Điểm tin báo chí sáng ngày 17 tháng 7 năm 2009

17/07/2009
Trong buổi sáng ngày 17/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Phụ nữ phản ánh: Sáng 16/7, vào ngày làm việc đầu tiên, UBTVQH đã cho ý kiến về dự án Luật Khám bệnh, chữa bệnh; dự án Luật Người cao tuổi. Phó chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng điều khiển phiên họp.
Nhiều đại biểu (ĐB) đã tán thành tên gọi của Luật Khám bệnh, chữa bệnh cũng như việc cấp chứng chỉ hành nghề cho cán bộ y tế, cấp giấy phép hoạt động cho cơ sở khám chữa bệnh (KCB). Tên gọi Luật KCB đã tạo ra hành lang pháp lý để giải quyết một số vướng mắc trong hoạt động KCB mà từ trước đến nay, chưa có văn bản luật nào quy định đầy đủ. Các ĐB cũng đồng tình chỉ cấm công chức, viên chức ngành y đứng tên thành lập, quản lý, điều hành cơ sở KCB tư mà không cấm họ tham gia hành nghề KCB tư nhân, để giảm tải cho BV công, tận dụng chất xám, đáp ứng nhu cầu KCB của người dân. Về cấp giấy chứng chỉ hành nghề cho cán bộ y tế, nhiều ĐB nhất trí quy định của dự thảo Luật là định kỳ 5 năm một lần và có giá trị toàn quốc. Tuy nhiên, một số ĐB lại đề nghị chỉ nên cấp chứng chỉ hành nghề một lần, nhưng phải tăng cường thanh tra, kiểm tra. Vì nếu 5 năm cấp một lần, sẽ gây tốn kém và phiền phức cho cơ quan quản lý Nhà nước cũng như người hành nghề. Hầu hết các ĐB đều đề nghị cấp giấy phép hoạt động cho cả cơ sở y tế công và tư. Vì như vậy sẽ đảm bảo sự bình đẳng giữa cơ sở KCB của Nhà nước và cơ sở KCB tư nhân.
Đối với dự án Luật Người cao tuổi, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều ĐB cho rằng, độ tuổi xác định người cao tuổi là 60. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại đề nghị nâng lên 65 hoặc 70 tuổi, phân biệt độ tuổi theo nông thôn, đô thị, nam, nữ. Các ĐB cũng nhất trí nên hỗ trợ giảm giá một số dịch vụ, nhằm đáp ứng một phần nhu cầu chính đáng đối với nhóm không còn tham gia lao động. Các ngày làm việc tiếp theo, UBTVQH sẽ cho ý kiến về phương án sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ bổ sung năm 2009; nghe báo cáo về việc chuẩn bị dự án đầu tư xây dựng Nhà Quốc hội; đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm kỳ họp thứ 5 và cho ý kiến bước đầu về việc chuẩn bị kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 12.
2. Trang web Đài Tiếng nói Việt Nam phản ánh: ngày 16/7, tại Hà Nội, Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương tổ chức Hội nghị đánh giá công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm và thảo luận đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác thanh niên Khối các cơ quan Trung ương”.
6 tháng qua, Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương đã được nhiều kết quả nổi bật. Toàn Đảng bộ luôn lấy nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện công tác chuyên môn là trọng tâm, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh. Đồng thời đã kiện toàn một bước về tổ chức Đảng uỷ Khối, thành lập hai đảng bộ mới trên cơ sở sắp xếp lại 19 tổ chức đảng trực thuộc. Từ đó, nâng cao hiệu quả của công tác lãnh đạo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.
Tuy nhiên, hoạt động của Đảng bộ Khối vẫn còn có một số hạn chế: Có cấp uỷ chưa thật sự coi trọng công tác xây dựng đảng, nội dung sinh hoạt Đảng chưa thật đổi mới, tính chiến đấu, tính giáo dục chưa cao. Hoạt động của một số tổ chức quần chúng còn nặng về hình thức, chất lượng hạn chế.
