Điểm tin báo chí sáng ngày 19 tháng 10 năm 2009

19/10/2009
Trong buổi sáng ngày 19/10/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Hội nghị BCH Đảng bộ TP.HCM lần thứ 17 khóa 8 diễn ra ngày 14/10, chỉ một ngày sau khi Hội nghị BCH Đảng bộ Thành phố Hà Nội bế mạc. Hai hội nghị, cùng một tầm vóc, cùng một tổ chức, ở hai thành phố lớn nhất đất nước. Thế nhưng cách ứng xử với báo chí thì hoàn toàn khác nhau.
Hà Nội mở cửa cho tất cả các cơ quan báo chí của thành phố và trung ương, để thông qua báo chí, cho người dân Thủ đô và cả nước biết cơ quan quyền lực của Đảng tại Hà Nội đang họp gì, bàn gì, chuẩn bị làm gì. TP.HCM thì chọn lọc danh sách báo chí đưa tin, và những "nhân vật" đã qua sàng lọc ấy, hình như cũng chưa đủ độ tin cậy, nên "cảm phiền" chỉ được tham dự 15 phút trong phiên khai mạc và gần 1 giờ đồng hồ phiên bế mạc.
Xưa nay, nói đến TP.HCM, người ta nói đến sự năng động, cởi mở, dám làm dám chịu. Nhưng từ lâu, không ít phóng viên ở đây chỉ biết lắc đầu mỗi khi nói đến chuyện làm sao qua được cổng UBND TP để vào dự các cuộc họp hoặc hội nghị, hội thảo về những vấn đề kinh tế, xã hội, đô thị… có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người dân. "Phải có giấy mời" là câu trả lời thường xuyên được nghe tại đây. Tất nhiên, trong khuôn khổ pháp luật, có những vấn đề giới chức lãnh đạo được quyền không công bố. Nhưng “khuôn khổ pháp luật” cũng quy định không được cản trở họat động báo chí nếu điều đó không xâm hại đến an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ...
Một phần diễn biến Hội nghị BCH Đảng bộ TP.HCM chỉ một số báo được phép tham dự mới biết rõ. Song ngay những tờ báo không được tham dự thì ngày hôm sau, bằng các biện pháp nghiệp vụ, đều cố gắng đưa tin về hoạt động này bởi đây là thông tin quan trọng, liên quan đến xã hội và người dân. Đó là một ví dụ.Tất nhiên, không thể đưa ra lý do để thanh minh cho sự giảm sút uy tín của báo chí. Song, nếu vì thế mà tìm cách hạn chế hay cản trở hoạt động của báo chí thì e rằng cũng không đúng, thậm chí là vi phạm luật.
Khi đọc những thông tin trên báo về phát biểu kết luận Hội nghị của Bí thư Thành ủy TP.HCM, chủ yếu là những nhận định rất sát sườn, thẳng thắn của ông về tồn tại, yếu kém trong chỉ đạo, điều hành, quản lý của các cấp lãnh đạo TP thời gian qua, nhiều người thấy lạ.Lạ bởi những thông tin ấy và hoạt động ấy (đánh giá kinh tế - xã hội TP 9 tháng đầu năm và thực hiện nhiệm vụ 3 tháng cuối năm) của Hội nghị không bí mật, ngược lại, rất cần công khai vì có tác động trực tiếp và tích cực đến xã hội, đến người dân. Sao báo chí lại bị hạn chế tham dự?
Nội dung - kể cả các ý kiến của từng thành ủy viên tại Hội nghị - càng được thông tin rộng rãi trong dân bao nhiêu chỉ càng có lợi cho TP bấy nhiêu. Bởi nhờ có báo chí, người dân nhận ra sự thẳng thắn, ý thức trách nhiệm trước dân, trước xã hội của lãnh đạo Đảng, chính quyền TP.Điều đó chỉ có tác dụng củng cố niềm tin trong nhân dân với Đảng, với chính quyền.Khi thông tin đã minh bạch, công khai, nếu có tờ báo nào cố tình làm sai lệch, luật pháp đâu thiếu chế tài? Và khi đó, sẽ chẳng có ai bênh vực những nhà báo đã bẻ cong ngòi bút, dù với bất cứ lý do gì. Tiếc là cách hành xử lần này cho thấy sự "cảnh giác cao độ" của lãnh đạo TP.HCM với báo chí - một biểu hiện cụ thể của sự thiếu tin cậy! Vậy thì báo chí tại TP có thật đã đến nông nỗi này, hay rốt cuộc, TP đang trở lại với cách ứng xử "cái gì khó quản lý hoặc không quản lý được thì cấm hoặc hạn chế cho… an toàn" mà nhiều năm trước, báo chí từng phê phán?
