Điểm tin báo chí sáng ngày 09 tháng 10 năm 2009

09/10/2009
Trong buổi sáng ngày 09/10/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Bộ Xây dựng đang dự thảo nghị định về quản lý không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, trong đó có quy định nhà mặt phố xây sau phải tương đồng với nhà xây trước về màu sắc, cao độ nền, chiều cao tầng. Sau khi đăng bài, Báo nhận được nhiều ý kiến phản hồi của bạn đọc, trong đó nêu băn khoăn về sự hợp lý và tính khả thi của quy định. Ngày 8-10, Pháp Luật TP.HCM tổ chức buổi tọa đàm với khách mời là một số chuyên gia về kiến trúc, cán bộ quản lý nhằm góp ý kiến trả lời cho câu hỏi: "Nhà ở đô thị làm sao cho tương đồng".
Kiến trúc sư (KTS) Nguyễn Trường Lưu (Hội Kiến trúc sư TP.HCM) nêu một loạt cái khó khi thực hiện quy định tương đồng về cốt nền, tầng cao và màu sắc. “Cốt nền xưa nay thành phố vẫn chưa giao, có quận nào dám nói đường này, đường kia đã được giao cốt nền đâu, vậy tương đồng sẽ như thế nào? Chưa kể là có những con đường mà từ đầu đường đến cuối đường, cốt nền đã chênh nhau 1,5 m!” - ông nói.
KTS Lưu tiếp tục đặt câu hỏi: Quy định tương đồng về chiều cao tầng là từng tầng bằng nhau hay là cả chiều cao công trình phải y như nhau? “Giả sử các tầng bằng nhau nhưng nhà này xây bốn tầng, nhà kia ít tiền hơn chỉ xây hai tầng thì cũng lố nhố thôi” - ông nhận xét.
Trưởng phòng Cấp phép xây dựng (Sở Xây dựng), ông Trần Quốc Tuấn, cho biết những quy định trên không mới, chỉ có điều chưa thực hiện được. Ông dẫn chứng: Giấy phép xây dựng quy định phải ghi cốt nền nhưng thực tế thì thường là không ghi. Nếu có ghi thì cũng chỉ là ghi cho có, thậm chí đánh đố vì không có cốt nền chuẩn. Quy định về chiều cao các tầng phải bằng nhau cũng đã có quy định. Ví dụ đã thống nhất tầng một là 3,5 m nhưng thực tế dân vẫn xây thấp hơn hoặc cao hơn. Hơn chục năm trước, thành phố từng có ý định thực hiện ban công các nhà phải có cao độ bằng nhau nhưng cũng không làm được. Riêng quy định về màu sắc công trình, ông Tuấn nhận xét nếu buộc phải tương đồng là vô phương. “Con đường Nguyễn Tri Phương trước mặt Báo đây có vài trăm căn nhà với vài chục màu sắc khác nhau, biết lấy nhà nào, màu nào làm chuẩn?” - ông Tuấn ví dụ. “Hiện trạng đã lộn xộn, ngổn ngang như các khu đô thị hiện hữu thì buộc nhà xây sau giống nhà xây trước về màu sắc, chiều cao, cốt nền là rất khó” - bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tân Phú, bổ sung thêm.
KTS Đoàn Ngọc Hiệp, Chủ nhiệm bộ môn Quản lý đô thị (Trường đại học Kiến trúc), cho rằng để bộ mặt đô thị được đẹp đẽ, hài hòa thì cần đẩy nhanh việc lập quy hoạch chi tiết 1/500 và thực hiện cho đúng. “Bởi trong quy hoạch này đã có quy định về không gian kiến trúc như thế nào rồi” - ông Hiệp nói.
KTS Nguyễn Trường Lưu cho biết một kinh nghiệm của nước ngoài mà ta có thể tham khảo. “Ở nước ngoài, với một tuyến phố, cơ quan quản lý sẽ cho chừng 10 đến 20 màu trung tính, tùy ý người dân chọn. Nếu họ muốn chơi màu khác thì phải được sự đồng ý của cả tuyến phố đó” - ông Lưu nói. “Ta cũng có thể lấy những căn nhà mẫu trên tuyến đường Lũy Bán Bích như quận Tân Phú đang thực hiện làm điểm mở đầu, dần dần tiến đến những căn nhà, dãy phố khác. Cứ thế, sau thời gian ta sẽ có những khu phố đẹp” - ông Trương Trung Kiên hiến kế.
