Trong buổi sáng ngày 16/10/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 15-10, Đại hội đồng Hiệp hội Luật ASEAN (ALA) đã khai mạc tại Hà Nội với chủ đề “Hiến chương ASEAN - đưa ASEAN lên tầm cao mới”.
Phát biểu trước đại hội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết khẳng định Việt Nam hết sức coi trọng và chia sẻ sự quan tâm của luật gia các nước ASEAN về chủ đề của hội thảo lần này. Ông hy vọng các cuộc thảo luận của giới luật gia các nước sẽ góp phần làm sáng tỏ những giá trị pháp lý nền tảng, làm cơ sở cho việc tiến hành các cải cách thiết chế và pháp luật ở mỗi nước.
Đại hội ALA lần này được tiến hành ở thời điểm Việt Nam đang đảm nhiệm cương vị chủ tịch ASEAN và cũng bắt đầu được giao trọng trách chủ tịch ALA. Vì vậy, Việt Nam sẽ nỗ lực ở mức cao nhất để cùng các nước phát triển hệ thống pháp luật riêng của mình, từng bước nhất thể hóa vì một cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
2. Báo Phụ nữ phản ánh: “Hỗ trợ người có thu nhập thấp qua doanh nghiệp” - là một trong những nội dung Tờ trình về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) của Chính phủ trình tại phiên họp thứ 25 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), khai mạc sáng 15/10.
Theo đó, Chính phủ đề xuất cho áp dụng mức thuế suất thấp nhất là 5%; miễn thuế TNDN trong bốn năm và giảm 50% thuế này trong chín năm tiếp theo đối với các doanh nghiệp (DN) đầu tư xây dựng nhà ở xã hội để bán và cho thuê cho các đối tượng học sinh, sinh viên, công nhân làm việc tại các khu chế xuất, người có thu nhập thấp. Tuy nhiên, đa số các thành viên TVQH lại không đồng tình với đề xuất trên của Chính phủ và cho rằng, quy định trên sẽ dẫn đến phát sinh tiêu cực, gây thất thoát cho ngân sách nhà nước (NSNN).
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - ngân sách (UBTC-NS) Phùng Quốc Hiển cho rằng, một số thành viên của UB chưa tán thành sửa đổi hai luật trên bởi năng lực quản lý hiện nay còn hạn chế nên việc kiểm soát giá mua, bán nhà thực tế đang gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, cho dù Nhà nước có áp dụng các chính sách ưu đãi, trong đó có ưu đãi về thuế để DN hạ giá thành thì chưa chắc giá bán, giá thuê nhà đã được giảm. Vì thế, người có thu nhập thấp, công nhân, học sinh, sinh viên không được hưởng lợi, Nhà nước sẽ bị thất thu NS. Việc căn cứ vào đối tượng mua nhà để áp dụng hai mức thuế suất GTGT khác nhau (5% và 10%) là rất phức tạp, dễ bị DN lợi dụng để được hoàn thuế GTGT. Trên thực tế, DN không chỉ xây nhà để bán, cho thuê đối với một loại đối tượng là người có thu nhập thấp mà còn cho nhiều đối tượng khác. Việc tách bạch giữa các đối tượng mua nhà để khấu trừ thuế GTGT cho DN là không đơn giản, sẽ dẫn đến phát sinh tiêu cực, gây thất thoát cho NSNN. Mặt khác, việc ưu đãi thuế TNDN cho cả dự án đầu tư mở rộng sẽ dẫn đến tình trạng ưu đãi dàn trải. Qua thực tiễn thi hành Luật, đã có trường hợp lợi dụng quy định này để hưởng ưu đãi, trốn thuế.
Theo Chủ nhiệm UBTC-NS thì dự thảo luật chưa đảm bảo tính công bằng. “Trên thực tế, không chỉ có DN xây dựng nhà cho học sinh, sinh viên, công nhân. Hiện nay nhiều cá nhân cũng đầu tư xây dựng các khu nhà cho học sinh, sinh viên, công nhân thuê. Nếu chỉ áp dụng chính sách ưu đãi thuế đối với DN thì sẽ không công bằng đối với các cá nhân kinh doanh trong cùng lĩnh vực” - ông Hiển nói.
