Điểm tin báo chí sáng ngày 07 tháng 10 năm 2009

08/10/2009
Trong buổi sáng ngày 07/10/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Người lao động phản ánh: Giới chuyên gia công nghệ thông tin (CNTT) TPHCM khi góp ý vào dự thảo đề án “Tăng tốc sớm đưa VN trở thành quốc gia mạnh về CNTT”, ngày 5-10, đã phê phán dự thảo này là mờ nhạt, trùng lắp và thiếu khả thi.
Chủ tịch Hội Tin học TPHCM Chu Tiến Dũng cho rằng đề án này (do Bộ Thông tin- Truyền thông soạn thảo) không có mối liên hệ gì với 4 quyết định lớn về ngành CNTT VN mà Chính phủ mới ban hành gần đây, mỗi quyết định đã có nguồn vốn xấp xỉ 1.000 tỉ đồng. Nhiều chuyên gia hoạt động trong ngành giáo dục đào tạo lên tiếng về sự coi nhẹ việc đào tạo nguồn nhân lực, thể hiện qua những quy định chung chung, mơ hồ trong dự thảo.
Hội Tin học TPHCM cho biết đã đưa dự thảo đề án lấy ý kiến của hội viên và nhận định chung của nhiều chuyên gia, doanh nghiệp CNTT TPHCM là cơ sở xây dựng đề án thiếu rõ ràng, các chỉ tiêu đưa ra cũng không được phân tích kỹ với đầy đủ cơ sở xác lập và định lượng cụ thể.
2. Báo Dân trí phản ánh: UBND TP Hà Nội vừa thống nhất ý kiến của Văn phòng Quốc hội, chấp thuận dự án xây 227 căn nhà phục vụ cán bộ cấp Thứ trưởng và tương đương hiện công tác trong các cơ quan của Quốc hội. 227 căn nhà sắp xây sẽ cao 4 tầng, trên diện tích tổng cộng 45.748m2 tại ô TT9, TT10 khu đô thị mới Xuân Phương (Từ Liêm, Hà Nội). Tổng mức đầu tư toàn bộ dự án này ước trên 411 tỉ đồng.
Thành phố Hà Nội cũng chấp thuận đề nghị của Văn phòng Quốc hội, ngoài việc dành 70% quỹ sàn nhà ở dự án này cải thiện điều kiện ở cho cán bộ cấp Thứ trưởng và tương đương hiện công tác trong các cơ quan của Quốc hội - sẽ cho phép chủ đầu tư được kinh doanh 30% quỹ nhà còn lại (sau khi đã ứng đủ nhu cầu cho Văn phòng Quốc hội) để hoàn vốn.Chủ đầu tư có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với ngân sách theo nguyên tắc giá đất ở được xác định sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường, trong điều kiện bình thường tại thời điểm giao đất.
Song song, Hà Nội đề nghị Văn phòng Quốc hội rà soát, xác định cụ thể danh sách cán bộ được mua nhà, phân loại đối tượng: chính sách, ưu tiên, giải quyết khó khăn... Dự án này dự kiến khởi công cuối năm nay và hoàn thành vào giữa năm 2011.
3. Báo điện tử Vietnamnet có bài Bộ trưởng không làm việc của thứ trưởng. Bài báo phản ánh: Nhà chính trị đề ra đường lối, quan điểm nhưng thực thi nó, đưa vào cuộc sống lại là công việc của nhà hành chính... Để cải cách hành chính (CCHC) thành công, cần minh định rõ vai trò chính trị - hành chính và cam kết mạnh mẽ của chính trị. Nhìn lại khoảng thời gian trước đổi mới, hầu như ít thấy sự tách biệt giữa vai trò của chính trị với hành chính trong lãnh đạo và quản lý quốc gia. Sự lãnh đạo của cơ quan chính trị đối với cơ quan hành chính giống như nhà nước cấp trên đối với nhà nước cấp dưới. Điều này phù hợp với yêu cầu của thời chiến, với cơ chế tập trung bao cấp. Song bước ngoặt chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu rộng đang đòi hỏi sự thay đổi tư duy sâu sắc trong quan hệ giữa chính trị và hành chính.
