Điểm tin báo chí sáng ngày 07 tháng 7 năm 2009

07/07/2009
Trong buổi sáng ngày 07/7/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:

I. Thông tin về những sự kiện nổi bật của đất nước:

1. Báo Thanh niên phản ánh: Ngày 6.7, tại Hà Nội, Ban chỉ đạo T.Ư Cuộc vận động (CVĐ) "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" đã tổ chức hội nghị sơ kết CVĐ 6 tháng đầu năm và triển khai công tác 6 tháng cuối năm. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh - Trưởng ban chỉ đạo T.Ư chủ trì hội nghị.

Kết luận hội nghị, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn của CVĐ, đây là CVĐ lâu dài, là nội dung rất quan trọng để góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội ta. 6 tháng đầu năm, CVĐ đã đi vào chiều sâu trong Đảng, trong xã hội, nghiêm túc, thường xuyên, đi vào nền nếp, phạm vi được mở rộng, có chuyển biến tích cực hơn. Việc học tập và làm theo gương Bác thể hiện cụ thể hơn, xuất hiện cách làm sáng tạo, có tác dụng giáo dục thiết thực. Nếu kiên trì làm tốt, CVĐ sẽ đi vào cuộc sống, mỗi người dân sẽ có việc cụ thể làm theo Bác. Các bộ ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị cần phát hiện những gương cụ thể thiết thực để nhân rộng thành phong trào chung. CVĐ thực sự đi vào lòng người, là nguyện vọng thiết tha của quần chúng, đảng viên. Đề cập đến công việc 6 tháng cuối năm, Tổng bí thư cho rằng, cần phát huy những kết quả đã đạt được, tập trung chỉ đạo khắc phục những yếu kém, làm tốt hơn nữa đưa CVĐ đi vào nền nếp, hướng về cơ sở, đạt chất lượng cao hơn. Tổng bí thư nhấn mạnh: để tiếp tục đưa CVĐ đi vào chiều sâu, cần đề cao vai trò gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, đảng viên.

Công tác khen thưởng, biểu dương theo Tổng bí thư, không tách rời phong trào thi đua chung, cần có hình thức và phần thưởng xứng đáng. Việc chuẩn bị tài liệu giáo dục tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để đưa vào giảng dạy đại trà trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống học viện chính trị, hành chính, hệ thống trường chính trị cần gọn, có hội đồng thẩm định, đảm bảo thông tin cần thiết, cung cấp kiến thức cơ bản cho thế hệ thanh niên, tuổi trẻ, sớm đưa vào giảng dạy trong các nhà trường.

2. Thông tấn xã Việt Nam có bài: “Công bố bộ thủ tục hành chính cơ quan đại diện”. Bài báo phản ánh:Ngày 6/7, tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao đã tổ chức Lễ công bố Bộ thủ tục hành chính áp dụng tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.

Bộ thủ tục này thuộc Đề án 30 (Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010).  Sau khi nhấn nút đưa Bộ thủ tục hành chính này lên trang web của Bộ Ngoại giao, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm phát biểu nêu rõ, việc công khai, minh bạch trình tự thực hiện các thủ tục hành chính, mẫu đơn, mẫu tờ khai, lệ phí... sẽ góp phần tạo thuận lợi cho bà con Việt kiều làm ăn, sinh sống ở sở tại cũng như trong các hoạt động hướng về quê hương. Phó Thủ tướng nhấn mạnh, đây là một bước đi nhằm cụ thể hóa Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, thể hiện sự coi trọng của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài - một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Hiện các bộ, ngành, địa phương trong cả nước đang nỗ lực hoàn thành giai đoạn 1 của Đề án 30 là thống kê các thủ tục, và dự kiến đến tháng 9 tới sẽ công khai trên cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Bộ Ngoại giao là cơ quan đi đầu trong cả nước về công tác này và đã công khai Bộ thủ tục hành chính chung áp dụng tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài với tổng cộng 81 thủ tục hành chính (trong đó, có bộ 49 thủ tục hành chính chung áp dụng tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và 32 thủ tục thực hiện ở trong nước) kèm theo các biểu mẫu và hồ sơ, văn bản pháp lý liên quan đến các vấn đề như: hộ chiếu, giấy thông hành, khai sinh, quốc tịch, con nuôi, kết hôn./.