Đồng quan điểm với Chủ nhiệm UBTC-NS, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Thu Ba cho rằng, để tạo điều kiện về nhà ở cho người có thu nhập thấp cần có chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng này như hỗ trợ lãi suất vay vốn, mua trả chậm, hỗ trợ kinh phí, điều kiện thế chấp, tỷ lệ giải ngân hạn mức tín dụng...
Buổi chiều cùng ngày, UBTVQH cũng đã cho ý kiến về chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận; thống nhất dự kiến chương trình giám sát năm 2010 của Quốc hội, UBTVQH. Ngày 16/10, UBTVQH tiếp tục làm việc và cho ý kiến về dự án Luật An toàn thực phẩm; cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý chương trình kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XII.
3. Báo điện tử Vietnamnet phản ánh: Báo cáo 1 năm điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô, một trong những kiến nghị của Hà Nội với Chính phủ là được phép triển khai xây Khu liên cơ quan hành chính phù hợp vị thế Thủ đô sau hợp nhất. Từ 2006, Thành uỷ, HĐND, UBND TP đã cùng thống nhất trình Thủ tướng Chính phủ chủ trương về một số ’’cơ chế đặc thù’’ cho dự án quan trọng này. Hà Nội kỳ vọng công trình sẽ cùng toà nhà văn phòng đại diện các tỉnh, thành tại khu đô thị mới Đông Nam - Trần Duy Hưng, Cung Trí thức Thành phố và toà nhà văn phòng các hội và hiệp hội tại khu đô thị mới Cầu Giấy tạo thành trung tâm hành chính mới của Thủ đô. Tháng 8/2008, Hà Nội chính thức mở rộng. Người dân và nhiều giới, ngành quan tâm: Liệu dự án Khu liên cơ quan hành chính Hà Nội có tiếp tục triển khai hoặc điều chỉnh qui mô, vị trí? Trước đó, "khu liên cơ" được dự kiến hoàn thành vào 2010 để "đón" nhiều cơ quan, đơn vị "tề tựu". Cùng với đề xuất cụ thể về việc dự án xây dựng "khu liên cơ", để tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết 15/NQ-QH12 của Quốc hội điều chỉnh địa giới hành chính Thủ đô, sau 1 năm mở rộng, Hà Nội tiếp tục kiến nghị Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ sớm ban hành Luật Thủ đô để tạo cơ sở phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế và nguồn lực, phục vụ mục tiêu xây dựng Thủ đô xứng đáng là "đầu não" chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế. "Trong khi chờ ban hành Luật Thủ đô, đề nghị Chính phủ cho phép Thủ đô được vận dụng qui định đặc thù trong một số lĩnh vực về tổ chức bộ máy và cán bộ; cơ chế chính sách đặc thù trong chủ động nguồn vốn ngân sách để qui hoạch, đầu tư xây dựng phát triển hạ tầng đô thị, chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp mục tiêu, yêu cầu phát triển Thủ đô giai đoạn hiện nay", lãnh đạo Hà Nội đề xuất.
Cũng trong báo cáo 1 năm thực hiện Nghị quyết 15 gửi Chính phủ, Bộ Nội vụ, Thường trực Thành ủy, Thường trực HĐND TP - UBND TP Hà Nội đề nghị được sớm duyệt kế hoạch sắp xếp đổi mới doanh nghiệp sau hợp nhất, sớm tháo gỡ vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là khâu xác định giá trị lợi thế đất đai. 4. Trang web bee.net.vn phản ánh: Ngày 14/10/2009, Thủ tướng giao TP Hà Nội, Bộ KHCN có hình thức xử lý thích hợp, đúng quy định của Đảng, Nhà nước đối với việc tự giải thể của Viện nghiên cứu phát triển (IDS) và những phát biểu thiếu tinh thần xây dựng của một số cá nhân thuộc Viện này. Yêu cầu trên được đưa ra sau cuộc họp về Quyết định 97 liên quan đến việc ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ.
Thủ tướng cũng nhấn mạnh việc ban hành Quyết định 97 là “cần thiết, phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và đã có hiệu lực thi hành”, đồng thời yêu cầu “các bộ, ngành, địa phương liên quan khẩn trương tổ chức thực hiện nghiêm quyết định này”.