Người hoạt động chính trị ngồi vào vị trí nào đó là dựa trên lá phiếu bầu với công việc theo nhiệm kỳ. Mong muốn được tái cử là động cơ sâu xa để họ có trách nhiệm thực thi những hứa hẹn với những người đã bầu họ. Nhà chính trị dù ở các cấp khác nhau đều có nhiệm vụ đưa ra những định hướng toàn bộ, xác định mục đích lâu dài, thể hiện ở khả năng thiết lập đường lối, quan điểm phát triển đất nước. Khả năng mà nhà chính trị phải sử dụng là dựa vào tài trí, đức độ của mình để thu phục mọi người. Nhà chính trị đề ra đường lối, quan điểm nhưng thực thi nó, đưa vào cuộc sống lại là công việc của nhà hành chính. Đặc biệt, trước những thay đổi lớn của quốc gia vào những bước ngoặt của lịch sử, sẽ nổi bật đòi hỏi của dân tộc đối với vai trò, tài năng của lãnh đạo chính trị.
Trong mối quan hệ chính trị - hành chính thì hành chính phục vụ chính trị. Phục vụ chính trị phải bằng khả năng tổ chức hành động, xác định mục tiêu trung hạn, mục tiêu cụ thể để thi hành đường lối, quan điểm do chính trị đề xướng. Do đó, nhà hành chính phải biết sử dụng hữu hiệu các phương tiện như: cơ cấu tổ chức, tổ chức lao động, chế độ và thủ tục làm việc, quy chế nhân sự… mà trong đó con người chỉ là một thành tố.
Thời bao cấp, chúng ta có nhiều ví dụ do xem nhẹ, hoặc nói cách khác là bỏ qua vai trò của hành chính nên có những chủ trương đề ra tuy đúng nhưng lại kém hiệu quả. Chẳng hạn, ngay từ những năm 70-80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã sớm có chủ trương sinh đẻ có kế hoạch khi dân số chỉ ngang với Hàn Quốc. Song do chúng ta thực hiện biện pháp thêm con là thêm phụ cấp lương, thêm diện tích nhà... vô hình trung đã khuyến khích sinh đẻ. Hiện nay, mặc dầu hơn 10 năm qua đã kiên quyết giảm mức sinh con, thì dân số Viêt Nam vẫn gấp đôi Hàn Quốc. Khi chính trị thấy có khả năng không thực hiện được cam kết của mình trước dân không phải vì những sai lầm trong định hướng chính trị mà do thực thi yếu kém thì chính trị buộc phải tiến hành CCHC để hành chính phục vụ chính trị tốt hơn. Do đó, mức độ thành công của CCHC chủ yếu phụ thuộc vào mức độ cam kết CCHC của chính trị.
Chính trị cam kết ủng hộ CCHC là dấu hiệu quan trọng đảm bảo cho thành công của công cuộc cải cách này. Đặc biệt CCHC giai đoạn hiện nay để nuôi dưỡng niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước cần kiên định tư tưởng về sự chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức. Bởi trong thực tế, đội ngũ công chức nước ta vốn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, chức năng nhiệm vụ chưa rõ ràng, tuyển dụng và bổ nhiệm chưa khoa học… nên hiệu quả công việc thấp. Cũng như phải thực sự cam kết đảm bảo các quy trình, các thủ tục đã xác lập phải thực sự được vận hành trong các cơ quan nhà nước.
Khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, khi dân trí đã được nâng lên nhờ tác động của thành tựu công nghệ thông tin thì năng lực quản lý nhà nước buộc phải nâng cao để phục vụ yêu cầu phát triển. Không thể chấp nhận quan điểm năng lực quản lý tới đâu cho phát triển tới đó. Trải qua ¼ thế kỷ chuyển đổi cơ chế kinh tế, những bài học thành công và thất bại cho thấy các hệ quả đều liên quan đến khả năng lãnh đạo và quản lý của những người đứng đầu các tổ chức. Kết quả CCHC giai đoạn vừa qua đã đem lại sự chuyển quyền nhiều hơn cho chính quyền địa phương, tạo sự chủ động cho các địa phương. Thành công hôm nay của Bình Dương, Đà Nẵng cho thấy vai trò tiên quyết của những người lãnh đạo địa phương.