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 - 2015.
Mục tiêu đến năm 2015, 100% các cơ quan nhà nước cấp đơn vị trực thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, cấp xã, phường tại các tỉnh, thành phố và các cơ quan liên quan được kết nối vào mạng truyền dẫn tốc độ cao, an toàn, bảo mật của Đảng và nhà nước. 70% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan nhà nước được trao đổi hoàn toàn dưới dạng điện tử; triển khai hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc tới 100% các tỉnh, thành. Từng bước chia sẻ các thông tin hành chính thiết yếu giữa các cơ quan nhà nước, bao gồm: dân cư, thuế, đất đai, xe cộ, xây dựng, thông tin kinh tế - xã hội nhằm giảm tối thiểu các thông tin yêu cầu từ người dân và doanh nghiệp.
Chương trình cũng đặt ra mục tiêu xây dựng, hoàn thiện các hệ thống thông tin chuyên ngành quy mô quốc gia thiết yếu, phục vụ cung cấp dịch vụ cho người dân và doanh nghiệp. Cụ thể là 80% người dân và doanh nghiệp nộp hồ sơ khai thuế qua mạng; 90% cục hải quan tỉnh, thành triển khai thủ tục hải quan điện tử; 30% các đấu thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp và dịch vụ tư vấn cho các cơ quan nhà nước được thực hiện qua mạng; 100% hộ chiếu được cấp cho công dân Việt Nam phục vụ công tác xuất, nhập cảnh là hộ chiếu điện tử.
3. Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam phản ánh: Theo bảng xếp hạng phát triển tài chính do Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) vừa công bố, Việt Nam đã tăng 4 bậc lên vị trí 45/55 quốc gia được xếp hạng (Bảng xếp hạng này dựa trên khoảng 120 tiêu chí, từ mức độ ổn định tới quy mô của các thị trường vốn).
Trong bảng xếp hạng năm nay, các nước phát triển vẫn dẫn đầu. Tuy nhiên, trong 12 tháng qua, ngành tài chính của các quốc gia này đã kém đi nhiều, dẫn tới sự thu hẹp khoảng cách về điểm số với những nước đang nổi lên. Số điểm tối đa mà mỗi nước có thể nhận được trong xếp hạng chung là 7. Với số điểm là 3, Việt Nam được xếp ở vị trí thứ 45, dưới Thổ Nhĩ Kỳ (3,03) và trên Columbia (2,94).
So với năm ngoái, Việt Nam giảm mất 0,03 điểm. Nhưng trong bối cảnh nhiều nước giảm đến rất mạnh, sự sụt giảm này vẫn không ngăn được Việt Nam tăng bậc. So với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng sau Singapore (vị trí số 4), Malaysia (22) và Thái Lan (35). Hai nước trong khu vực đứng sau Việt Nam là Indonesia (hạng 48) và Philippines (50)./.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Luật chưa đồng bộ công chứng viên gặp khó. Bài báo phản ánh: Sáng 17-10, Sở Tư pháp TP.HCM tổ chức hội nghị sơ kết hai năm thực hiện Luật Công chứng.
Theo Sở Tư pháp, việc triển khai thực hiện Luật Công chứng và đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng đã đáp ứng được yêu cầu, việc chuyển đổi các phòng công chứng và xã hội hóa hoạt động công chứng được thực hiện tốt. Tuy nhiên, quá trình thực thi luật này còn gặp phải một số bất cập: trình độ công chứng viên chưa được đồng đều dẫn đến xảy ra một số sai sót; tình trạng cạnh tranh không lành mạnh như chi tiền cho người môi giới hoặc nhân viên ngân hàng.