Hội nghị đề ra 5 mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng bộ Khối thực hiện 6 tháng cuối năm, đó là: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo công tác tư tưởng và triển khai kịp thời, hiệu quả nghị quyết của Đảng, nhất là về công tác tổ chức, cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra giám sát; đẩy mạnh công tác dân vận và lãnh đạo các đoàn thể quần chúng; chú trọng thực hiện có hiệu quả phương hướng, nhiệm vụ đề ra của Đảng bộ đến năm 2010 và chuẩn bị tiến hành đại hội đảng bộ các cấp.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Đất Việt có bài “Công chứng tư bị… chê". Bài báo phản ánh: Chiều 15/7, Sở Tư pháp TP HCM tổ chức giao ban công chứng, theo đó các Phòng Công chứng (PCC - công chứng Nhà nước), Văn phòng Công chứng (VPCC - công chứng tư) hoạt động trên địa bàn TP HCM nêu những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động để tìm ra hướng giải quyết.
Tại buổi giao ban, Trưởng phòng Bổ trợ Tư pháp, Sở Tư pháp TP HCM Trần Văn Bảy cho biết một số VPCC yêu cầu UBND xã, phường, thị trấn chứng thực các văn bản không thuộc thẩm quyền của cấp phường như giấy đồng ý cho cha mẹ được bán tài sản đồng thừa kế, xác nhận về quan hệ huyết thống... Bên cạnh đó, Sở Tư pháp cũng nhận được một số văn bản của UBND quận - huyện đề nghị có ý kiến đối với một số văn bản công chứng chuyển nhượng quyền sở hữu bất động sản mà họ không thể căn cứ vào đó để thực hiện đăng ký nhà, đất được. Ngoài ra có một số VPCC thực hiện công chứng không đúng quy định, như chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu bất động sản không có giấy tờ hợp lệ về nhà, đất; xác định hàng thừa kế không chính xác...
Bà Ngô Minh Hồng, Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, cho rằng thời gian qua nhiều VPCC đã công chứng giao dịch bất động sản một cách “vô tư” và có nhiều sai phạm hết sức cơ bản (như xác định hàng thừa kế). “Đây là hiện tượng đáng báo động”, bà Hồng nói. Ông Đỗ Hà Hồng, Phó trưởng phòng công chứng số 5, cho rằng nếu vì áp lực doanh thu mà VPCC thực hiện sai luật, cạnh tranh không lành mạnh là không ổn. Bởi ngoài việc phạm luật, gây thiệt hại cho khách hàng còn làm ảnh hưởng đến uy tín của các tổ chức công chứng khác. “Cần phải “điểm mặt, chỉ tên” những VPCC vi phạm để mọi người biết”, ông Đỗ Hà Hồng, nhấn mạnh.
Sau khi Luật Công chứng có hiệu lực (từ 1/7/2007), đến nay cả nước có hơn 40 VPCC hoạt động song hành cùng 129 phòng công chứng (Nhà nước). Đây là bước đột phá trong việc xã hội hoá các hoạt động tư pháp, tạo thế cạnh tranh giữa các loại hình công chứng nhằm nâng chất lượng dịch vụ, phục vụ người dân. Tuy nhiên, trong hơn 2 năm qua, do một số quy định vênh nhau nên đã xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa công chứng tư và công chứng công. Đặc biệt là sự phân biệt trong việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất.
Theo Luật Đất đai năm 2003, đối với hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng - cho, thừa kế quyền sử dụng đất, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng Nhà nước. Vì Luật Đất đai khu biệt cụm từ “công chứng Nhà nước” nên khi Luật Công chứng ra đời dù “mở” cho công chứng tư song hành cùng công chứng công nhưng đã bị Luật đất đai “trói” lại. Do vậy, khi triển khai Luật Công chứng, một số cá nhân, tổ chức cho rằng chỉ có PCC mới có thẩm quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất. Do đó, một số cơ quan, tổ chức đã không công nhận hợp đồng, giao dịch do công chứng viên của VPCC chứng thực. Để “mở lối” cho VPCC, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Đức Chính vừa có văn bản gửi UBND các tỉnh, TP trực thuộc trung ương khẳng định: PCC  và VPCC đều có thẩm quyền chứng nhận các hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất và có giá trị pháp lý như nhau.
2. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Chính phủ vừa ban hành nghị định để hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự (Luật đã có hiệu lực từ 1-7-2009). Theo nghị định này, thời hiệu để xin thi hành án là 5 năm, nhưng trong các trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì vẫn có quyền xin thi hành án khi thời hiệu đã hết do thời gian xảy ra các trường hợp bất khả kháng này không bị tính vào thời hiệu.
Nghị định cũng quy định cụ thể các trường hợp nào được coi bất khả kháng, trở ngại khách quan: thiên tai, hỏa hoạn, đương sự công tác tại vùng biên giới, hải đảo, bị tai nạn, ốm nặng... Vẫn theo nghị định, phí thi hành án là 3% trên tổng số tiền, trị giá tài sản thực nhận nhưng tối đa không quá 200 triệu đồng/đơn xin thi hành án. Đương sự có thể được xét giảm, miễn chi phí cưỡng chế thi hành án khi có thu nhập mức không đảm bảo sinh hoạt tối thiểu; thuộc diện gia đình chính sách, có công với cách mạng; neo đơn, tàn tật... Mức miễn, giảm này không vượt quá 50% tổng số chi phí cưỡng chế thi hành án.
Nghị định sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24-8-2009.
3. Trang web Đài Tiếng nói Việt Nam có bài “Một kiểu thi hành án không giống ai”. Bài báo phản ánh: Bà Nguyễn Thị Dung, vợ ông Lê Quang Tâm, ở phường II, thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) có vay ông Phạm Xuân Tân, ở phường 7, thành phố Đà Lạt hơn 100 triệu đồng. Do bà Dung không thực hiện trả nợ theo đúng thời gian cam kết, nợ gốc cộng lãi đã phát sinh lên đến 450 triệu đồng. Ông Phạm Xuân Tân đã yêu cầu bà Dung viết giấy vay số tiền này kể từ ngày 10/12/2002 và cam kết đến ngày 10/3/2004 sẽ trả đủ, đồng thời bà Dung phải thế chấp một sổ sở hữu nhà đất của gia đình tại 71 Nguyễn Văn Trỗi, phường 2, thành phố Đà Lạt cho ông Phạm Xuân Tân đến khi trả xong nợ.
Tại bản án số 105, ngày 30/9/2004 của Toàn án nhân dân tỉnh Lâm Đồng kết luận: yêu cầu bà Nguyễn Thị Dung phải có trách nhiệm thanh toán cho ông Phạm Xuân Tân số tiền hơn 460 triệu đồng. Kể từ ngày ông Phạm Xuân Tân có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Dung chưa thanh toán xong khoản tiền trên thì phải chịu thêm khoản lãi suất nợ quá hạn theo Ngân hàng nhà nước quy định. Đồng thời, buộc ông Phạm Xuân Tân có trách nhiệm hoàn trả cho ông Lê Quang Tâm và bà Dung giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất số 71 Nguyễn Văn Trỗi, phường 2, thành phố Đà Lạt.
Trên cơ sở đó, ngày 9/11/2004, Thi hành án thành phố Đà Lạt ra Quyết định thi hành án số 46, buộc ông Phạm Xuân Tân trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất nói trên cho ông Tâm và bà Dung. Thế nhưng, điều ngạc nhiên là khi ông Tân đã thực hiện giao trả sổ nhà đất của ông Lê Quang Tâm cho Thi hành án thành phố Đà Lạt, thì cơ quan này lại tạm giữ, không giao trả lại cho ông Tâm. Không những thế, đến ngày 8/7/2005, Thi hành án thành phố Đà Lạt lại tiến hành cưỡng chế kê biên một nửa căn nhà 71 Nguyễn Văn Trỗi nhằm thi hành án đối với bà Dung. Bất bình, ông Tâm làm đơn khiếu nại. Ngày 25/10/2005, Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng đã yêu cầu Thi hành án thành phố Đà Lạt thu hồi biên bản kê biên nói trên và xử lý lại theo đúng trình tự thủ tục, nhưng Thi hành án thành phố Đà Lạt vẫn không thực hiện.