Ngược lại, chúng ta cũng thấy, hiện nay ở một số bộ, người đứng đầu đang làm chưa đúng việc của mình. Bộ trưởng - nhà chính trị, lãnh đạo cao nhất của một bộ, đáng lẽ phải tập trung làm cho tốt việc tạo lập và chia sẻ tầm nhìn, đề ra phương hướng hoạt động, phát triển chiến lược, đảm bảo sự tương thích giữa các vai trò và nguồn lực, tạo động lực và khuyến khích cấp dưới, song dường như lại đầu tư nhiều tâm sức vào quản lý như xây dựng chương trình, lập kế hoạch, dự toán ngân sách... Đây là nhiệm vụ của cấp thứ trưởng - nhà hành chính, để bộ trưởng toàn tâm cho vai trò lãnh đạo. Có sự lệch pha trên, phải chăng vì quản lý yếu kém quá khiến nhà chính trị phải đóng vai trò quản lý nhiều hơn?
Chúng ta đang sống một thời kỳ đặc biệt: chuyển mạnh sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế sâu rộng hơn, nhưng lại trong tình huống chuẩn bị cho bước phát triển "hậu khủng hoảng", khi mà chính trị và kinh tế thế giới sẽ có những chuyển biến rất mới. Rõ ràng không thể lãnh đạo và quản lý đất nước theo những quan điểm và phương thức cũ. Khả năng lãnh đạo và quản lý phải thể hiện ngay trong tiến trình thay đổi đó, nói cách khác, đó là sự cam kết chính trị ở một cấp độ mới. Quá trình cải cách là cả một chặng đường dài, hay nói đúng hơn, không có điểm kết thúc, do mỗi chặng ngắn lại phát sinh ra những vấn đề mới cần giải quyết. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn, cần xác định rõ mục tiêu và phải thực sự đạt được nó, tránh rơi vào tình trạng tiến một bước lại lùi mất hai bước, thậm chí lạc mất định hướng lâu dài.
CCHC phải được hướng theo mục tiêu chính trị rõ ràng, nhất quán, không thể chỉ là những thủ tục, mà quan trọng hơn, đó là cái mà các thủ tục ấy phải nhằm đến. 
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ có bài "Viseri kêu thất thoát tài sản". Bài báo phản ánh: Tổng công ty Dâu tằm tơ VN (Viseri) đang kiện cơ quan thi hành án (THA) bán đấu giá tài sản sai quy định dẫn đến thất thoát nhiều tỉ đồng.
Theo tài liệu của Tuổi Trẻ, Viseri có trách nhiệm thi hành bản án dân sự có hiệu lực pháp luật với số tiền phải trả nợ gần 22 tỉ đồng. Để đảm bảo THA, ngày 10-4-2008, Cơ quan THA dân sự tỉnh Lâm Đồng đã tiến hành kê biên tài sản của Viseri là diện tích đất và nhà xưởng gồm 1.648m2 tại 124 Kha Vạn Cân, Q.Thủ Đức (TP.HCM). Trong tổng số diện tích đất bị kê biên có 391m2 đất vi phạm lộ giới đường Kha Vạn Cân, 425m2 nằm trong dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi và 831m2 đất chuyên dùng.
Ngày 12-6-2008, hội đồng định giá xác định tài sản tại 124 Kha Vạn Cân trên 16 tỉ đồng. Theo cơ quan THA, cơ sở để xác định giá trị tài sản trên dựa vào quyết định của UBND TP.HCM quy định về khung giá đất 10,7 triệu đồng/m2 (giá đền bù thuộc dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi) và giá đất phần không nằm trong dự án (831m2) là 12 triệu đồng/m2.
