truy thu, tiền thuế phát sinh, tiền phạt. Đây cũng là vấn đề khó thực hiện đồng bộ vì hệ thống phần mềm tra cứu ở một số nơi chưa đáp ứng yêu cầu.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng Luật Quản lý thuế như cơ chế phối hợp giữa các đơn vị ngoài ngành chưa tốt; tổ chức bộ máy và năng lực cán bộ còn hạn chế; nhiều doanh nghiệp vẫn tìm "kẽ hở" để lách luật... Song điều quan trọng là cần có văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện Luật Quản lý thuế một cách cụ thể, rõ ràng. Có như vậy thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như công tác quản lý của cơ quan chức năng mới thuận lợi, đạt được hiệu quả như mong muốn.