Ông Lê Quang Tâm, cho biết: “Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng nay trả lời thế này, mai trả lời thế khác, trái ngược nhau hoàn toàn. Trong 5 năm qua tôi đã gửi rất nhiều đơn kêu nhưng đến nay vẫn chưa nhận được bất kỳ một bản hồi âm nào”.
Do sổ nhà đất đang bị Thi hành án thành phố Đà Lạt tạm giữ và ra thông báo niêm yết tài sản tại UBND phường nên ông Tâm không thể bán nhà để tạo điều kiện cho bà Dung trả nợ, ông Tâm gửi đơn cầu cứu đến cơ quan Thi hành án tỉnh Lâm Đồng. Ngày 24/9/2007, một lần nữa Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng ra quyết định yêu cầu Thi hành án thành phố Đà Lạt tiến hành thực hiện theo đúng như quyết định của bản án 105, ngày 30/9/2004 của Toàn án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; đồng thời yêu cầu thực hiện theo đúng với trình tự quy định của pháp luật. Tuy nhiên, quyết định trên không những không được thi hành mà nghiêm trọng hơn, ngày 1/4/2008, Thi hành án thành phố Đà Lạt lại tiến hành lập Hội đồng cưỡng chế, tổ chức kê biên toàn bộ nhà và đất tại số 71 Nguyễn Văn Trỗi của ông Lê Quang Tâm. Điều đáng nói là trong biên bản kê biên tài sản này, Chủ tịch Hội đồng cưỡng chế lại không ký tên vào biên bản?!
Mặc dù Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã khẳng định Thi hành án thành phố Đà Lạt có dấu hiệu vi phạm pháp luật tại văn bản số 269 ngày 04/4/2008, đồng thời yêu cầu Trưởng Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng chỉ đạo Thi hành án thành phố Đà Lạt giải quyết vụ khiếu nại, thế nhưng, từ đó đến nay, Thi hành án thành phố Đà Lạt vẫn kiên quyết thực hiện thi hành án theo cách riêng của mình. Cụ thể, Thi hành án thành phố Đà Lạt đã âm thầm phối hợp với các cơ quan liên quan cấp lại Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất mới cho ông Lê Quang Tâm và bà Nguyễn Thị Dung, trong khi ông Tâm và bà Dung không có nhu cầu và không hề hay biết về việc này.
Đây là hành động liệu có thuộc thẩm quyền và quy định của pháp luật hay không? Đại diện Thi hành án thành phố Đà Lạt, ông Nguyễn Long Vân, Phó Trưởng Thi hành án thành phố Đà Lạt, lý giải rất chung chung và mâu thuẫn: Khi thì cho rằng “Luật thi hành án không có quy định cơ quan thi hành án tự đứng ra làm Giấy chứng nhận quyền sở hữu mới”, lúc thì khẳng định “việc cấp lại sổ sở hữu này không trái với quy định”?! Thế nhưng, nói về số tiền đóng thuế trước bạ khi làm lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới cho ông Tâm và bà Dung được Thi hành án thành phố Đà Lạt trích từ nguồn ngân sách nào?  Thì ông Vân không trả lời được.