Báo cũng phản ánh:“Phải cải tiến quy trình ban hành nghị quyết của Quốc hội (QH), các thông tin đem ra thảo luận phải thường xuyên cập nhật chứ không nên chỉ dựa vào báo cáo...”. Tiến sĩ Hoàng Văn Tú (Viện Nghiên cứu lập pháp) phát biểu tại hội thảo “QH quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước khi Việt Nam là thành viên của WTO” vào ngày 8-10.
Theo tiến sĩ Tú, quy trình ban hành nghị quyết của QH chưa tập trung và hệ thống, còn nằm rải rác trong nhiều văn bản luật khác nhau. Điều này gây khó khăn cho QH trong việc quyết định những vấn đề quan trọng. “Tôi kiến nghị phải cải tiến quy trình ban hành nghị quyết của QH khi quyết định các vấn đề quan trọng. Các thông tin được đem ra thảo luận phải được thường xuyên cập nhật chứ không nên chỉ dựa vào báo cáo. Hoàn thiện tiêu chí, chỉ tiêu về vấn đề quan trọng. Ví dụ thế nào là công trình quan trọng cấp quốc gia. Khẳng định giá trị pháp lý của nghị quyết và phải có chế tài với cơ quan thực hiện...”.
Giáo sư-tiến sĩ Trần Ngọc Đường (Viện Nghiên cứu lập pháp) nói: “Cần phải quy định vấn đề gì là quan trọng quốc gia; quy định về cách lấy ý kiến của nhân dân về những vấn đề quan trọng của đất nước”. Còn tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm (Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam) cho rằng QH nên sử dụng các lực lượng chuyên gia để đánh giá các vấn đề QH cần quyết định, sau đó để cho các ủy ban của QH xem xét, có ý kiến rồi mới đưa ra kỳ họp QH quyết định cuối cùng”.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Tại hội nghị lấy ý kiến HĐND các cấp tỉnh Ninh Thuận - địa điểm dự kiến xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam, diễn ra ngày 8-10, các đại biểu HĐND tỉnh Ninh Thuận, huyện Ninh Phước, Ninh Hải, xã Phước Dinh, xã Vĩnh Hải đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc thông qua chủ trương đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân trên địa bàn tỉnh này.
Tại hội nghị, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá cao sự quan tâm, ủng hộ của chính quyền, nhân dân tỉnh Ninh Thuận và nhấn mạnh: Với mục tiêu cao nhất phục vụ phát triển đất nước, dự án có quá trình nghiên cứu, chuẩn bị hết sức kỹ càng, chặt chẽ và khoa học.
Dự kiến tại kỳ họp thứ 6 tới, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua chủ trương đầu tư dự án để năm 2014 có thể khởi công.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài "Những cô dâu tuổi 16". Bài báo phản ánh: Thạnh An là một xã vùng sâu còn khó khăn của huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An. Đa số bà con lao động nghèo đông con. Thế nhưng nhiều thiếu nữ độ tuổi vị thành niên ở đây cứ đua nhau đi lấy chồng. UBND xã Thạnh An cho biết mấy năm nay xã này có đến chục cặp vợ chồng thiếu tuổi lấy nhau, cô dâu chỉ ở độ tuổi 16. Dù chính quyền địa phương quyết liệt động viên, can ngăn nhưng các bậc cha mẹ lẫn cô dâu, chú rể vẫn ngó lơ.