II. Những thông tin liên quan đến công tác tư pháp:

1. Báo Người lao động có bài: “Phổ biến pháp luật cho 15.000 CN”. Bài báo phản ánh: Ngày 6-7, ông Vương Phước Thiện, Phó Ban Tuyên giáo LĐLĐ TPHCM, cho biết: Từ năm 2008 đến nay, LĐLĐ các quận, huyện đã phối hợp các ngành chức năng phổ biến pháp luật cho 15.000 lượt công nhân (CN) ở các tổ tự quản tại các khu nhà trọ.

LĐLĐ các quận, huyện còn phối hợp với lực lượng công an phát động phong trào đấu tranh và tố giác tội phạm, góp phần vào phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc. Điển hình  tổ CN tự quản huyện Hóc Môn cung cấp 19 tin cho công an làm cơ sở điều tra khám phá 7 vụ trộm, thu hồi tài sản cho người bị hại trị giá 114 triệu đồng; tổ CN tự quản quận Tân Bình cung cấp 128 tin có giá trị cho công an, bắt giữ 62 tên tội phạm.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Hơn 6.300 vụ phạm tội kinh tế, tham nhũng, trong đó có gần 5.600 vụ buôn lậu, buôn bán hàng cấm trong sáu tháng đầu năm đã được cảnh sát điều tra về tội phạm kinh tế và chức vụ phát hiện. Theo Tổng cục Cảnh sát, số tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm có yếu tố nước ngoài đã gia tăng. Lực lượng cảnh sát điều tra đã phát hiện một số vụ lừa đảo, chiếm đoạt tài sản thông qua thủ đoạn hứa hẹn cho doanh nghiệp vay vốn, sau đó chiếm đoạt tiền đặt cọc.

Báo cũng có bài:“Lần lữa không thi hành án”. Bà Phạm Thị Kim Hồng (Việt kiều Úc) có tranh chấp quyền sở hữu căn nhà 232 Ba Cu, TP Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu với người em tên là H. Tháng 11-2000, bà H. đứng tên mua căn nhà này để mở tiệm bán bánh ngọt. Cuối năm 2007, bà Hồng đòi bà H. giao trả nhà với lý do chính bà mới là người bỏ tiền ra mua nhà, còn bà H. chỉ đứng tên giùm.

Án sơ thẩm tháng 7-2008 của TAND TP Vũng Tàu đã xử cho bà Hồng thắng kiện. Án phúc thẩm tháng 10-2008 của TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng xử y án sơ thẩm, buộc bà H. trả lại nhà cho bà Hồng.

Ngày 10-6-2009, do bà H. không tự nguyện thi hành án nên Thi hành án (THA) dân sự TP Vũng Tàu đã ra quyết định cưỡng chế bà THA. Theo kế hoạch, việc cưỡng chế sẽ được tiến hành vào ngày 23-6. Nhưng viện lẽ cần có thời gian di dời tài sản, bà H. xin lùi việc trả nhà vào ngày 15-7. Mặc dù việc THA bị chậm trễ đến mấy tháng nhưng THA dân sự TP Vũng Tàu vẫn chấp nhận đề nghị này của bà H.

Không đồng ý, bà Hồng đã khiếu nại. Ngày 22-6, trong khi vụ việc đang được Ban chỉ đạo THA dân sự tỉnh xem xét thì Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh đã gửi công văn đề nghị ban và THA dân sự tỉnh tạm hoãn thi hành án để chờ VKSND tỉnh kiến nghị cấp tối cao kháng nghị giám đốc thẩm. Điều đáng nói là trước đó, vào ngày 15-5, VKSND tỉnh đã gửi công văn đến THA dân sự TP Vũng Tàu khẳng định: “Trong quá trình nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nội dung đơn khiếu nại của bà H., VKSND tỉnh nhận thấy không có cơ sở để báo cáo kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”.

