Trong buổi sáng ngày 31/7/2008, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tiền phong phản ánh: Chi cục Hải quan cảng Đà Nẵng khu vực 2 (Cục Hải quan Đà Nẵng) cho biết: tại cảng Tiên Sa vừa phát hiện một vụ nhập thép phế liệu dưới dạng rác thải có trộn lẫn chất cực độc.
Số rác thải với số lượng lớn được chứa trong 18 container loại 20 feet này có nguồn gốc xuất xứ từ Ý. Theo tờ khai hải quan mở ngày 7/7 tại Chi cục Hải quan cảng Đà Nẵng khu vực 2, chủ của lô hàng là Công ty cổ phần thép Thành Lợi (số 10 Khu công nghiệp Hòa Khánh, Liên Chiểu, Đà Nẵng). Toàn bộ lô hàng được kê khai là thép phế liệu đã cắt vụn, có khối lượng 434 tấn và nhập về VN bằng đường biển. Tổng trị giá của lô hàng theo tờ khai là 234.414 USD.
Theo ông Trần Đình Chiến - phó giám đốc Trung tâm Kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng khu vực 2, kết quả kiểm nghiệm cho thấy trong mẫu thép phế liệu có chứa cả hàm lượng asen (0,003mg/kg) và hàm lượng thủy ngân (0,012mg/kg) vốn là những chất cực độc bị cấm nhập khẩu.
Theo một cán bộ hải quan, đây là vụ nhập thép phế liệu có chứa rác thải lớn nhất được phát hiện từ trước đến nay, thậm chí có chứa cả chất thải nguy hại rất nguy hiểm cho môi trường.
Báo cũng phản ánh: Kiểm tra giá tại các bến xe trên cả nước, đây là một trong những nội dung của văn bản hỏa tốc số 8864 do Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh ký ngày hôm nay 30/7, theo đó yêu cầu chấn chỉnh những biểu hiện tăng giá bất hợp lý một số hàng hóa, dịch vụ trong thời gian qua.
Công điện cho biết qua theo dõi diễn biến thị trường cho thấy đã có hiện tượng giá một số hàng hóa, dịch vụ tăng cao bất hợp lý, tăng theo phong trào làm ảnh hưởng không tốt đến việc triển khai thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội, gây tâm lý hoang mang.
“Kiên quyết xử lý nghiêm những đơn vị, cá nhân cố tình vi phạm về giá theo quy định của Chính phủ về xử lý vi phạm trong lĩnh vực giá”- Bộ trưởng Vũ Văn Ninh yêu cầu.
Cùng với đó tổ chức ngay việc kiểm tra thực hiện quy định về phí, lệ phí và giá dịch vụ tại các bến xe trên địa bàn quản lý, việc thực hiện quy định về niêm yết giá cước vận tải tại các bến xe; kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm các quy định của nhà nước về quản lý giá, quản lý phí và lệ phí.
2. Thông tấn xã Việt Nam phản ánh: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhấn mạnh cùng với các ngân hàng thương mại nhà nước khác, Ngân hàng Công thương đã giữ vững và phát huy tốt vai trò chủ lực, trụ cột trong hệ thống ngân hàng nhiều thành phần.