Theo ông Phan Văn Cheo (Văn phòng công chứng Sài Gòn), khó khăn lớn nhất hiện nay là có nhiều văn bản pháp luật chưa đồng bộ dẫn đến có nhiều cách hiểu và hành xử khác nhau giữa các tổ chức công chứng. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự cho phép hủy bỏ hợp đồng ủy quyền nhưng Luật Công chứng lại không cho phép. Một số trường hợp chưa được hướng dẫn khiến công chứng viên lúng túng khi người dân đến giao dịch. “Một người nước ngoài sinh sống rồi lấy vợ ở Việt Nam. Giải quyết vấn đề thừa kế nếu người này chết đi như thế nào vẫn chưa có hướng dẫn” - ông Cheo ví dụ.
Cũng theo ông Cheo, vấn đề được nhiều người quan tâm nhất là cần sớm có một mạng thông tin ngăn chặn giữa các tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan nhà nước. Có trường hợp người dân dùng một giấy tờ đến giao dịch tại nhiều tổ chức công chứng, nếu có mạng thông tin ngăn chặn thì sẽ giảm thiểu được những rủi ro như trên.
Đại diện Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn băn khoăn: Bộ luật Dân sự và một số văn bản khác cho phép thế chấp tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, khi bên thế chấp không có khả năng trả nợ và tài sản vẫn chưa hình thành thì ngân hàng sẽ xử lý tài sản thế chấp này như thế nào, tổ chức công chứng có phải chịu trách nhiệm về nội dung công chứng hay không thì chưa ai giải thích cho.
Bà Ngô Minh Hồng, Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM, nhận xét đúng là hiện nay vẫn còn tồn tại một số vướng mắc trong hoạt động công chứng. Sở sẽ tiếp thu những ý kiến trên để báo cáo, kiến nghị cấp trên. Bà Hồng cũng thông báo việc thành phố đang triển khai nâng cấp phần mềm thông tin ngăn chặn để phục vụ cho hoạt động của công chứng viên.
2. Báo Hà Nội mới có bài Xây dựng Luật Thủ đô dựa trên những ưu thế vượt trội của Hà Nội. Bài báo phản ánh: Ngày 17-10, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo và Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã chủ trì phiên họp lần thứ 2 của Ban soạn thảo Luật Thủ đô. Trong chương trình làm việc, các đại biểu đã trao đổi kết quả 8 năm thực hiện Pháp lệnh Thủ đô và lên đề cương sơ bộ Luật Thủ đô.
Theo Giám đốc Sở Tư pháp TP Hà Nội Phan Hồng Sơn, qua 8 năm thực hiện Pháp lệnh Thủ đô, Hà Nội đang trên đà đổi mới theo hướng văn minh, hiện đại. Tuy nhiên đã thể hiện một số bất cập, hạn chế. Đó là, các quy định của pháp lệnh mới đặt ra các mục tiêu, phương hướng, cơ chế chung cho việc xây dựng và phát triển Thủ đô mà chưa có quy định cụ thể về cơ chế thực thi, nên còn thiếu tính khả thi. Pháp lệnh chưa thực sự là công cụ pháp lý hữu hiệu cho việc thực hiện các mục tiêu xây dựng và phát triển Thủ đô đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Vì vậy, khi xây dựng Luật Thủ đô cần tạo điều kiện để Hà Nội phát huy tối đa lợi thế là trung tâm chính trị, hành chính, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, kinh tế của cả nước. Dự kiến Luật Thủ đô có 8 chương với 40 điều.