Ngày 24-6-2008, THA dân sự Lâm Đồng ký hợp đồng và ủy quyền cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản TP.HCM bán đấu giá diện tích đất 831m2 (sau khi đã trừ diện tích đất bị thu hồi để xây dựng dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi trị giá gần 5 tỉ đồng) và tài sản trên đất với giá khởi điểm gần 11,2 tỉ đồng (chưa tính thuế giá trị gia tăng và phần xây dựng).
Ngày 27-6, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản TP ra thông báo bán đấu giá tài sản và tiến hành niêm yết, đăng báo theo quy định. Đến hết thời hạn đăng ký (28-7), chỉ có một khách hàng nộp hồ sơ. Ngày 27-8, trung tâm và THA dân sự Lâm Đồng ký hợp đồng sửa đổi lùi thời hạn bán đấu giá tài sản nhưng giữ nguyên giá khởi điểm, sau đó tiến hành niêm yết và thông báo bán đấu giá khu đất lần hai. Đến hết thời hạn đăng ký (8-9), có ba cá nhân và hai doanh nghiệp đăng ký tham gia mua đấu giá tài sản của Viseri. Ngày 23-9, trung tâm tiến hành tổ chức phiên bán đấu giá. Chỉ qua một vòng đã xác định đối tượng trúng đấu giá là Công ty TNHH ĐP (số thứ tự 3) khi đưa ra mức giá 11,25 tỉ đồng, cao hơn giá sàn 50 triệu đồng. Các khách hàng khác xin... rút lui mà không đưa ra mức giá nào.
Theo các tài liệu thu thập được, Cơ quan THA dân sự Lâm Đồng áp dụng giá khởi điểm theo biên bản định giá ngày 12-6 vào phiên đấu giá (23-9) là không hợp lý. Trước đó, ngày 28-8 UBND TP có công văn 5429 điều chỉnh tăng đơn giá đền bù dự án đường Tân Sơn Nhất - Bình Lợi từ 10,7 triệu đồng lên 15,27 triệu đồng/m2, việc tăng giá này có tác động lớn đến diện tích đất THA của Viseri, tức giá trị tài sản có biến động. Ngoài ra, tại buổi làm việc với Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (C15B), UBND P.Hiệp Bình Chánh (Q.Thủ Đức) cũng xác định giá đất hẻm cấp 1 tại cùng khu đất của Viseri có giá từ 17-20 triệu đồng/m2. Như vậy, việc Cơ quan THA dân sự Lâm Đồng không tiến hành định giá lại tài sản tại 124 Kha Vạn Cân khi có biến động lớn về giá là sai quy định.
Ngày 24-9, tức sau một ngày diễn ra phiên bán đấu giá, phát hiện việc áp giá sai quy định, Viseri có công văn gửi THA dân sự Lâm Đồng đề nghị xem xét lại giá tài sản đã kê biên, định giá, bán đấu giá lại tài sản tại 124 Kha Vạn Cân. Ngày 2-1-2009, Cơ quan THA dân sự Lâm Đồng có công văn trả lời “không có cơ sở xem xét khiếu nại của Viseri vì tại biên bản định giá đảm bảo các thành phần tham dự theo đúng quy định pháp luật, đồng thời không có bất kỳ đơn vị, cá nhân nào có quyền lợi liên quan khiếu nại”.
Không đồng ý với cách giải quyết của THA dân sự Lâm Đồng, Viseri tiếp tục khiếu nại lên cơ quan các cấp. Ngày 28-8-2009, Cục THA dân sự (Bộ Tư pháp) có công văn cho rằng “không có cơ sở để xem xét, giải quyết”. Viseri cho rằng việc trả lời này là không thỏa đáng vì sau khi diễn ra phiên đấu giá họ mới biết có văn bản điều chỉnh giá đất. Vả lại, chỉ khi bán đấu giá xong mới biết được thiệt hại bao nhiêu để khiếu nại.