Ngày 30/7, phát biểu khi đến thăm và làm việc với lãnh đạo và cán bộ chủ chốt của Ngân hàng Công thương Việt Nam nhân kỷ niệm 20 năm thành lập, Tổng Bí thư nêu rõ nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của Ngân hàng Công thương và của hệ thống ngân hàng nói chung là làm nòng cốt, xung kích trong việc thực hiện thành công nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Tổng Bí thư cũng chỉ ra một số hạn chế của Ngân hàng Công thương như vẫn còn khoảng cách đáng kể về cơ chế và năng lực quản trị-điều hành, về nguồn nhân lực, về công nghệ, về khả năng quản lý và phòng ngừa rủi ro so với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
3. Báo Vietnamnet phản ánh: Tổng Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) Việt Nam cho biết, hiện cả nước có 2 triệu cán bộ, công chức (CBCC), nhưng chỉ khoảng 2/3 số này có nhà riêng. Nếu như tỉ lệ CBCC có nhà riêng tại các địa phương là khá đều nhau (Đà Nẵng 77%; Long An, Lạng Sơn: 61%...), thì diện tích bình quân lại khá chênh lệch (Lạng Sơn, Thừa Thiên - Huế, Hà Nội có diện tích thấp nhất 7-7,5 m2/người; TP.HCM 12m2/người; Long An: 15m2/người và cao nhất là Đà Nẵng: 20m2/người). Nhìn chung, về chất lượng nhà ở chỉ có khoảng 55% là kiên cố, 40% bán kiên cố, còn lại là nhà tạm.
Có khoảng 1/3 số CBCC vào biên chế từ trước năm 1992 được phân phối nhà ở. Nhưng số này làm việc lâu, đã nghỉ hưu và chiếm tỉ lệ nhỏ - tương đương với khoảng 5% so với tổng số CBCC hiện đang làm việc. Và những ngôi nhà phân phối chủ yếu xây dựng trong những năm 60-70 của thế kỷ trước nên đang bị xuống cấp nghiêm trọng.
Số còn lại, khoảng 700 nghìn CBCC chưa có chỗ ở ổn định, phải ở ghép hộ với bố mẹ, người thân, một số đi thuê, ở nhờ, ở tạm. Những chỗ ở kiểu này thường chật hẹp, giao thông khó khăn, vệ sinh môi trường kém…
Tổng LĐLĐ Việt Nam cho rằng, nhà trọ của công nhân không đảm bảo những điều kiện tối thiểu về vệ sinh, điện, nước. Điều này góp phần làm cho chất lượng sống của công nhân thấp. Ăn ở chật chội, nhếch nhác, sinh hoạt khó khăn, không tivi, đài báo. Giá thuê những phòng trọ như thế này ở các thành phố lớn bình quân rơi vào quãng 200-250 nghìn đồng/tháng, tỉnh lẻ thì rẻ hơn 60-150nghìn đồng/tháng. Trong khi đó, thu nhập của công nhân tại Hà Nội phổ biến ở mức trên dưới 1 triệu đồng/tháng. Như thế tiền thuê nhà đã chiếm 1/4 tổng thu nhập, chưa kể chi phí sinh hoạt đời thường khác.
Và thực tế đã chứng minh, tình trạng hàng trăm nghìn công nhân nhập cư làm việc trong các khu công nghiệp nhưng thiếu chỗ ăn ở, đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp tại các địa phương. Giải quyết vấn đề nhà ở cho CBCC vẫn đang là "bài toán khó" đối với nhiều tỉnh, thành.
4. Báo Thanh niên phản ánh: Sáng 30.7 tại Đà Nẵng, Ủy ban An toàn giao thông quốc gia (ATGT) đã tổ chức sơ kết công tác ATGT 6 tháng đầu năm. Trong 6 tháng qua, cả nước xảy ra 6.462 vụ tai nạn giao thông (TNGT), làm chết 5.921 người, bị thương 4.278 người. So với cùng kỳ năm 2007, số vụ tai nạn giảm nhiều ở đường bộ, đường sắt và đường thủy là 1.207 vụ, số người chết cũng giảm 989 người và số bị thương giảm 1.633 người.
49 địa phương có số vụ TNGT giảm nhiều như Cà Mau, Nghệ An, Bạc Liêu, Đắc Nông...
Cũng theo Ủy ban ATGT, có được kết quả như trên là nhờ ý thức của người dân được nâng cao; bước đầu thực hiện thành công chủ trương bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy góp phần giảm thương vong do TNGT (số trường hợp bị chấn thương sọ não giảm 24,8%)...