Trên chiếc xuồng ba lá tròng trành xuôi kênh nước phèn, chúng tôi cùng với các cán bộ xã tìm đến nơi mưu sinh của vợ chồng em Huỳnh Thị Mộng Thắm (sinh năm 1993). Thắm cùng mẹ và em gái đang cặm cụi róc vỏ tràm. Nhìn thân hình em gầy gò, áo quần ướt sũng và khuôn mặt non choẹt cứ nghĩ Thắm chỉ khoảng 14 tuổi. Nhưng năm rồi, khi 16 tuổi, cô bé này đã làm lễ thú phạt (đôi trẻ đã ăn ở với nhau, nay làm lễ ra mắt) với chú rể Nguyễn Thanh Tiền (nhà ở cạnh bên, thuộc ấp 4). Đã cưới nhau nhưng một người bà con cho biết Tiền cũng chưa hết con nít. Cu cậu sống với bà ngoại già yếu nhưng không giúp được gì cho bà. Suốt ngày Tiền theo gia đình bên vợ đốn tràm thuê, thu nhập bấp bênh. “Vợ chồng thằng Tiền cứ hục hặc hoài. Đêm qua hai đứa nó cự nhau, giờ thằng chồng nằm đó, không thèm đi làm” - người bà con của Tiền mách.
Cũng trên tuyến dân cư ấp 4, chúng tôi ghé nhà và chứng kiến cảnh sống lam lũ của đôi vợ chồng trẻ Huỳnh Văn Vào và Huỳnh Thị Mộng Thi (đều sinh năm 1991). Vào và Thi lấy nhau năm 16 tuổi, có tổ chức đám cưới hẳn hoi, nay đã có một đứa con ba tháng rưỡi. Vào thành thật kể, anh đi làm thuê đủ nghề: phóng lúa, đốn tràm, lưới cá... Thế nhưng chạy vạy khắp nơi mà vợ chồng và đứa con vẫn thiếu ăn triền miên. Điều ngạc nhiên là cả hai cô dâu tuổi 16 vừa kể - Thi và Thắm - là chị em ruột, con của ông Huỳnh Văn Quýt. Địa phương nhiều lần động viên gia đình ông nên chấp hành luật pháp, không cho con gái kết hôn trước tuổi nhưng không thành công.
Ở Thạnh An còn nhiều cô dâu tuổi 16 khác như em Nguyễn Thị Diệu Hiền (sinh năm 1993, con ông Nguyễn Văn Thanh) được tổ chức đám cưới vào giữa tháng 5-2009. Chính quyền địa phương cho hay Hiền đang mang thai, giờ có lẽ đã sinh con bên chồng tận Tiền Giang. Một trường hợp khác cô dâu cũng sinh năm 1993, gả chồng về xã Thủy Tây (Thạnh Hóa), mới làm đám cưới tháng 9-2009, hiện gia đình đang tích cực cải chính khai sinh để không phạm luật.
Ông Nguyễn Văn Đực, Chủ tịch UBND xã Thạnh An, cho biết khi hay tin các cô gái tuổi 14, 16 trong xã có nơi dạm hỏi hoặc chính thức làm đám cưới, các đoàn thể và chính quyền đến can ngăn ngay. Gia đình nào cũng phân bua: “Hai bên chỉ giáp mặt, bỏ trầu, rượu để đó, chờ đến khi đủ tuổi mới cho sắp nhỏ cưới nhau”. Nhưng thực tế sau đám bỏ trầu, rượu không lâu, họ liền tổ chức lễ cưới”. Ông Đực cho biết đã xử phạt nhiều gia đình tổ chức đám cưới khi con chưa đủ tuổi nhưng chỉ phạt hành chính 200.000 đồng, gửi hồ sơ báo cáo về trên rồi thôi. Trong năm 2009, xã Thạnh An có đến bốn cô gái sinh năm 1993, 1995 đã làm đám cưới. Hiện đang còn hai cô gái tuổi 16 đã nhận trầu, rượu và có nguy cơ sẽ lấy chồng trong năm nay hoặc sang năm 2010.