Trả lời câu hỏi của PV Tuổi Trẻ tại sao khi có biến động lớn về giá nhưng không tổ chức định giá lại tài sản, ông Nguyễn Văn Hiển - trưởng THA dân sự Lâm Đồng - cho biết: “Lúc định giá có mặt đại diện của Viseri nhưng họ không có ý kiến gì. Việc định giá có cả một hội đồng chứ không riêng gì cơ quan THA”. Ông Phạm Đình Quý, chấp hành viên thụ lý vụ bán đấu giá tài sản của Viseri cũng nói: “Nếu có biến động giá thì Viseri phải thông báo trước khi có thông báo bán đấu giá công khai. Trong khi đó tài sản đã bán đấu giá thành công thì Viseri mới khiếu nại”.
Trả lời về chuyện THA dân sự Lâm Đồng có biết được văn bản điều chỉnh giá đất hay không, ông Quý nói: “Mặc dù tôi là chủ tịch hội đồng định giá nhưng việc ban hành giá do nhiều thành phần, gồm đại diện Sở Tài nguyên - môi trường, Sở Tài chính, UBND Q.Thủ Đức... Không ai cung cấp thông tin về văn bản 5429 (điều chỉnh giá đất). Nếu chúng tôi biết có văn bản này thì đã có ý kiến để can thiệp giúp họ. Lỗi ở Viseri không cung cấp thông tin đó (quyết định 5429)”. Sau khi nhận được giải quyết khiếu nại của Cục THA dân sự, do không đồng ý với cách giải quyết trên, Viseri tiếp tục khiếu nại vụ việc lên Ban chống tham nhũng của Chính phủ, bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Sở Tư pháp TP.HCM... Vụ việc đang được Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ Bộ Công an làm rõ.
2. Báo Kinh tế Sài Gòn online có bài Còn nhiều mâu thuẫn. Bài báo phản ánh: Dự thảo Nghị định của Chính phủ “Quy định về quản lý lao động, tiền lương và tiền thưởng đối với các công ty có phần vốn góp chi phối của Nhà nước” đã được hoàn thành và đang trong quá trình lấy ý kiến góp ý của các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và người dân theo quy định của Luật Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Nhiều ý kiến hy vọng rằng hướng dẫn về việc quản lý lao động, tiền lương đối với các công ty có phần vốn góp chi phối của Nhà nước sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý lao động trong các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, với tám điều khoản trong dự thảo nghị định, có thể thấy còn nhiều quy định mang tính mâu thuẫn nhau và mâu thuẫn ngay cả với các luật khác.
Trước hết, thế nào là “có phần vốn góp chi phối” của Nhà nước? Đây là câu hỏi quan trọng nhất cần được làm rõ để khẳng định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của nghị định. Phần những căn cứ pháp lý để ban hành nghị định có dẫn chiếu “Căn cứ Luật Doanh nghiệp nhà nước ngày 26 tháng 11 năm 2003” và “Căn cứ Luật Doanh nghiệp ngày 29 tháng 11 năm 2005”.
Trong khi đó, tiêu chí “phần vốn góp chi phối” ở hai luật nêu trên lại khác nhau khá xa. Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, “công ty nhà nước là công ty có phần vốn góp của Nhà nước chiếm từ 51% vốn điều lệ trở lên”. Điều đó có nghĩa, một công ty được coi là “có phần vốn góp chi phối của Nhà nước” khi phần vốn của Nhà nước trong vốn điều lệ chiếm từ 51% trở lên”. Khi đó, với vai trò là chủ sở hữu, Nhà nước sẽ ban hành các quy chế, quy định về công tác quản lý nói chung, quy chế quản lý tài chính, quy chế về quản lý lao động, tiền lương... của công ty và những cổ đông hoặc thành viên góp vốn khác phải tuân theo.
Song, quy định về những vấn đề đó trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 lại hoàn toàn khác. Luật Doanh nghiệp đã trao cho hội đồng thành viên (đối với công ty TNHH) và đại hội đồng cổ đông (đối với công ty cổ phần) “là cơ quan quyết định cao nhất của công ty” và có quyền “Quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty”; “Quyết định mức lương, thưởng và lợi ích khác đối với chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc, kế toán trưởng và người quản lý khác quy định tại điều lệ công ty”.