Không chỉ dừng lại ở đó, ngày 17/3/2009, Thi hành án thành phố Đà Lạt lại tiến hành định giá tài sản nhà và đất tại 71 Nguyễn Văn Trỗi, với giá 3,9 tỷ đồng. Đồng thời, gia hạn trong thời gian 3 tháng, nếu ông Tâm không mua lại tài sản thì Thi hành án thành phố Đà Lạt sẽ bán đấu giá. Điều đáng nói là việc định giá tài sản này lại thấp hơn một nửa so với giá thị trường lúc bấy giờ.
Ở thành phố Đà Lạt có gần chục trường hợp cũng vì vay nóng đã phải rơi vào tình cảnh tan cửa nát nhà. Điều đáng nói là hầu hết những trường hợp nói trên đều mất đi quyền tự do định đoạt tài sản của chính mình, không có cơ hội tự đứng ra bán nhà để trả nợ. Và trường hợp của gia đình ông Lê Quang Tâm cũng sẽ không ngoại lệ, nếu Cơ quan Thi hành án thành phố Đà Lạt vẫn bất chấp mọi sự chỉ đạo của cấp trên, thực hiện việc thi hành án theo cách riêng của mình.
4. Báo điện tử VnMedia có bài Văn bản luật kinh doanh chồng lên cao quá đầu giám đốc!. Bài báo phản ánh: Nhiều cơ quan nhà nước ban hành các chính sách liên quan đến vận mệnh của hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn doanh nghiệp mà không hề hỏi ý kiến của họ.
Vụ trưởng vụ Pháp chế bộ Công thương Trương Quang Hoài Nam thỉnh thoảng lại phải “đối đầu” với năm người em, vốn là chủ các doanh nghiệp tư nhân nhỏ về cách mà ông và đồng nghiệp soạn thảo các văn bản pháp luật mà đối tượng là họ. Những người em ruột này, ông kể, cứ có dịp sum họp gia đình, lại cùng đứng về một phe đả kích anh trai: “chính sách của ngành công thương của anh cứ lung tung phèng lên, chả ra sao cả”. Ông kể: “Các em tôi phê tôi lắm”. Nhưng khi ông hỏi ngược lại, sao các chú không góp ý, thì tất cả đều trả lời: “Thời gian đâu mà góp ý với anh”. Là các chủ doanh nghiệp nhỏ, các em ông đều làm tất cả mọi việc, từ quản lý, đàm phán hợp đồng, thủ quỹ, và kể cả bán hàng, tức là rất bận.
Về phần mình, với vị trí là quan chức chủ chốt chắp bút cho nhiều chính sách liên quan đến doanh nghiệp ở một bộ kinh tế lớn nhất và ảnh hưởng nhất Việt Nam, bản thân ông Nam cũng rất bận rộn. Ông Nam và các em đều hiểu tình thế của nhau, nhưng những cuộc tranh luận kiểu như vậy vẫn luôn kéo dài khi họ có cơ hội gặp mặt gia đình.
Câu chuyện của ông Nam là một ví dụ rất điển hình về việc thiếu hợp tác giữa các cơ quan nhà nước, và cộng đồng doanh nghiệp trong việc xây dựng các văn bản pháp luật kinh doanh. Nhiều cơ quan nhà nước ban hành các chính sách liên quan đến vận mệnh của hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn doanh nghiệp mà không hề hỏi ý kiến của họ. Về phần mình, nhiều doanh nghiệp lại không có ý thức tham gia phản biện lại các chính sách đó trong quá trình soạn thảo. Kết cục là, trong không ít trường hợp, văn bản pháp luật đã không giữ được tinh thần chính của nó khi đi vào cuộc sống, ảnh hưởng đến cả Nhà nước và doanh nghiệp. Mối quan hệ nhân quả của tình trạng này cũng gần với tình trạng “con gà và quả trứng”. Nhưng dù sao, người thiệt nhất vẫn là cộng đồng doanh nghiệp: họ không biết đến những văn bản mà họ là đối tượng áp dụng. Một khảo sát của viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) công bố đầu năm nay cho thấy, tới 80 – 90% trong gần 2.500 doanh nghiệp được hỏi không hiểu biết gì về các luật đầu tư, bảo hiểm, hải quan, hợp tác xã, môi trường, đất đai,… một tỷ lệ rất cao. Viện trưởng CIEM Đinh Văn Ân nhận xét: “Hiểu biết của doanh nghiệp về các luật và quy định của Nhà nước là rất khiêm tốn. Đáng lo là hiểu biết đó đang mất dần đi theo thời gian”.