Ông Lê Thành Long, Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật - Bộ Tư pháp cho rằng, một trong những nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng dự án luật này là dựa trên những ưu thế vượt trội của Hà Nội để quy định cơ chế đặc thù. Theo đó, cần ưu tiên cho Thủ đô được xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao, công nghệ cao, mới, không ô nhiễm, ít chiếm đất. Nên cho phép Hà Nội được quy định các điều kiện chặt chẽ hơn so với Luật Cư trú về vấn đề nhập cư để giải quyết tình trạng quá tải dân số, ách tắc giao thông; cần có cơ chế cho Thủ đô được ưu đãi đầu tư cao hơn mặt bằng chung hiện hành nhằm thu hút đầu tư, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; thành lập quỹ bình ổn giá và quỹ dự trữ mặt hàng thiết yếu; được tự chủ trong việc tìm nguồn vốn ODA, phát hành trái phiếu…
Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường lưu ý, khi xây dựng Luật Thủ đô, cùng với cơ chế, chính sách ưu tiên cho Thủ đô thì cần phải đưa ra những yêu cầu cao hơn, khắt khe hơn, nhất là trong các lĩnh vực văn hóa giáo dục, khoa học kỹ thuật, bảo vệ môi trường. Cùng với việc tạo hành lang "thoáng" hơn cho Thủ đô, thì cũng cần quy định "chặt" hơn trong một số lĩnh vực nhằm bảo đảm có sự quyết định và tham gia của cơ quan trung ương vào việc xây dựng Thủ đô với tư cách là bộ mặt của đất nước. Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo nhấn mạnh, Ban biên soạn cần đánh giá sâu tác động của Pháp lệnh Thủ đô, từ đó nghiên cứu kỹ hơn những đặc thù của Thủ đô để đưa vào Luật Thủ đô những điều khoản được thực thi có hiệu quả. Trong quá trình xây dựng luật, cần mời thêm các nhà khoa học, luật sư, nhân dân để cùng một lúc thực hiện 3 khâu xây dựng, phản biện, thẩm định luật. Ban biên soạn cũng cần nghiên cứu kỹ quy chế về thủ đô của nước ngoài, chọn những điểm ưu việt phù hợp để áp dụng tại Hà Nội.
3. Báo điện tử Dân trí có bài Dùng “bom phân” tấn công lực lượng thi hành án. Bài báo phản ánh: Ngày 17/10, Công an huyện Đông Anh đã tạm giữ hình sự 4 đối tượng tại thôn Võng La, xã Võng La (Đông Anh, Hà Nội), vì hành vi dùng phân bón ruộng tấn công tổ thi hành án dân sự huyện Đông Anh. Các đối tượng gồm Nguyễn Thị Minh (50 tuổi), Phan Thị Thao (43 tuổi), Phan Thị Loan (24 tuổi) và Phan Xuân Khanh (48 tuổi), đều trú tại thôn Võng La, xã Võng La.
Theo cơ quan công an, khoảng 8h ngày 14/10, cơ quan Thi hành án dân sự huyện Đông Anh thực hiện việc cưỡng chế chia tài sản (đất ở) của vợ chồng anh Phan Xuân Thành (46 tuổi), ở thôn Võng La, xã Võng La, sau khi ly hôn. Khi tổ công tác thực hiện nhiệm vụ, một số người nhà của anh Thành, trong đó có Nguyễn Thị Minh, Phan Thị Thao, Phan Thị Loan và Phan Xuân Khanh đã xông vào cản trở quyết liệt.
Các đối tượng đã dùng phân động vật hắt vào người các cán bộ thi hành án dân sự huyện Đông Anh. Lực lượng nghiệp vụ thuộc công an huyện Đông Anh đã bắt giữ 4 người này.
4. Báo Lao động có bài Dùng văn bản giả thi hành án dân sự. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Với chức năng thực thi pháp luật, nhưng Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Ea Kar (Đắc Lắc) lại làm một việc trái với quy định pháp luật là dùng văn bản giả để cưỡng chế thi hành án sai gây oan ức cho người dân.Chuyện này xảy ra trong trường hợp giải quyết chia tài sản sau li hôn đối với ông Nguyễn Đăng Lai (sinh 1958) và bà Vũ Thị Hương (1962) cư trú tại thôn 11, xã Cư Ni (huyện Ea Kar).