Quan trọng hơn, để đảm bảo quyền của các đồng sở hữu, Luật Doanh nghiệp quy định: Quyết định của hội đồng thành viên hoặc đại hội đồng cổ đông được thông qua tại cuộc họp khi “được số phiếu đại diện ít nhất 65% tổng số vốn góp của các thành viên dự họp chấp thuận; tỷ lệ cụ thể do điều lệ công ty quy định”. Sẽ không có vấn đề gì phải bàn nếu phần vốn góp của Nhà nước chiếm trong vốn điều lệ của công ty từ 65% trở lên. Với những trường hợp phần vốn góp của Nhà nước chiếm dưới 65% vốn điều lệ thì công ty có bắt buộc phải thi hành nghị định hay không? Rõ ràng, với những trường hợp đó, Nhà nước không thể làm thay hội đồng thành viên hoặc đại hội đồng cổ đông của công ty. Luật Doanh nghiệp nhà nước sẽ hết hiệu lực thi hành từ 1-7-2010. Và, khi đó, nghị định nếu được ban hành có trái với Luật Doanh nghiệp?
Thứ hai, thế nào là “thành viên chuyên trách” của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị? Dự thảo Nghị định có đưa ra khái niệm “thành viên chuyên trách của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị”. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định: “Hội đồng thành viên gồm các thành viên, là cơ quan quyết định cao nhất của công ty” (đối với công ty TNHH - điều 47) và “Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của đại hội đồng cổ đông” (đối với công ty cổ phần - điều 108). Luật Doanh nghiệp không quy định về “thành viên chuyên trách của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị”. Vì vậy, thiết nghĩ, có hay không có “thành viên chuyên trách của hội đồng thành viên, hội đồng quản trị” và quyền hạn, các quyền lợi của thành viên này thuộc thẩm quyền quy định của các thành viên góp vốn, Nhà nước không cần và không nên can thiệp vào vấn đề này.
Thứ ba, theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, các khoản thù lao, tiền lương của các thành viên hội đồng thành viên, các khoản tiền thưởng cho người lao động trong công ty, bao gồm cả các thành viên hội đồng thành viên, hội đồng quản trị được lấy từ lợi nhuận sau thuế của công ty, trừ trường hợp thành viên đó trực tiếp tham gia điều hành công ty. Đó là vấn đề thuộc phạm vi phân phối lợi nhuận sau thuế. Luật Doanh nghiệp cũng quy định, việc phân phối lợi nhuận sau thuế thuộc thẩm quyền của hội đồng thành viên, đại hội đồng cổ đông.
Điều 3 của Dự thảo Nghị định đưa ra ba nguyên tắc quản lý lao động, tiền lương, tiền thưởng trong các công ty có phần vốn góp chi phối của Nhà nước. Đó là những nguyên tắc hoàn toàn đúng về mặt lý thuyết. Trong đó, quan trọng nhất là nguyên tắc thứ ba, “công ty quyết định tiền lương, tiền thưởng của người lao động phù hợp với năng suất lao động và khả năng của công ty; quyết định tiền lương, tiền thưởng của thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc, giám đốc gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm tỷ suất lợi nhuận trên vốn tăng thì tiền lương, tiền thưởng tăng, tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm thì tiền lương, tiền thưởng giảm”.
Tuy nhiên, những quy định ở phần sau của Dự thảo Nghị định lại không thể hiện sự quán triệt những nguyên tắc nêu trên. Tiết b, khoản 3 điều 4 của Dự thảo Nghị định lại có quy định rất cụ thể với ba trường hợp: i) Tiền lương bình quân của người lao động dưới 5 triệu đồng/tháng thì tiền lương bình quân của thành viên chuyên trách hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc, giám đốc tối đa không vượt quá 10 lần tiền lương bình quân của người lao động; ii) Tiền lương bình quân của người lao động từ 5 triệu đồng/tháng đến dưới 7 triệu đồng/tháng thì tiền lương bình quân của thành viên chuyên trách hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc, giám đốc tối đa không vượt quá chín lần tiền lương bình quân của người lao động; và iii) Tiền lương bình quân của người lao động từ 7 triệu đồng/tháng trở lên thì tiền lương bình quân của thành viên chuyên trách hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc, giám đốc tối đa không vượt quá tám lần tiền lương bình quân của người lao động.