Nhưng doanh nghiệp làm sao góp ý cho hết khi Nhà nước ban hành quá nhiều các văn bản pháp luật, mà theo thống kê của ông Trần Hữu Huỳnh, trưởng ban Pháp chế phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), tổng cộng lên tới gần 20.000. Chỉ riêng các văn bản liên quan đến các hoạt động kinh doanh có điều kiện cũng đã có tới khoảng 400. Giơ tay cao hết cỡ lên trên, ông nói: “Các văn bản đó chồng lên nhau đã cao quá đầu một ông doanh nghiệp. Thế thì làm sao họ có thời gian để đọc mà góp ý”.
Trong khi đó, vụ trưởng vụ Pháp luật văn phòng Chính phủ Phạm Tuấn Khải lại đổ lỗi cho doanh nghiệp: “Thái độ của các doanh nghiệp với các văn bản pháp luật là như thế nào? Họ cần thông tin từ Nhà nước, nhưng lại chưa cởi mở với với Nhà nước vì một số làm ăn chưa minh bạch và công khai. Họ sợ các chính sách”. Tuy vậy, ông Khải khẳng định tinh thần chung của Chính phủ là chính sách phải tạo điều kiện cho cộng đồng doanh nghiệp.
Theo tinh thần này, Chính phủ đã cố gắng đưa ra can thiệp nhiều hơn nhằm tháo gỡ những vướng mắc cho doanh nghiệp. Theo thống kê của văn phòng Chính phủ, đã có tới 17.247 văn bản các loại, trong đó có 35 chỉ thị, 2.034 quyết định của Thủ tướng được ban hành chỉ riêng trong năm ngoái nhằm điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước. Các chuyên gia kinh tế của VCCI ghi nhận, nay thì cứ có chuyện gì liên quan đến pháp luật không giải quyết được ở cấp dưới, thì nhiều hiệp hội doanh nghiệp lại gửi ý kiến trực tiếp lên Thủ tướng.
Sau nhiều thăng trầm của lịch sử trong các thập niên trước, ngày nay Việt Nam có khoảng 270 ngàn doanh nghiệp tư nhân trong đó khoảng 96% là vừa và nhỏ. Làm sao tiếng nói của họ được tôn trọng trong quá trình các cơ quan nhà nước soạn thảo và ban hành các văn bản đến họ là điều rất đáng để nói. Nhưng những gì trên thực tế là gây quan ngại. Theo các nghiên cứu của VCCI phối hợp với một dự án do Mỹ tài trợ, chỉ có gần 9% doanh nghiệp dân doanh cho biết chính quyền tỉnh có tham vấn ý kiến của họ về những thay đổi về chính sách và pháp luật, trong khi có tới gần 63% tiết lộ phải có “quan hệ” để có được các tài liệu của tỉnh. Đây là vấn đề lớn trong bối cảnh các cấp chính quyền ở địa phương vẫn được quyền ban hành các văn bản pháp luật, song song với các bộ ngành Trung ương.
Về phần mình, những cuộc tranh luận về chính sách và cuộc sống của ông Nam với các em vẫn có thể chưa dừng lại. Đó là khía cạnh gia đình. Còn ở góc độ lớn hơn, ông hiểu cần phải làm gì. Ông nói: “Tôi thực sự mong muốn có tranh luận về các dự thảo chính sách pháp luật để tìm ra cách thức cho doanh nghiệp, nhưng thú thực khi soạn thảo các văn bản, tôi cũng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là về kinh phí (để phổ biến chúng). Về phần mình, các doanh nghiệp rất ít khi đưa ra tiếng nói của mình. Đó là lý do mà nhiều chính sách đưa ra đi ngược lại với mong muốn”.