Sau khi Toà án Nhân dân huyện Ea Kar đã ra "Quyết định công nhận thuận tình li hôn và sự thoả thuận của các đương sự" số 54/2008 QĐ-CNTTLH ngày 16.8.2008 về việc li hôn giữa ông Nguyễn Đăng Lai và bà Vũ Thị Hương. Trên cơ sở kê khai và đánh giá tài sản chung, toà án cho ông Lai được sử dụng căn nhà cùng vườn tược là tài sản do bố mẹ ông để lại và tài sản chung của hai người cùng làm ra.Toà đã buộc ông Lai trả cho bà Hương 85 triệu đồng là khoản tiền chia tài sản chung được áp dụng Khoản 2, Điều 305 Bộ Luật Dân sự và được tính lãi trả chậm khi thi hành án. Trong quyết định thuận tình li hôn, toà án không ấn định thời gian trả tiền cho bà Hương và không áp dụng các biện pháp khác để thực hiện án.
Bất ngờ ngày 3.6.2009, Đội thi hành án huyện Ea Kar vào nhà ông Lai thực hiện việc “đánh úp” theo kế hoạch cưỡng chế số 03/KHCC-THA do Chủ tịch UBND huyện Ea Kar Nguyễn Tấn Lộc ký ngày 18.5.2009) cưỡng chế và trục xuất ông này ra khỏi nơi ở để giao nhà cho bà Hương. Trước khi cưỡng chế, ông Lai không hề nhận được một văn bản hành chính theo trình tự thủ tục hành chính của cơ quan thi hành án huyện Ea Kar và cũng không biết được việc định giá tài sản, cũng không hay cơ quan nào đứng ra bán tài sản và giá bán được bao nhiêu?
Điều đáng nói rằng, trước đây trong quá trình làm ăn, vợ chồng ông Lai, bà Hương đã vay sản phẩm cà phê của bà Lê Thị Nhơn tính thành tiền cả gốc và lãi là 28 triệu đồng, bà Nguyễn Thị Hường 27,8 triệu đồng. TAND huyện Ea Kar đã giải quyết 2 vụ việc này bằng 2 quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên đương sự số 03/2008/QĐST-DS ngày 11.1.2008 và số 18/2008/DSST ngày 25.4.2008. Trong lúc ông vợ chồng ông Lai đang tiếp tục trả nợ cho bà Nhơn và bà Hường theo quyết định của toà án, sáng ngày 30.7.2008, Đội thi hành án dân sự bất ngờ đưa quyết định cưỡng chế tài sản.
Ngày 1.8.2008, Cơ quan thi hành án Ea Kar lập biên bản kê biên tài sản và ông Lai đã ký vào văn bản này. Trong bản kê biên này cũng không kê khai đầy đủ số tài sản của gia đình ông Lai.Cũng trong ngày 1.8.2008, Cơ quan thi hành án đã làm biên bản định giá tài sản ông Lai nhưng không có chữ ký của ông này.Sau đó, ông Lai đã trả xong nợ cho bà Nhơn và bà Hường trong tháng 10.2008, thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án. Nhưng thật trớ trêu, hơn hai tuần sau, vợ chồng ông Lai lại phải ra toà và chia tay nhau.
Để thực hiện việc cưỡng chế tài sản ông Lai trong vụ án li hôn đã được TAND huyện Ea Kar giải quyết ngày 16.8.2008, Cơ quan thi hành án đã lập một văn bản giả với nội dung “Biên bản định giá tài sản” của ông Nguyễn Đăng Lai đề ngày 1.8.2008. Trong “biên bản” này ghi những người tham gia định giá tài sản, có chữ ký như thật của Chủ tịch Hội đồng định giá tài sản là ông Hoàng Đức Minh - chấp hành viên Cơ quan thi hành án dân sự huyện Ea Kar, cùng một số người: Thư ký viết biên bản, đại diện Viện kiểm sát huyện, đại diện thôn, công an huyện, phòng tài chính huyện, ban tư pháp xã, địa chính xã, người được thi hành án. Trong việc định giá tài sản, ông Nguyễn Đăng Lai không hề ký vào biên bản, nhưng cơ quan Thi hành án đã copy chữ ký của ông từ một văn bản khác vào “biên bản định giá tài sản”.