Tuy nhiên, Ủy ban ATGT cũng cảnh báo tình trạng bắt buộc đội mũ bảo hiểm khi đi mô tô, xe máy chưa thực hiện tốt ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, buổi tối ở đô thị... trẻ em ngồi trên mô tô, xe máy không đội mũ bảo hiểm có chiều hướng gia tăng. Việc kiểm soát chất lượng mũ bảo hiểm chưa đạt yêu cầu, chưa có biện pháp xử lý kịp thời. Đặc biệt, tình trạng thanh thiếu niên điều khiển mô tô lạng lách, đánh võng, đua xe trái phép diễn ra phức tạp tại một số địa phương.
5. Báo Nhân dân phản ánh: Từ đầu năm đến nay, Quảng Bình đã đón được hơn 225 nghìn lượt du khách, tăng 25,2% so cùng kỳ. Ðiểm thu hút nhiều du khách tham quan nhất là Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng với lượng khách đạt 140.800 lượt , tăng 2,4%. Lượng khách quốc tế tăng mạnh chủ yếu từ các thị trường: Thái-lan, Pháp, Hà Lan, Canada và Lào tăng mạnh.
Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch của du lịch tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là trong dịp kỷ niệm năm năm Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di sản thế giới. Tỉnh đang phấn đấu sẽ đón khoảng 670.000 lượt khách trong năm 2008, nộp ngân sách 23 tỷ đồng.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên có bài "Xây dựng cẩm nang pháp luật phục vụ dân sinh". Bài báo phản ánh: Gần 200 văn bản có tính chất cơ bản, quan trọng, thiết thực nhất, điều chỉnh trực tiếp đời sống của người dân trong các lĩnh vực: dân sinh, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh trật tự, tư pháp, được tuyển chọn từ hệ thống văn bản pháp luật VN sẽ được chuyển thể dưới dạng các tình huống giả định trắc nghiệm nhằm phổ biến một cách có hệ thống, dễ tiếp thu, dễ nhớ và dễ vận dụng tới từng người dân.
Đây là một trong số những nội dung của đề án "Sức nước ngàn năm" do Ban Tuyên giáo T.Ư, Bộ Tư pháp, Đài truyền hình VN và Công ty CP truyền thông Trường Thành phối hợp thực hiện mà ban tổ chức đề án cho biết tại cuộc hội thảo được tổ chức sáng qua (30.7) tại Hà Nội.
Các tài liệu này sẽ được tổng hợp thành một tuyển tập và phát hành rộng rãi tới các tủ sách phường xã, hộ gia đình, các thư viện, nhà trường... để người dân có thể sử dụng làm cẩm nang tra cứu pháp luật.
Ngoài ra, đề án này cũng sẽ tổ chức thực hiện các trò chơi trên sóng phát thanh, đài truyền hình mang tên "Sức nước ngàn năm". Đồng thời một đường dây nóng cũng sẽ được hình thành để hỗ trợ, tư vấn và giải đáp mọi vấn đề pháp luật cho người dân.
Báo cũng có bài Nhiều bất cập trong đào tạo, phát triển luật sư. Bài báo phản ánh: Những bất cập trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển luật sư (LS) đã được khá nhiều tham luận đề cập đến trong buổi tọa đàm về hoạt động tham gia tố tụng của LS và định hướng xây dựng chiến lược phát triển nghề LS, do Vụ Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư Pháp) tổ chức ngày 29.7 tại TP Cần Thơ.
Theo LS Bùi Quang Minh, Phó chủ nhiệm Đoàn LS TP Cần Thơ thì Luật LS được ban hành trong bối cảnh cải cách tư pháp đang được triển khai có chiều sâu với quyết tâm mạnh mẽ hơn, khi Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Thế giới. Luật LS đã tạo cơ sở pháp lý rất thuận lợi cho sự phát triển và hành nghề của LS. Do vậy việc luật hóa vai trò, vị trí, chuyên nghiệp hóa nghề LS là góp phần phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Luật LS đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi để mọi người có đủ điều kiện là có thể học và hành nghề.