Quyết định 97 được Thủ tướng ký ngày 24/7/2009 ban hành danh mục gồm 7 lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức khoa học và công nghệ. Sau khi Quyết định số 97 được ban hành, ngày 6/8/2009, IDS có văn bản kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phủ, cho rằng, việc ban hành Quyết định số 97 đã vi phạm trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật và có một số nội dung trái với Hiến pháp và Luật Khoa học và Công nghệ, gây cản trở đến việc thực hiện quyền tự do nghiên cứu khoa học của tổ chức và cá nhân. Ngày 14/9/2009, Viện nghiên cứu phát triển IDS đã tuyên bố tự giải thể trước khi Quyết định 97 có hiệu lực thi hành 1 ngày.
IDS được thành lập tháng 9/2007 tại Hà Nội. Đây là Viện nghiên cứu tư nhân đầu tiên và do các nhà khoa học tự góp vốn xây dựng. Mục tiêu của Viện là thực hiện các nghiên cứu và tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn về chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển cho các cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế - xã hội, cá nhân.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Hai bộ bất đồng về quản giá cước máy bay". Bài báo phản ánh: Bộ Tài chính vừa có công văn đề nghị Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) phối hợp quản lý giá dịch vụ hàng không và giá cước vận chuyển hàng không nội địa theo Thông tư liên tịch số 103 năm 2008 của liên bộ Tài chính - GTVT.
Ngày 15-10, ông Vũ Công Chính, Cục phó Cục Quản lý giá (Bộ Tài chính), cho biết từ đầu năm đến nay đã có bốn doanh nghiệp liên tiếp gửi văn bản đề nghị triển khai thực hiện phương án giá, khung giá và bỏ trần giá vé theo Thông tư 103. Chính phủ cũng vừa có công văn yêu cầu hai bộ khẩn trương hướng dẫn thực hiện Thông tư 103. Theo Thông tư 103, nhà nước chỉ quản lý giá đối với các đường bay độc quyền. Các đường bay có từ hai hãng trở lên khai thác, nhà vận chuyển được tự quyết định giá vé. Như vậy, giá vé phổ thông trên đường bay quan trọng nhất Hà Nội - TP.HCM sẽ không bị khống chế mức trần 1,7 triệu đồng/lượt.
Theo Bộ GTVT, Thông tư 103 “vướng” Luật Hàng không dân dụng vì theo Điều 16, giá cước vận chuyển nội địa do hãng hàng không quyết định trong khung giá do Bộ Tài chính quy định sau khi thống nhất với Bộ GTVT. Bên cạnh đó, Bộ GTVT cũng đề nghị Bộ Tài chính tạm dừng thực hiện thông tư này. Ông Chính cũng khẳng định Thông tư 103 không chồng chéo giữa Luật Hàng không dân dụng, Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh Giá và các văn bản pháp luật có liên quan... Chủ trương của cơ quan nhà nước là dần thu hẹp sự quản lý hành chính giá đối với các mặt hàng mà để thị trường tự điều tiết.
Theo ông Chính, việc Bộ GTVT lo ngại không kiểm soát được giá vé máy bay khi buông là không có tính thuyết phục. Vì cơ quan quản lý giá sẽ kiểm soát trên mức giá mà doanh nghiệp đăng ký. Các yếu tố tính giá rất rõ ràng, bao gồm quy chế tính giá, thuế, mức lợi nhuận và các chi phí hợp lý khác. Như hồi tháng 3-2009, khi điều chỉnh trần giá vé máy bay, các hãng đề nghị nâng giá từ 1,5 lên 2,7 triệu đồng. Thế nhưng Bộ Tài chính tính toán lại và chỉ đồng ý mức 1,7 triệu đồng. “Công bố mức giá Bộ Tài chính duyệt, các doanh nghiệp đều chấp thuận” - ông Chính cho biết.
Ông Chính cũng cho biết sau tám ngày gửi công văn cho Bộ GTVT nhưng đến nay bộ này vẫn chưa nhận được văn bản phản hồi. Nếu Bộ GTVT không có ý kiến sớm thì Bộ Tài chính sẽ báo cáo lên Thủ tướng.