Đến ngày 23-6, THA dân sự tỉnh chính thức có công văn cho biết “chưa thể thi hành bản án trên”. Cơ quan này lý giải: Cả hai bản án của tòa hai cấp chỉ nêu bà Hồng có đủ điều kiện được quyền sở hữu nhà theo luật định nhưng không nêu các điều kiện, quy định để bà Hồng được quyền sử dụng đất nông nghiệp tại Việt Nam. Bởi lẽ diện tích đất mà trên đó có căn nhà 232 Ba Cu gồm có hai phần: một phần là đất ở và một phần là đất nông nghiệp (hơn 165 m2).

Thực ra, băn khoăn nói trên của THA dân sự tỉnh không hợp lý. “Số phận” của phần đất nông nghiệp nói trên đã được TAND tỉnh xem xét, quyết định trong bản án phúc thẩm. Theo tòa này, hai phần đất trên nằm chung trong một giấy đỏ và tất cả đều là đất đô thị. Trước đây, để được giảm thuế, người bán và bà H. đã tìm cách tách thành hai phần như trên. Thế nhưng phần đất nông nghiệp trên là “đất nông nghiệp trong đô thị, không thể sản xuất nông nghiệp mà thực chất chỉ là sự đối phó của các bên khi làm thủ tục mua bán”. Ngoài ra, Phòng Quản lý đô thị TP Vũng Tàu cũng đã có công văn khẳng định với tòa án “khu đất của nhà 232 Ba Cu là đất đô thị”.

Được biết, ngày 1-7, Ban Pháp chế HĐND tỉnh đã có công văn “đính chính” việc can thiệp trước đây. Sau khi đọc lại hồ sơ và biết được phúc đáp trên của VKSND tỉnh, cơ quan này đề nghị THA dân sự tỉnh và TP Vũng Tàu tiếp tục việc THA.

Như vậy, việc THA giờ chỉ còn phụ thuộc vào THA dân sự TP Vũng Tàu. Đề nghị cơ quan này khẩn trương thi hành dứt điểm việc giao trả nhà cho bà Hồng theo phán quyết của TAND tỉnh.

Báo cũng phản ánh: Mới đây, trong phiên xử một vụ cố ý gây thương tích ở TAND TP.HCM, một nhân chứng đã giơ tay xin tòa cho phép tranh luận với luật sư của nạn nhân.

Nhân chứng cho rằng những điều luật sư trình bày là không đúng với sự thật của vụ án nên ông cần phải nói rõ hơn để luật sư hiểu.

Tuy nhiên, vị chủ tọa cho rằng nhân chứng đã khai về những gì mình biết trong phần xét hỏi nên không cần phải trình bày thêm. Ngoài ra, chủ tọa còn nhấn mạnh: Luật không quy định nhân chứng có quyền tranh luận với kiểm sát viên, luật sư, bị cáo... nên trong phần tranh luận, nhân chứng không được phép có ý kiến. Nghe giải thích xong, nhân chứng trên miễn cưỡng ngồi xuống nhưng vẻ mặt đầy ấm ức.

Sau phiên xử, các luật sư tham gia vụ án đã trao đổi khá lâu về tình huống pháp lý thú vị mà theo họ là hiếm gặp trong tố tụng này.

Một luật sư nói cách điều khiển của chủ tọa là xác đáng bởi luật không quy định nhân chứng được tranh luận. Việc tranh luận phải được hiểu là sự đối đáp giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Nhân chứng chỉ được phép trình bày những gì mắt thấy tai nghe một cách khách quan ở phần xét hỏi chứ không tranh luận để buộc tội hay gỡ tội cho bị cáo.

Một luật sư khác lại bảo dù luật chưa quy định nhưng chủ tọa vẫn nên linh hoạt để cho nhân chứng trình bày thêm. Ở đây, nhân chứng tranh luận không có nghĩa là buộc hay gỡ tội mà họ đang làm chức năng là trình bày lại những gì mắt thấy tai nghe, giúp cho tòa có thêm kênh thông tin để nắm rõ hơn vấn đề. Biết đâu chừng những gì mà nhân chứng nói ở phần tranh luận sẽ làm xuất hiện những tình tiết quan trọng, ảnh hưởng lớn đến phán quyết của tòa. Bởi lẽ lúc này họ cũng đã theo dõi gần hết phiên tòa, có thời gian nghiền ngẫm kỹ hơn về nội dung, bản chất sự việc mà trình bày rõ hơn.