Ngay ngày 6-10, trong chuyến đi thực tế tại tuyến dân cư ấp 4, xã Thạnh An, phóng viên Pháp Luật TP.HCM ghi nhận gia đình ông Phùng Văn Dũng đang chuẩn bị tổ chức lễ dạm hỏi cho con gái là Phùng Thị Trúc Chi (sinh năm 1993). Trúc Chi khá dạn dĩ, thật thà cho mọi người trong đoàn biết: “Ngày mai là đám hỏi của con”. Em không hề e ngại hay tỏ ra mình và gia đình đang vi phạm pháp luật về hôn nhân gia đình. Ở ấp 4 này, ngay cả cán bộ ấp cũng gả con khi chưa đủ tuổi. Đó là hai cô con gái mới 14 và 16 tuổi của ông Nguyễn Văn Quang (phó ấp kiêm công an viên) và vợ là tổ trưởng tổ phụ nữ ấp. Ông Quang phân bua ông cũng am hiểu pháp luật nhưng vợ kiên quyết quá nên đành xuôi theo (!?).
Tại buổi giao lưu “Gia đình và trẻ em vi phạm pháp luật” với người dân Thạnh An, trung tá Nguyễn Văn Nhớ, Phó Công an huyện Thạnh Hóa, cho biết chuyện tảo hôn đã cấp kỳ lắm rồi. Tình trạng tảo hôn ở miệt đồng Thạnh Hóa giờ không riêng gì ở xã Thạnh An mà lan rộng ra Thủy Đông, Tân Bình, Thuận Nghĩa Hòa, thị trấn Thạnh Hóa. Công an huyện đang có kế hoạch làm một đợt tuyên truyền liên xã về nạn tảo hôn, bắt đầu ngay từ “điểm nóng” Thạnh An. Nhưng kể cả cuộc tuyên truyền sắp tới ấy có thành công tới đâu thì ở vùng miệt đồng Đồng Tháp Mười này, rất nhiều “lời ru buồn” đã nối nhau cất tiếng. Ầu ơ, luẩn quẩn như chính cuộc đời của những bà mẹ, ông bố non tuổi.
Ông Trần Minh Mẫn, Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Long An:  Tôi cho rằng công tác vận động, tuyên truyền pháp luật của ngành tư pháp chưa thật sự sâu rộng. Người dân không được nâng cao về mặt bằng dân trí, kiến thức pháp luật và ý thức tự giác chấp hành... Sắp tới đây, Sở Tư pháp Long An sẽ củng cố hoạt động của Trung tâm Trợ giúp pháp lý, hướng về địa bàn các xã vùng sâu của tỉnh. Riêng nạn tảo hôn, phải kiên quyết ngăn chặn kịp thời ngay từ bây giờ, không để phổ biến thành một thực trạng, về lâu dài sẽ rất khó khắc phục.
Báo cũng có bài Không dễ hủy hợp đồng đã công chứng. Bài báo phản ánh: Tháng 4-2008, bà Nguyễn Thị H. (TP Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế) có làm hợp đồng tặng cho nhà đất cho năm anh chị em ruột và hợp đồng này đã được Phòng Công chứng số 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế chứng nhận ngày 25-4-2008. Nhưng sau đó thì bên nhận tặng cho chưa làm thủ tục đăng bộ.
Mới đây, bà H. và năm anh chị em thống nhất hủy bỏ hợp đồng tặng cho nêu trên. Các bên tiếp tục đến Phòng Công chứng số 2 của tỉnh để làm thủ tục. Tại đây, công chứng viên yêu cầu cả hai bên phải xuất trình bản chính hợp đồng tặng cho nhà đất đã được công chứng trước đây. Ngặt nỗi, một bên đã làm mất bản chính hợp đồng. Thế là công chứng viên từ chối giải quyết.
Sau khi nài nỉ, bà H. cũng được công chứng viên đồng ý chứng nhận cho hai bên ký hủy bỏ hợp đồng. Bà H. đã đóng phí xong nhưng đến nay vẫn chưa được giao lại bản hủy bỏ hợp đồng. Theo giải thích của công chứng viên, chỉ khi nào phía gia đình bà H. nộp thêm một bản chính của hợp đồng cũ thì mới được giao bản hủy bỏ này (!?).