Báo cũng có bài Trước bảo đúng sau nói sai. Bài báo phản ánh: Báo Pháp Luật TP.HCM ngày 12-9 có bài “Thi hành án chần chờ” phản ánh trường hợp của bà Lương Kim Dung (xã Phước Thiền, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai) chưa được thi hành bản án phúc thẩm ngày 18-7-2006 của TAND tỉnh Đồng Nai đã có hiệu lực hơn ba năm. Ngày 17-7-2009, tức chỉ còn đúng một ngày nữa là hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, TAND tối cao đã có quyết định kháng nghị bản án phúc thẩm trên. Theo quyết định kháng nghị, bản án phúc thẩm chưa làm rõ nguồn gốc tài sản tranh chấp giữa nguyên đơn với bà Dung mà đã tuyên án là chưa đủ căn cứ.
Thế nhưng trao đổi với phóng viên vào ngày 10-9 (tức đã quá hạn kháng nghị gần hai tháng), lãnh đạo Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch (cơ quan phải thi hành bản án) lại cho biết “chưa nhận được quyết định kháng nghị nào cả”. Chỉ đến ngày 1-10, tức sau hai tháng 15 ngày kể từ ngày có quyết định kháng nghị, cơ quan này mới nhận được quyết định kháng nghị. TAND tỉnh Đồng Nai nhận được quyết định kháng nghị sớm hơn cơ quan thi hành án hai ngày (với thời gian nhận là ngày 30-9). Phía bà Dung cũng không nhận được quyết định kháng nghị mà chỉ biết thông tin khi được cơ quan thi hành án thông báo (mặc dù địa chỉ cư trú của bà không thay đổi so với địa chỉ ghi trong bản án năm 2006).
Theo khoản 1 Điều 290 Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải được gửi ngay cho tòa án ra bản án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các đương sự, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị. Đối chiếu quy định này với trường hợp cụ thể của bà Dung, do phải gần ba tháng mới nhận được quyết định kháng nghị nên hậu quả gì sẽ xảy ra nếu cơ quan thi hành án đã đem bản án ra thi hành? Đáng nói thêm là vào ngày 31-7-2007, trong công văn trả lời khiếu nại của nguyên đơn, TAND tối cao đã khẳng định “bản án phúc thẩm xử đúng pháp luật”. Nay cũng tòa này lại nói bản án phúc thẩm của tòa tỉnh có thiếu sót.
2. Báo điện tử Vnexpress có bài Giới luật sư lập 'đường dây nóng' với cơ quan điều tra. Bài báo phản ánh: Ngày 14/10, ông Nguyễn Thanh Bình (Chánh văn phòng Liên đoàn Luật sư toàn quốc) cho biết, trước việc nhiều luật sư "tố khổ" khi tham gia tố tụng tại giai đoạn điều tra, lãnh đạo Liên đoàn đã chủ động gặp cơ quan công an để tìm cách tháo gỡ.
Hai bên thống nhất sẽ thiết lập quy chế phối hợp trao đổi thông tin, trong đó có việc lập đường dây nóng giữa Bộ Công an và Liên đoàn. Từ đây, luật sư nếu gặp phải "rào cản" từ phía cơ quan điều tra trong việc làm thủ tục bào chữa, gặp thân chủ hay tiếp cận hồ sơ vụ án... sẽ trực tiếp phản ánh qua đường dây nóng. Bộ Công an căn cứ thông tin trên sẽ xác minh và có biện pháp giải quyết. Ngược lại, nếu cơ quan công an nhận thấy luật sư khi hành nghề có biểu hiện không tuân thủ pháp luật, hay dấu hiệu tiêu cực... thì cũng thông tin trở lại với Liên đoàn. Ông Bình đánh giá, việc tham gia tố tụng của luật sư ngay từ giai đoạn đầu của vụ án có ý nghĩa rất quan trọng. Nó sẽ giúp họ hiểu biết sâu, nắm được ngọn nguồn của vấn đề từ đó nâng cao khả năng tranh tụng, phản biện giúp việc điều tra được tiến hành khách quan, minh bạch. Tuy nhiên, nhiều luật sư phản ánh họ đã bị một số cơ quan điều tra "gây khó dễ". Đầu tiên là thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa hiếm khi đúng thời hạn 3 ngày theo quy định. Tiếp đó, việc gặp thân chủ trong trại giam hay tiếp cận hồ sơ để tìm hiểu vụ án cũng gặp phải một số "rào cản" khác...