Thiết nghĩ chuyện nhân chứng được phép tranh luận cũng nên được lưu tâm. Việc tranh luận thực chất là để làm rõ vụ án, trong khi người làm chứng được tòa triệu tập cũng chỉ nhằm phục vụ mục đích này. Họ được tranh luận, theo chúng tôi, cái lợi sẽ nhiều hơn cái hại!

3. Báo Đại đoàn kếtcó bài: “Khi bị đơn thua kiện là Ủy ban nhân dân tỉnh”. Theo báo, đã nhiều năm qua, ông Nguyễn Công Đoàn (sinh năm 1938, trú tại số 263A, ấp Trung, phường Bình Trưng Tây, quận 2, TP Hồ Chí Minh) đã gửi nhiều đơn tới các cơ quan chức năng xin yêu cầu thi hành Quyết định giám đốc thẩm số 02 ngày 10-1-2002 của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao để được nhận số tiền bồi thường không lấy gì làm lớn so với hậu quả oan sai mình gánh chịu. Thế nhưng cho đến nay quyết định nói trên... vẫn chưa được thi hành... chỉ vì bị đơn là... UBND tỉnh Bình Dương...

Theo Quyết định số 02/UBTP-DS ngày 10-1-2002 của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân (TAND) Tối cao: Ngày 11-4-1977, UBND tỉnh Sông Bé (cũ) có quyết định số 172/QĐUB tạm giao cho Tổ hợp sản xuất bột cỏ (do ông Nguyễn Công Đoàn đại diện) 50 ha đất tại xã Lai Uyên, huyện Bến Cát, tỉnh Sông Bé để ông Đoàn tổ chức trồng cỏ và sản xuất bột cỏ cung cấp cho tỉnh Sông Bé. Sau khi được giao đất, ông Đoàn đã khai hoang trồng cỏ và xây dựng nhà xưởng để sản xuất. Năm 1980 ông Đoàn đi Hà Nội chữa bệnh, UBND huyện Bến Cát cho rằng ông Đoàn vượt biên nên đã ra Quyết định số 217/QĐ-UB ngày 12-6-1980 kiểm kê và quản lý toàn bộ tài sản trong cơ sở sản xuất của ông Đoàn bao gồm: Nhà xưởng, máy móc, 56,5 ha đồng cỏ voi đang tươi tốt, 150 ha đồng cỏ cải tạo và 13 ha mía. Ngày 10-4-1985, UBND tỉnh Sông Bé ra quyết định số 20/QĐ-UB giao 387 ha đất mà ông Đoàn đã khai hoang cho Trung tâm nghiên cứu trâu và đồng cỏ quản lý sản xuất. Sau khi bị kê biên ông Đoàn có đơn khiếu nại. Năm 1985 Sở Nông nghiệp tỉnh Sông Bé giải quyết trả lại cho ông Đoàn một số tài sản gồm: 100 tấm tole cũ, 5000 viên gạch, một số cột gỗ tròn và 50.000 đồng. Ông Đoàn tiếp tục khiếu nại đến Thanh tra và UBND tỉnh Sông Bé. Chủ tịch UBND tỉnh Sông Bé đã có Quyết định 1929/PD ngày 17-10-194 bồi thường cho ông Đoàn tiền công khai hoang 219,5 ha  đất; trị giá nhà xưởng, máy móc, tổng cộng với số tiền là 459.624.000 đồng. Ông Đoàn tự nguyện hiến cho Nhà nước 150.000.000 đồng, nhận 309.624.000 đồng. Ông Đoàn tiếp tục khiếu nại về chi phí trồng, cải tạo đồng cỏ. UBND tỉnh ra quyết định 2780/QĐUB ngày 23-7-1996 bác đơn của ông Đoàn, và ông Đoàn đã khởi kiện ra Toà.