Tuy nhiên trên thực tế tại khu vực ĐBSCL hiện nay, theo như LS Nguyễn Viết Bình, thành viên Hội đồng lâm thời LS toàn quốc thì số lượng LS hiện còn quá thấp so với nhu cầu của dân số. LS Bình đã nêu những con số làm cho cử tọa tham gia phải giật mình. Cụ thể, Cần Thơ là địa phương có số lượng LS đông vào hàng thứ 4 cả nước nhưng chỉ mới ở mức 141 LS (trong đó có 51 LS tập sự), An Giang 50 LS (10 LS tập sự ), Kiên Giang 18 LS (4 LS tập sự ), Sóc Trăng có 17 LS (6 LS tập sự), riêng Hậu Giang hiện nay chỉ có 6 LS (2 LS tập sự)…
Nếu tính theo tỉ lệ số dân thì Cần Thơ có 1 LS/10.000 dân; tỷ lệ đó ở An Giang: 1/50.000, Kiên Giang 1/77.000, Sóc Trăng 1/70.000, Hậu Giang 1/132.000 (!).Trong khi đó, tỉ lệ bình quân cả nước hiện nay là 1LS/20.000 dân. Điều này cho thấy phần lớn LS chỉ tập trung ở các thành phố lớn. Đó là chưa nói đến đội ngũ LS tại các tỉnh ĐBSCL hiện vẫn chưa theo kịp đòi hỏi của thực tế, nhất là các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc như Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, An Giang…
Xoay quanh việc làm thế nào để tiếp tục phát triển về số lượng, đảm bảo về chất lượng đội ngũ LS và phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, ông Phạm Văn Hiểu - Giám đốc Sở Tư pháp Cần Thơ cho rằng, Nhà nước cần phải tạo môi trường pháp lý rộng hơn nữa cho tổ chức và hoạt động của LS; đồng thời phải xây dựng hệ thống các quy định pháp luật về Luật LS, hướng đến sự phù hợp với quy luật phát triển của nghề LS, bên cạnh việc xây dựng chính sách hỗ trợ, nâng cao địa vị pháp lý của LS.
Cũng trong buổi tọa đàm, nhiều ý kiến cho rằng pháp luật hiện nay tuy có qui định một số quyền và nghĩa vụ cho LS tham gia tố tụng, nhưng do không có cơ chế rõ ràng nên LS khó thực thi trọn vẹn quyền của mình.
2. Báo Quân đội nhân dân trên mục Nhịp cầu bạn đọc có bài của Phạm Văn Chung (Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum) Vướng mắc trong nhận con nuôi.
Bài báo phản ánh: Qua hơn 5 năm thực hiện các qui định của pháp luật về vấn đề nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi quốc tế nói riêng và thực hiện Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10-7-2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài (sau đây gọi tắt là NĐ 68), có một số khó khăn, vướng mắc nảy sinh.