Ba năm trước, Chủ nhiệm Đoàn luật sư Hà Nội Phạm Hồng Hải từng làm đơn "tố khổ" gửi Phó thủ tướng Trương Vĩnh Trọng kiêm Trưởng ban Nội chính trung ương phản ánh về việc này. 3. Báo Kinh tế Sài Gòn có bài Áp dụng luật nào cho Phú Mỹ Hưng?. Bài báo phản ánh: Trong công văn giải trình những nguyên nhân dẫn đến khó khăn của mình, cũng như đề xuất hướng giải quyết vấn đề, PMH trích Khoản 4, Điều 5 của Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004, theo đó “người được giao đất thực hiện bồi thường cho người có đất bị thu hồi (…), thì được trừ số tiền đã bồi thường vào tiền sử dụng đất phải nộp, nhưng mức được trừ không vượt quá tiền sử dụng đất phải nộp”. PMH kiến nghị được áp dụng quy định này với khách hàng mua nhà của công ty. Theo đó, người mua nhà được cấn trừ tiền thuê đất của PMH vào tiền sử dụng đất phải nộp, mức cấn trừ không vượt quá số tiền sử dụng đất phải nộp. Công ty này cho rằng thực tế Công ty Phát triển công nghiệp Tân Thuận (đối tác liên doanh trong Phú Mỹ Hưng)đã hoàn tất nghĩa vụ tài chính về đất với quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh (50 năm), nên sẽ bất hợp lý khi Nhà nước lại thu thêm một lần tiền sử dụng đất (100%) đối với phần đất đã được góp vốn.
Ở một đề xuất khác, PMH trích dẫn khoản 1 và 2 của Nghị định 84/2007/NĐ-CP, theo đó nhà đầu tư nước ngoài đã trả tiền thuê đất một lần thì được xem như đã hoàn tất nghĩa vụ về tiền sử dụng đất dự án, và vì thế người mua nhà các dự án này không phải đóng tiền sử dụng đất khi xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà.
Quan sát vấn đề dưới góc độ luật pháp, luật sư Trần Duy Cảnh, luật sư điều hành Công ty luật hợp danh Luật Việt, cho rằng tính nhân đạo, nhân văn của pháp luật là khị có lợi cho người bị áp dụng thì phải áp dụng, chứ không phải là trừng trị. Đó là tinh thần pháp luật, là nguyên tắc chung. Thực tế cũng đã có những trường hợp tại thời điểm này thì phạm luật, nhưng luật pháp có chuyển biến mới, có thay đổi về sau này nên coi đó không còn là hành vi phạm luật nữa thì không xử lý. Đó cách tính sao cho có lợi cho người bị áp dụng.
Luật sư Cảnh cho rằng pháp luật sinh ra không phải để trừng trị, tận thu mà là khuyến khích các nguồn thu, nuôi dưỡng các nguồn thu. Lẽ ra khi Nghị định 84/2007/NĐ-CP ra đời thì phải hủy các văn bản trước không áp dụng nữa. Ở đây nó đòi hỏi sự linh hoạt của người vận dụng pháp luật mà không có gì sai vì văn bản cũ hết hiệu lực.
Trao đổi về vấn đề thành phố đề xuất hướng giải quyết cho phép người dân mua nhà ký hợp đồng thời điểm nào được đóng tiền sử dụng đất vào thời điểm đó, luật sư Cảnh cho rằng hướng giải quyết của thành phố không sai. Chẳng hạn không thể bắt người mua nhà bốn năm năm sau mới có giấy tờ nhà và phải đóng tiền sử dụng rất cao. Luật đã có nhưng áp dụng như thế nào phải tùy vào thực tế.
Ông Cảnh cho rằng cách tính sao đó để dân không phải đóng tiền sử dụng đất là cả một vấn đề thành phố phải cân nhắc. Bởi vì, sẽ giải quyết ra sao đối với những người đã đóng rồi, chưa nói đến khoản thất thu từ việc này. “Thực chất mấu chốt bây giờ là áp dụng luật nào? văn bản nào? Nếu có lợi cho dân, cho doanh nghiệp thì nhà nước mất một khoản thu,” ông Cảnh phát biểu. Tuy nhiên ông cũng chỉ ra rằng PMH không thể vận dụng Khoản 2, Điều 32 của Nghị định 84/2007/NĐ-CP, vì khoản này chỉ có áp dụng cho trường hợp thuê đất 70 năm, trong khi PMH chỉ được cho thuê đất 50 năm.