Phóng viên đã liên hệ với phòng công chứng trên và được biết: Ngại các bên sử dụng một bản chính của hợp đồng cũ vào mục đích trái pháp luật nên công chứng viên muốn thu hồi bằng được cả hai bản chính của hợp đồng cũ. Do bà H. nói “có một người ở xa đang cầm một bản chính và sẽ nộp sau” nên phòng mới linh động công chứng việc hủy bỏ hợp đồng. Phòng này vẫn giữ lại bản hủy bỏ hợp đồng cho đến khi phía bà H. nộp lại đủ hai bản chính hợp đồng cũ.
Khoản 1 Điều 44 Luật Công chứng quy định: “Việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó và phải được công chứng”. Luật này không yêu cầu các bên nộp lại đủ các bản chính đã được công chứng trước đó thì mới được hủy bỏ hợp đồng. Như vậy, Phòng Công chứng số 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế đã làm sai quy định khi bắt buộc gia đình bà H. phải nộp lại đủ hai bản chính của hợp đồng cũ.
Đáng lưu ý, trong tình huống tương tự như trên thì các phòng công chứng tại TP.HCM có cách xử lý khác. Ông Từ Dương Tuấn, Phó phòng Công chứng số 1, TP.HCM, cho biết: “Tuy luật không quy định nhưng cũng vì ngại các rắc rối phát sinh như Phòng Công chứng số 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế đã nêu ở trên nên chúng tôi cũng đề nghị người dân phải mang bản chính đến thì mới hủy bỏ hợp đồng. Song nếu thật sự các bên đã làm mất bản chính thì chúng tôi vẫn linh hoạt giải quyết bằng cách đề nghị các bên làm bản cam kết về sự việc. Sau khi chứng nhận việc hủy bỏ xong, chúng tôi sẽ chủ động thông báo việc này đến các cơ quan liên quan”.
2. Trang web bee.net.vn có bài “Loạn” phí công chứng tại cơ quan Nhà nước. Bài báo phản ánh: Cùng một loại giấy tờ nhưng giá công chứng tại nhiều cơ quan Nhà nước lại có sự chênh lệch nhau rõ rệt khiến nhiều người băn khoăn. Do số tiền không lớn nên dù biết, người dân vẫn chậc lưỡi “chẳng đáng là bao” và vô tư đóng tiền.
Thông tư  liên tịch số 92/2008/TTLT-BTC-BTP của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp “Hướng dẫn về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lí và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực” ban hành ngày 17/10/2008, quy định mức thu lệ phí chứng thực như sau: “Chứng thực bản sao từ bản chính không quá 2000 đồng/trang; từ trang thứ 3 trở lên thì mỗi trang thu không quá 1000 đồng/trang; tối đa thu không quá 100.000 đồng/bản”.
Về “Chế  độ thu, nộp, quản lí và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực”, Thông tư này cũng nêu rõ: “Tổ chức, cá nhân khi yêu cầu cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ kí phải nộp lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực. Khi thu lệ phí, cơ quan thu lệ phí phải lập và cấp biên lai thu cho đối tượng nộp lệ phí theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính về phát hành, quản lí, sử dụng ấn chỉ thuế”.
Thông tư đã quy định rõ mức lệ phí công chứng đối với các loại giấy tờ khác nhau, tuy nhiên, giữa nhiều cơ quan, mức phí này vẫn không có sự đồng bộ. Anh N.V.N ngụ P.21, Q. Bình Thạnh, cho biết: “Cùng là giấy khai sinh bản sao, nhưng tôi công chứng ở P.17 lấy 1.000 đồng/bản, P.21 lấy 2.000 đồng/bản. Tuy chênh lệch nhau chẳng đáng là bao nhưng tôi thấy băn khoăn, không biết đâu mới là giá công chứng đúng quy định”.
Để “kiểm chứng” lại thông tin này, tôi photo 1 xấp giấy tờ cùng loại và “rải” ở một số cơ quan Nhà nước khác nhau và thu được kết quả: không có sự đồng bộ trong việc thu lệ phí công chứng. Cụ thể, cùng một loại giấy tờ nhưng có nơi thu 1.000 đồng/bản, có nơi thu 2.000 đồng/bản. Mặc dù quy định từ trang thứ 3 trở lên thì mỗi trang thu không quá 1.000 đồng/bản nhưng người viết bài cũng “chóng mặt” vì không biết đâu mới là mức thu đúng quy định khi UBND P.19 (Bình Thạnh) thu 5.000 đồng/3 bản, UBND P.17 thu 3.000 đồng/3 bản, UBND P.15 thu 6.000 đồng/3 bản.