Câu hỏi được đặt ra là: Mối liên hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty thông qua chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận trên vốn với tiền lương, tiền thưởng của thành viên chuyên trách hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc, giám đốc được thể hiện như thế nào? Với quy định đã trích dẫn trên, các công ty sẵn sàng “vẽ” ra một kế hoạch kinh doanh đầy sức thuyết phục và quyết định mức lương cho các thành viên chuyên trách hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc, giám đốc với hệ số tối đa. Tiền lương là khoản phải được chi hàng tháng. Song, khi kết thúc năm tài chính, công ty bị thua lỗ hoặc các chỉ tiêu quan trọng như lợi nhuận sau thuế, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu... không đạt như kế hoạch thì có thể thu hồi số tiền lương “cao chót vót” đã chi hay không? Chắc chắn là không vì sẽ có “nghìn lẻ một” lý do khách quan dẫn đến thua lỗ hoặc không hoàn thành kế hoạch được đưa ra! Ngược lại, với mức lương tối đa không vượt quá 10 lần tiền lương bình quân của người lao động, các công ty này cũng sẽ khó lòng thu hút được người giỏi để cạnh tranh với các công ty thuộc thành phần khác, không bị ràng buộc bởi quy định này.
Từ những phân tích về sự mâu thuẫn và thiếu nhất quán của Dự thảo Nghị định, xin kiến nghị: cần nghiên cứu kỹ hơn, toàn diện hơn trước khi ban hành nghị định này. Câu hỏi trước hết cần trả lời là: Trong kinh tế thị trường, Nhà nước có cần thiết phải can thiệp vào những vấn đề rất cụ thể như tiền lương, tiền thưởng của doanh nghiệp hay không? Có cách nào để bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh với tiền lương, tiền thưởng của người lao động, trong đó có cả các thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên, tổng giám đốc, giám đốc và những người quản lý khác của doanh nghiệp hay không? Không thể chi tiền lương, tiền thưởng theo những quy định cứng nhắc rồi chạy theo để xử lý hậu quả.
3. Báo Phụ nữ có bài Luật Phòng chống bạo lực gia đình: Vì sao chưa hiệu quả?. Bài báo phản ánh: Tại Trung tâm tư vấn, chăm sóc sức khỏe phụ nữ (Sở Y tế Hà Nội), nơi thực hiện dự án Hỗ trợ chăm sóc cho phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình (BLGĐ), chỉ tính riêng tháng 8/2009, đã có hơn 50 trường hợp là nạn nhân của BLGĐ đến tư vấn, khám và điều trị. Theo số liệu của Trung tâm, con số nạn nhân vẫn tiếp tục tăng đều, dù đã hơn một năm Luật Phòng chống BLGĐ có hiệu lực thi hành (1/7/2008).
Luật sư (LS) Chu Thị Vân, Trưởng văn phòng LS Chu Vân (Đoàn LS TP Hà Nội) đánh giá, một năm qua tình trạng BLGĐ vẫn gia tăng, trong khi Luật Phòng chống BLGĐ chưa thấy phát huy tác dụng. Nguyên nhân chính, theo LS Vân, là do các cơ quan thực thi pháp luật (công an, viện kiểm sát, tòa án) và chính quyền địa phương, là những cơ quan chủ chốt thực thi Luật, vẫn thờ ơ.