Vụ kiện đã qua nhiều lần xét xử: Bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 5-5-1997, TAND tỉnh Bình Dương đã huỷ quyết định 2780 của UBND tỉnh, yêu cầu UBND tỉnh có trách nhiệm tiếp tục giải quyết các yêu cầu bồi thường của ông Đoàn. Bản án hành chính phúc thẩm số 01/HCPT ngày 3-1-1998, Toà phúc thẩm TAND Tối cao tại TP Hồ Chí Minh  huỷ quyết định 217/QĐUB ngày 12-6-1980 của UBND huyện Bến Cát và Quyết định số 20/ QĐUB ngày 10-4-1985 của UBND tỉnh Sông Bé giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Bình Dương điều tra, xét xử lại. Bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 3-5-1999, TAND tỉnh Bình Dương buộc UBND tỉnh Bình Dương bồi thường thiệt hại cho ông Nguyễn Công Đoàn tiền chi phí khai hoang, đầu tư trồng cỏ 50 ha và máy móc nhà xưởng, tổng cộng 762.974.000 đồng. Bản án phúc thẩm số 168/DSPT ngày 2-11-1999 Toà phúc thẩm TAND Tối cao sửa một phần án dân sự sơ thẩm, buộc UBND tỉnh Bình Dương bồi thường thiệt hại chi phí trồng cỏ voi  cho ông Đoàn với 56,5 ha là 630.088.000 đồng.  Quyết định giám đốc thẩm số 02/UBTP-DS ngày 10-1-2002 Uỷ ban thẩm phán TAND Tối cao buộc UBND tỉnh Bình Dương bồi thường cho ông Đoàn chi phí khai hoang, đầu tư trồng cỏ 50 ha, máy móc, nhà xưởng, tổng số tiền là 762.974.000 đồng; khấu trừ 459.624.000 đồng, còn bồi thường cho ông Đoàn 303.350.000 đồng. 
Mặc dù quyết định này đã qua 7 năm, đã hết thời hiệu kháng nghị, nhưng ông Đoàn vẫn chưa nhận được số tiền trên. Trong khi đó, với ông Đoàn, đã phải chịu nhiều oan trái. Ông bị bệnh, được chính Ty Nông nghiệp tỉnh Sông Bé cho đi chữa bệnh thì chính quyền huyện lại kê biên tịch thu tài sản. Hơn 8 tháng sau, ông bị công an tỉnh bắt giam. 3 năm sau ông được thả ra mà không lời giải thích. Trong đơn khiếu nại gửi Báo ĐĐK, ông viết “ Cho đến bây giờ tôi vẫn không biết nguyên nhân vì sao huyện Bến Cát lại ra quyết định kê biên quản lý tài sản của Tổ hợp bột cỏ Dân Sinh mà tôi là người đại diện? Quyết định số 217/QĐUB của UBND huyện Bến Cát ra ngày 12-6-1980 nhưng đến đầu tháng 2-1981 , tức 8 tháng sau, công an Sông Bé mới bắt tôi... Nếu suy luận, đây chỉ là một kịch bản để hợp thức hoá của Quyết định 217/QĐUb của UBND huyện Bến Cát?...Như vậy tài sản gồm đồng cỏ, ruộng mía, nhà xưởng , máy móc... của Tổ hợp bột cỏ Dân Sinh càng không thể là tang vật của “vụ án” vượt biên? Mặc dù vụ án “ vượt biên” trên thực tế là không có. Dù vậy tôi vẫn thông cảm với Nhà nước không đòi bồi thường về hậu quả của việc bắt oan sai (thực ra đây mới là thiệt hại lớn nhất cả về tinh thần lẫn vật chất của cá nhân tôi), song còn thiệt hại về vật chất của tập thể bà con trong Tổ hợp bột cỏ Dân Sinh mà tôi là người đại diện và chịu trách nhiệm thì tôi không thể gánh vác hết được”. 
Được biết sau sự vụ xảy ra, ông Đoàn đã bán tài sản, nhà cửa, đất đai để khắc phục một phần hậu quả cho bà con. Qua 5 phiên Toà xét xử, các cấp Toà đều đã tuyên UBND tỉnh Bình Dương bồi thường cho ông Đoàn. Dù số tiền bồi thường như đã nêu là chưa thoả đáng, nhưng đến nay ông  chưa được nhận.
Đề nghị Cục Thi hành án Bộ Tư pháp cần kiểm tra vụ án nói trên, yêu cầu UBND tỉnh Bình Dương thi hành án, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và đảm bảo quyền lợi cho ông Nguyễn Công Đoàn.

Trên đây là điểm báo sáng ngày 07/7/2009, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.

Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ./.



File đính kèm