Ngày 2.12.2008, trong lúc ông Lai vắng nhà, ông Nguyễn Văn Hải - Trưởng thi hành án, Hoàng Đức Minh - chấp hành viên đưa người đến cưỡng chế, kê biên tài sản (lần thứ 2) mà không hề thông báo trước cho ông Lai biết.Sau đó, cơ quan thi hành án do ông Hoàng Đức Minh đã dùng toàn bộ văn bản được lập ngày 30.7.2008 sao chép và in ấn lại, sử dụng biên bản giả định giá tài sản đề ngày 1.8.2008 và lập hồ sơ giả để đưa vào thi hành án. Trong đó có những tài liệu được lắp ghép đuôi của văn bản này ghép với đầu của văn bản khác để hợp thức hoá hồ sơ.Các ông Nguyễn Văn Hải và Hoàng Đức Minh đã đem tài sản của ông Lai ra bán đấu giá cho bà Hương mà không qua thoả thuận với chủ sở hữu. Giá bán toàn bộ số tài sản này là 105 triệu đồng, chưa bằng 1/5 giá trị thực tế. (Mãi đến nay, cơ quan thi hành án vẫn không đưa bất ký một loại văn bản hành chính cho ông Lai biết về việc cưỡng chế bán đấu giá thi hành án).
Chỉ mới hơn 5 tháng sau khi toà án giải quyết việc li hôn, ngày 3.6.2009, Cơ quan thi hành án huyện Ea Kar đã đưa nhiều người cùng với các phương tiện đến cưỡng chế buộc ông Lai phải giao lại nhà cửa, tài sản và trục xuất ông ra khỏi nơi ở.Ngay trong ngày 3.6.2009, ông Lai phải ngậm ngùi bước ra khỏi nhà. Được bạn bè giúp đỡ, ít lâu sau ông Lai làm một cái chòi để ở cạnh mảnh vườn và căn nhà mà mình đã gắn bó gần 30 năm. Quá uất ức trước việc Cơ quan thi hành án dân sự Ea Kar làm sai, ông Lai đã làm đơn tố cáo những kẻ làm trái với quy định pháp luật và khiếu nại lên cấp trên xem xét và đòi hỏi quyền lợi chính đáng.
Ngày 1.9.2009, Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Đắc Lắc đã mời ông Nguyễn Văn Hải, Trưởng thi hánh án huyện Ea Kar và ông Nguyễn Văn Lai đến làm việc để giải quyết đơn tố cáo (do ông Lai gửi cấp trên). Tại cuộc làm việc, ông Nhâm Đức Giang, Trưởng phòng Nghiệp vụ; ông Bùi Văn Đính, Trưởng phòng giải quyết đơn thư khiếu, nại tố cáo của Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Đắc Lắc đã kết luận: "Cơ quan thi hành án dân sự huyện Ea Kar đã thực hiện thủ tục hành chính không đúng theo pháp luật quy định, trái với quyết định của toà án và yêu cầu cơ quan thi hành án phải giải quyết trong 5 ngày”.Ông Nguyễn Văn Hải cũng nhận việc làm sai của cơ quan thi hành án huyện Ea Kar. Tuy vậy, đến nay cơ quan thi hành án huyện Ea Kar vẫn không giải quyết và không cung cấp đầy đủ thủ tục hành chính cho người đã thi hành án.
Sự việc trên đã làm cho nhiều người dân địa phương rất bất bình. Đây cũng là việc làm vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng cần phải xem xét và xử lý nghiêm.
5. Báo Người lao động có bài Tự nhiên mất đất. Bài báo phản ánh: Tình trạng “cò” phù phép nhà đất của người khác thành nhà đất của mình đang trở nên phổ biến ở vùng ngoại thành TPHCM.
Trường hợp ông Nguyễn Văn Ne (ấp 1, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn-TPHCM) sửng sốt khi biết mảnh đất hơn 1.000 m² đứng tên người cha đã qua đời bỗng dưng được bán cho người khác (Báo NLĐ phản ánh ngày 7-10) không phải là chuyện hiếm. Sau bài viết này, chúng tôi đã phát hiện nhiều hộ dân ở quận 12 và huyện Hóc Môn cũng đang rơi vào tình cảnh: Nhà đất bỗng dưng thuộc quyền sở hữu của người khác mà họ không hề hay biết, chuyện vỡ lở khi có người cầm giấy chủ quyền đến... tìm đất.