Tháng 7/2009, văn phòng LS Chu Vân tiếp cận trường hợp cụ bà Nguyễn Thị Th. (xã Minh Trí, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) sống cùng người con trai duy nhất và bị chính người con này bạo hành nhiều lần. Đến khi bà bị tai biến mạch máu não, vào điều trị tại BV, người con này bỏ mặc, chỉ có mấy người con gái đến chăm sóc mẹ. Nhân “cơ hội” đó, người con trai này còn lấy toàn bộ giấy tờ nhà đất giấu đi. Ra viện, bà Th. không về sống với con trai vì sợ tiếp tục bị đánh, chửi nên đi ở nhờ hết nhà người con gái này đến người con gái khác, thậm chí phải thuê một căn phòng nóng bức ngột ngạt để ở. Nay bà Th. có nguyện vọng chia đất cho các con nhưng người con trai không chịu đưa giấy tờ. Bà đã nhiều lần yêu cầu chính quyền xã Minh Trí giải quyết.
Theo Luật Phòng chống BLGĐ, hành vi của người con trai bà Th. được coi là vi phạm, thậm chí còn có dấu hiệu phạm pháp, được quy định tại Điều 141 Bộ luật Hình sự về tội chiếm giữ trái phép tài sản, phải khởi tố, nhưng chính quyền xã Minh Trí chỉ tiến hành hòa giải. Tại buổi hòa giải này, công an xã cho biết, họ chỉ nghe đến Luật Phòng chống BLGĐ chứ chưa được đọc! Vụ việc không hòa giải được và chính quyền lại khuyên đương sự đưa hồ sơ ra tòa án giải quyết, dù bà Th. đã có đơn gửi đến công an xã yêu cầu xử lý về hình sự.
Tháng 5/2009, LS Nguyễn Văn Tú, Văn phòng LS Khánh Hưng (Đoàn LS TP Hà Nội) được mời bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân Lại Thị Mai (Phủ Lý, Hà Nam) bị chết vì hành vi BLGĐ do chồng gây ra. Trong quá trình tiếp cận hồ sơ vụ án, các cơ quan thực thi pháp luật tại địa phương đều không hề biết đến Luật Phòng chống BLGĐ, LS Tú phải photo cuốn Luật Phòng chống BLGĐ để “tặng”.
Về phía cộng đồng, cũng do không hiểu biết luật, chưa được tuyên truyền thấu đáo nên vẫn có thái độ thờ ơ hoặc không chịu tố giác kẻ có hành vi bạo lực khiến nhiều vụ BLGĐ diễn ra một thời gian dài, liên tiếp và gây ra những hậu quả nghiêm trọng như các vụ chị Lại Thị Mai ở Phủ Lý, chị Nguyễn Thị Lưu ở Sóc Sơn (Báo Phụ Nữ đã phản ánh) đều là những nạn nhân bị bạo lực liên tiếp trong một thời gian dài. Gia đình, hàng xóm đã nhiều lần chứng kiến cảnh người chồng hành hung vợ nhưng vẫn không tỏ thái độ gì. Kết quả là các chị đều đã chết, để lại những đứa con thơ mất mẹ.
Hoạt động của một số mô hình hỗ trợ cho các nạn nhân bị BLGĐ như nhà tạm lánh;  trung tâm tư vấn, hỗ trợ; cơ sở chăm sóc sức khỏe phụ nữ (nơi tiếp nhận điều trị nạn nhân bị BLGĐ)... hiện cũng hoạt động “thoi thóp” vì thiếu kinh phí. Các mô hình này phụ thuộc quá nhiều vào viện trợ từ các dự án của nước ngoài nên khi hết dự án là ngừng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng.
Cho đến nay, Luật Phòng chống BLGĐ thực thi đã hơn một năm, Nghị định hướng dẫn đã ban hành, nhưng các bộ, ngành chưa hề có thông tư hướng dẫn, trong đó có Bộ Y tế, Bộ VH-TT-DL, Bộ Tài chính... Khi không có các quy định cụ thể về chế độ, chính sách thì các hoạt động phòng chống BLGĐ liên quan cũng chỉ ở mức duy trì chứ không thể hiệu quả cao được.


File đính kèm