Báo cũng có bài Vướng mắc vì luật khi đăng ký tên doanh nghiệp”. Bài báo phản ánh: Luật Doanh nghiệp áp dụng gần ba năm nhưng vẫn còn nội dung thực thi gây vướng mắc, khó khăn cho doanh nghiệp. Ông Lê Cao Thắng, một chủ doanh nghiệp, bức xúc khi nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh Công ty TNHH một thành viên Cao Thắng của mình tại tỉnh B.
Cán bộ Phòng đăng ký kinh doanh nói rằng tên Cao Thắng của công ty trùng với tên danh nhân Cao Thắng, hẹn anh 10 ngày sau sẽ trả lời vì phải trao đổi với cấp trên. Đến hẹn, anh bị từ chối cấp giấy đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp dù anh đã giải thích rằng chỉ lấy tên anh đặt tên cho doanh nghiệp. Anh được đề nghị đặt tên khác hoặc lấy cả họ và tên Lê Cao Thắng đặt cho doanh nghiệp.
Về những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp, điều 32, khoản 3, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc”. Điều 11, khoản 3, Nghị định số 88/2006/NĐ-CP quy định: “Không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc, tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp”. Thế nào là dùng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc đã không được Nghị định số 88/2006/NĐ-CP giải thích cụ thể, trái lại còn cấm “dùng tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp”. Quy định “không dùng tên danh nhân để đặt tên riêng cho doanh nghiệp” còn nhiều điều phải bàn.
Thứ nhất, từ “dùng” được hiểu như thế nào cho đúng? Một người đặt tên doanh nghiệp theo tên của mình có khác với việc dùng tên danh nhân để đặt cho doanh nghiệp?
Thứ hai, “tên danh nhân” được hiểu như thế nào? Theo tập quán của Việt Nam, tên được hiểu chỉ là âm tiết cuối cùng trong dòng chữ bao gồm cả họ và tên. Nhà làm luật phải quy định rõ “không được dùng họ và tên đầy đủ của danh nhân để đặt tên cho doanh nghiệp” mới đúng.
Thứ ba, giới hạn phạm vi được hiểu là danh nhân như thế nào? Một danh nhân (nhất là các danh nhân thời xưa, các vị vua chúa...) thường có nhiều tên gọi khác nhau (ví dụ vua Quang Trung còn có tên khác là Bắc Bình Vương, Nguyễn Huệ...), vậy danh nhân được lấy theo tên nào, hay lấy tất cả các tên gọi được sử dụng? Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin phát hành năm 2005, “danh nhân” được hiểu là “người nổi tiếng”. Vậy những người nổi tiếng như thế nào, đến mức nào, ở phạm vi nào, lĩnh vực nào, từ năm bao nhiêu thì được gọi là người nổi tiếng?
Thứ tư, việc “không dùng tên danh nhân đặt tên cho doanh nghiệp” chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp đăng ký và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp 2005 hay áp dụng cho cả các chủ thể kinh doanh khác như: hộ kinh doanh cá thể, hợp tác xã...? Hiện nay, có rất nhiều biển hiệu như nhà sách Nguyễn Văn Cừ, kính mắt Phạm Ngọc Thạch, phòng vé Đinh Tiên Hoàng... mà không thấy cơ quan có trách nhiệm can thiệp! Doanh nghiệp bị cấm dùng tên danh nhân để đặt tên, còn các cơ sở giáo dục, tổ chức khác thì sao?
Quy định chung chung về việc đặt tên cho doanh nghiệp đã dẫn đến tình trạng tùy tiện xử lý của các cơ quan đăng ký kinh doanh và phụ thuộc vào “cảm quan” của cán bộ tiếp nhận hồ sơ, gây khó khăn cho doanh nghiệp. 
Trên đây là điểm báo sáng ngày 17/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng.


File đính kèm