Thứ nhất, về cơ sở nuôi dưỡng: Theo quy định của NĐ 68, cơ sở nuôi dưỡng để giải quyết cho trẻ em làm con nuôi của người nước ngoài phải là cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp. Một số địa phương ở phía nam vẫn tồn tại các cơ sở nuôi dưỡng; trong đó các cơ sở nuôi dưỡng của các tổ chức tôn giáo, đã được hình thành từ trước giải phóng nay vẫn hoạt động. Người nước ngoài đến Kon Tum chủ yếu xin trẻ em từ cơ sở này làm con nuôi. Thứ hai, về trình tự chuẩn bị hồ sơ của trẻ em được xin đích danh: Theo quy định, sau khi nhận được yêu cầu của cơ quan con nuôi quốc tế tại Việt Nam, Sở Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở nuôi dưỡng trẻ em (nếu trẻ em được xin đích danh từ cơ sở nuôi dưỡng) hoặc cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em (nếu trẻ em được xin đích danh từ gia đình) lập hồ sơ của trẻ em. Tuy nhiên, khi hướng dẫn lập hồ sơ còn gặp vướng mắc. Khoản 3, Điều 44 của NĐ 68 ghi rõ: “Sau khi đã được thông báo và nhận thức một cách rõ ràng về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, những người sau đây có quyền ký giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi: Người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng có quyền đồng ý cho trẻ em đang sống ở cơ sở nuôi dưỡng làm con nuôi. Trong trường hợp trẻ em còn cha, mẹ đẻ thì còn phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha, mẹ đẻ của trẻ em đó, trừ trường hợp trẻ em đó có nguồn gốc bị bỏ rơi, bị bỏ lại cơ sở y tế hoặc khi trẻ em đó được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng đã có giấy của cha mẹ đẻ đồng ý cho con làm con nuôi hoặc cha mẹ đẻ của trẻ em đó mất năng lực hành vi dân sự. Cha mẹ đẻ có quyền đồng ý cho trẻ em đang sống tại gia đình làm con nuôi. Nếu cha hoặc mẹ đẻ của trẻ em đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chỉ cần sự đồng ý của người kia. Trong trường hợp cả cha và mẹ đẻ của trẻ em đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của người giám hộ của trẻ em đó.
Do vậy, khi thực hiện thì có thể hiểu rằng, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là hệ quả pháp lý của hình thức nuôi con nuôi “Trọn vẹn” hay hình thức “Đơn giản”. Nhưng để thiết lập hồ sơ, khi hướng dẫn, Sở Tư pháp không có đủ cơ sở pháp lý để giải thích thế nào là hình thức cho con nuôi “Trọn vẹn” hay hình thức “Đơn giản”. Vấn đề này cần có quy định hướng dẫn rõ ràng và cụ thể, để có cơ sở thống nhất thực hiện. Thứ ba, việc giao nhận con nuôi: Khoản 2, Điều 49 của Nghị định số 68 quy định: “Việc giao nhận con nuôi được tổ chức tại trụ sở Sở Tư pháp, với sự có mặt của đại diện Sở Tư pháp; trẻ em được nhận làm con nuôi; bên nhận là cha, mẹ nuôi; bên giao là đại diện cơ sở nuôi dưỡng, nếu trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha, mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ em, nếu trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ gia đình”. Vấn đề đặt ra là đối với những trường hợp trẻ em sống ở cơ sở nuôi dưỡng, nhưng còn cha, mẹ thì tại buổi giao nhận con nuôi, ngoài sự có mặt của người đại diện cơ sở nuôi dưỡng, việc có hay không có sự có mặt của cha, mẹ đẻ của trẻ lại chưa được quy định rõ ràng. Thứ tư, vấn đề công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi. Về nguyên tắc giải quyết việc cho nhận con nuôi, theo NĐ 68 thì chỉ giải quyết cho nhận trẻ em có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi, nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Trừ trường hợp đặc biệt ngoại lệ áp dụng cho người nước ngoài. Như vậy, trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, nước mà chưa ký kết Hiệp định về nuôi con nuôi với Việt Nam xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, thì có phải tuân thủ nguyên tắc trên hay không? Nếu không phải áp dụng, thì trình tự giải quyết được thực hiện như thế nào, cũng nên được quy định rõ ràng.
Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả NĐ 68 trong thời gian tới, đề nghị Bộ Tư pháp cần có văn bản hướng dẫn việc giải quyết cho người Việt Nam định cư ở các nước chưa ký với Việt Nam Hiệp định về nuôi con nuôi, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết khi có yêu cầu. Đồng thời, Bộ Tư pháp cần có hướng dẫn đối với các vấn đề mà các địa phương còn vướng mắc như đã đề cập ở trên.
Trên đây là điểm báo sáng ngày 31/7/2008, Văn phòng xin báo cáo Lãnh đạo Bộ.
Phòng Tổng hợp - Văn phòng Bộ.