Ông Nguyễn Văn Ne kể lại: Sau khi cha ông là Nguyễn Văn Nhơn qua đời, đầu năm 2007, ba anh em ông Ne bàn nhau đi làm thủ tục kê khai di sản thừa kế để chuyển người đứng tên trên giấy chủ quyền sang tên một trong ba anh em. Ngán ngẩm với “đoạn trường” đi làm thủ tục, ông Ne bèn giao cho “cò” đất Nguyễn Văn Lùn ở cùng xóm lo mọi thủ tục với giá thỏa thuận là 8 triệu đồng. Theo yêu cầu của “cò” Lùn, ông Ne đã đưa bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở (QSDĐ- giấy đỏ) cùng nhiều giấy tờ liên quan. Kéo dài gần một năm sau, “cò” Lùn mời ông Ne và những người trong gia đình đến xã lăn tay và làm thủ tục thừa kế. “Tưởng lên xã là xong chuyện ai ngờ một tháng, nửa năm và một năm rưỡi trôi qua không thấy động tĩnh gì. Hỏi thì “cò” Lùn cứ hẹn lần hẹn lữa mãi mà đòi giấy chủ quyền thì cũng khất luôn”- ông Ne kể. Đầu tháng 9-2009, gia đình ông Ne bàng hoàng khi có một người tự xưng là bên “B” (mua lại đất của bên B) xuống nhà ông xem “mặt mũi” lô đất. Lúc này, cả gia đình ông Ne chỉ còn biết nhìn nhau mà không nói nên lời.
Sau khi phát hiện lô đất nhà mình nằm trong tay người khác và việc mua bán có dấu hiệu lừa đảo vì chủ đất đã chết làm sao đứng ra ký giấy mua bán (hợp đồng mua bán được lập vào tháng 7-2009 tại Văn phòng Công chứng Gia Định), ông Nguyễn Văn Ne đã làm đơn khiếu nại và trình bày những khuất tất trên gởi đến các cơ quan chức năng huyện Hóc Môn. Ngày 17-10, ông Ne được Phòng Tài nguyên-Môi trường huyện Hóc Môn mời lên làm việc để thu thập thêm thông tin. Tham dự còn có “cò” đất Nguyễn Văn Lùn, ông Trần Quốc Phòng, Trưởng Phòng Công chứng Gia Định cũng là công chứng viên trực tiếp công chứng hợp đồng mua bán mảnh đất do ông Nguyễn Văn Nhơn đứng tên. Ông Ne cho biết: Sau khi quanh co, “cò” Lùn thông tin với cán bộ Phòng Tài nguyên-Môi trường là “giấy đỏ” ông Ne đưa cho Lùn không bị mất mà Lùn đưa cho một “cò” đất tên Thảo giữ để cùng chạy giấy tờ!? Tại đây, ông Phòng cũng trưng ra những giấy tờ liên quan nằm trong hồ sơ công chứng như giấy chứng nhận độc thân, CMND, xác định tình trạng nhà đất đều đứng tên ông Nguyễn Văn Nhơn. Trao đổi với phóng viên Báo NLĐ, ông Phòng cho rằng những giấy tờ này có khả năng là giả mạo vì năm sinh của ông Nhơn đều ghi là 1955 trong khi những giấy tờ tùy thân của ông Nhơn được gia đình cung cấp ghi rõ năm sinh 1925. Tuy nhiên, sau buổi làm việc, đại diện Phòng Tài nguyên-Môi trường đã trả lại đơn khiếu nại cho ông Nguyễn Văn Ne với lý do không đủ thẩm quyền giải quyết.
… Tình trạng “cò” phù phép nhà đất của người khác thành nhà đất của mình và đi giao dịch mua bán với người khác đang trở nên phổ biến ở vùng ven và ngoại thành. Nhiều người cho rằng trong các vụ việc này không loại trừ có sự tiếp tay của cán bộ địa phương và công chứng viên các phòng công chứng!?


File đính kèm