So sánh với một số địa điểm khác như UBND P. Linh Trung, UBND P. Bình Thọ, UBND P. Linh Tây (Thủ Đức)… mức phí công chứng cũng có sự chênh lệch rõ rệt.
Cá biệt, tại UBND P.Bình Trưng Tây, Q.2, cán bộ công chứng không hề xuất biên lai thu lệ phí khi công chứng hồ sơ, giấy tờ cho người dân. Khi được hỏi, cán bộ công chứng ở đây thản nhiên thừa nhận: “Chị biết không giao biên lai là sai quy định. Nhưng ở đây không có biên lai mệnh giá 1-2.000 đồng, chị chỉ có biên lai mệnh giá 20.000 đồng”. Còn ở UBND P.17, Q.Bình Thạnh, người viết phải “đòi”, cán bộ công chứng mới đưa biên lai thu tiền.
Theo ghi nhận của chúng tôi, mặc dù Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp đã có thông tư liên tịch quy định mức thu lệ phí công chứng mới, nhưng không phải cơ quan nào cũng công khai mức phí công chứng cho người dân tỏ. Vì không biết nên dù cho cán bộ công chứng làm sai quy định nhưng hiếm khi bị người dân khiếu nại hay thắc mắc.
3. Báo điện tử Vietnamnet có bài Luật sư muốn 'mở toang cánh cửa tố tụng'. Bài báo phản ánh: Tại Hội thảo khoa học về sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự do Đoàn luật sư Hà Nội tổ chức ngày 8/10, các luật sư nêu những "rào cản" mà họ gặp phải trong quá trình tố tụng.
Nhiều luật sư đưa ra các ý kiến đóng góp nhằm chỉnh sửa hoàn thiện Bộ luật này. Từ đó, tìm cách "mở toang cánh cửa tố tụng", mở rộng hành lang pháp luật, tạo điều kiện cho giới luật sư được hành nghề một cách thuận lợi.
Việc đầu tiên phải kể đến là những khó khăn vấp phải khi thực hiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, trong thời hạn 3 ngày, cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án phải cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa. Nhưng nhiều luật sư cho rằng "thực tế đã không diễn ra như vậy". Luật sư Đỗ Ngọc Quang cho biết: "Gần 100% các trường hợp không được cấp giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn 3 ngày, cá biệt có khi kéo dài hơn một năm".
Tương tự như vậy, luật sư Nông Thị Hồng Hà nhận xét: "Hầu như rất ít trường hợp luật sư được cấp giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn, trong khi việc này có ý nghĩa rất quan trọng với bị can, bị cáo, bởi họ cần có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp".
Sau việc cấp chứng nhận bào chữa, khó khăn tiếp theo là việc vào trại giam gặp thân chủ cũng được các luật sư nêu ra.
Luật sư Vũ Công Dũng phản ánh về việc trực tiếp đến trại giam để gặp đương sự là việc làm cực kỳ khó khăn và rất ít trường hợp thực hiện được.Thêm vào đó, quy định người bào chữa chỉ được gặp riêng đương sự một giờ trong một lần gặp là không phù hợp với thực tế. Gặp được bị can đang bị tạm giam đã hiếm, nhưng nếu được gặp thì bao giờ cũng đều có mặt điều tra viên ngồi cạnh để giám sát.
Theo các luật sư, nguyên nhân sâu xa của tình trạng trên là bởi một số cán bộ còn mang tư tưởng cũ, không muốn người bào chữa có mặt trong hoạt động điều tra vì sợ rằng sẽ bị gây cản trở, khó khăn. Lắng nghe các ý kiến này, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga đề nghị Liên đoàn Luật sư toàn quốc tập hợp những góp ý, kiến nghị này gửi tới Ủy ban Tư pháp để có cơ sở báo cáo Quốc hội vào cuối năm nay.


File đính kèm