Trong buổi sáng ngày 19/5/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Nhân dân phản ánh: Chiều 18-5, tại Hà Nội, Ủy ban Quốc phòng và An ninh của QH đã bắt đầu phiên họp toàn thể lần thứ chín với sự chủ trì của Chủ nhiệm Ủy ban Lê Quang Bình. Ðại diện các bộ: Quốc phòng, Công an, Giao thông vận tải dự.Trong buổi làm việc thứ nhất, Ủy ban đã nghe báo cáo và cho ý kiến về kết quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Công an Nhân dân, Luật Giao thông đường bộ, Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước, Pháp lệnh công an xã, Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam và Pháp lệnh công nghiệp quốc phòng.
Theo báo cáo kết quả giám sát và đánh giá chung của Ủy ban, sau khi những luật, pháp lệnh nói trên có hiệu lực, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo, các bộ tích cực nghiên cứu, soạn thảo văn bản để tham mưu cho Chính phủ ban hành, đồng thời trực tiếp soạn thảo, ban hành hoặc phối hợp các cơ quan chức năng soạn thảo, ban hành các văn bản quy định chi tiết theo thẩm quyền. Hầu hết các văn bản đã ban hành cơ bản phù hợp quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thẩm quyền ban hành, thủ tục, trình tự và hình thức văn bản; nội dung văn bản quy định nhìn chung đã cụ thể hóa được yêu cầu trong các luật, pháp lệnh; cơ bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm sự phù hợp giữa hình thức văn bản với nội dung văn bản và thẩm quyền ban hành văn bản. Thông qua hoạt động ban hành các văn bản quy định chi tiết, đã sớm đưa các quy định của luật, pháp lệnh nói trên đi vào cuộc sống, từng bước nâng cao hiệu quả và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước đối với các lực lượng vũ trang nhân dân, lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ, tăng cường công tác bảo đảm bí mật nhà nước, bảo đảm quốc phòng- an ninh, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Tuy nhiên, báo cáo kết quả giám sát và ý kiến của các thành viên Ủy ban cho thấy, tiến độ ban hành các văn bản quy định chi tiết các luật, pháp lệnh nói trên nhìn chung chưa bảo đảm được về mặt thời gian theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Một số quy định trong một số văn bản quy định chi tiết có nội dung chưa bảo đảm tính thống nhất với quy định liên quan trong luật, pháp lệnh đó. Công tác kiểm tra, đôn đốc của Chính phủ đối với các bộ, ngành trong việc ban hành văn bản quy định chi tiết và việc xử lý đối với những văn bản có nội dung vi phạm pháp luật chưa được tiến hành thường xuyên và chưa được quan tâm đúng mức.Sau khi nêu các nguyên nhân khách quan, chủ quan của những hạn chế, yếu kém, Ủy ban Quốc phòng và An ninh đã đưa ra một số kiến nghị với QH, Chính phủ và các bộ.
Tại phiên họp toàn thể lần này, Ủy ban Quốc phòng và An ninh của QH còn nghe báo cáo và cho ý kiến về kết quả thực hiện nhiệm vụ, ngân sách quốc phòng, an ninh những tháng cuối năm 2009; tình hình triển khai thực hiện nhiệm vụ, ngân sách quốc phòng, an ninh những tháng đầu năm 2010; đánh giá kết quả hoạt động của Ủy ban từ sau kỳ họp thứ sáu đến nay, phương hướng nhiệm vụ hoạt động những tháng còn lại của năm 2010.
2. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam phản ánh: Chiều nay (18/5), Bộ Nội vụ đã tổ chức sơ kết tình hình và kết quả thực hiện Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính (TTHC) trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (Đề án 30) trong giai đoạn thống kê và rà soát thủ tục hành chính. Đây là cơ quan Bộ đầu tiên tiến hành sơ kết Đề án 30 theo yêu cầu của Văn phòng Chính phủ.
Theo báo cáo của Tổ công tác Đề án 30 Bộ Nội vụ, Bộ đã hoàn thành giai đoạn thống kê các TTHC thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ theo đúng tiến độ yêu cầu của đề án 30, về cơ bản đảm bảo chất lượng thống kê của các TTHC. Cụ thể, Bộ TTHC thuộc phạm vi chức năng của Bộ Nội vụ gồm tổng số 180 TTHC. Mỗi một TTHC được thống kê rõ, đầy đủ và cụ thể về các nội dung và yêu cầu đặt ra theo hướng dẫn của Tổ công tác chuyện trách cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ. Với việc thực hiện thành công giai đoạn thống kê và công bố Bộ TTHC thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, lần đầu tiên Bộ đã tập hợp được một bộ cơ sở dữ liệu đầy đủ, hoàn chỉnh về TTHC liên quan đến lĩnh vực hoạt động nội vụ. Trong 180 TTHC được thống kê, có 2/180 TTHC đã hết hiệu lực thi hành và chưa có thủ tục mới thay thế, có 3/180 TTHC thống kê trùng với các TTHC khác trong Bộ TTHC thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ. Do đó, số lượng TTHC được rà soát là 175 thủ tục. Trong đó Bộ kiến nghị giữ nguyên 15/175 TTHC; kiến nghị sửa đổi, bổ sung 154/175 TTHC; 3/175 kiến nghị cơ quan có thẩm quyền tham mưu ban hành sửa đổi, bổ sung thuộc lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng chống tham nhũng thực hiện ở cấp Trung ương.
Bộ cũng ước tính chi phí tiết kiệm được sau khi đơn giản hoá TTHC là khoảng 240 tỷ đồng/ năm. Ngoài ra, việc triển khai thực hiện giai đoạn thống kê và rà soát TTHC tại Bộ còn đạt được hiệu quả trên mặt chính trị - xã hội. Cụ thể là tạo được lòng tin cho công dân, tổ chức, doanh nghiệp đối với các cơ quan nhà nước, thúc đẩy các giao dịch giữa công dân, tổ chức với Nhà nước, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội...
Với những kết quả trên, ông Ngô Hải Phan, Tổ phó Thường trực Tổ công tác chuyên trách Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao những nỗ lực, tinh thần làm việc nghiêm túc và trí tuệ của cán bộ viên chức Bộ Nội vụ. “Bộ Nội vụ đã đạt được tỷ lệ đơn giản hoá cao. Thủ tướng yêu cầu tỷ lệ đơn giản hoá tối thiểu là 30%, thì Bộ đạt tới trên 80%.” – ông Phan nhấn mạnh.
Về cải cách TTHC giai đoạn 2011- 2020, Bộ đặt mục tiêu sẽ tiếp tục rà soát để tiến tới đơn giản hoá 20% các TTHC; kiểm soát việc ban hành các văn bản mới có thủ tục cần phải làm rõ cơ sở, sự cần thiết ban hành các thủ tục và phải có sự tham gia ý kiến của Tổ công tác Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ; đưa nội dung kiểm soát TTHC vào công tác cải cách thể chế để hạn chế tối đa việc ban hành các thủ tục mới và coi đây là một trong những nội dung nhằm nâng cao chất lượng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Hữu Thắng nhấn mạnh: Giai đoạn 3 (thực thi các kiến nghị) là giai đoạn quan trọng nhất, khó nhất, đòi hỏi các kiến nghị sửa đổi bổ sung hoặc bãi bỏ phải tiến hành rất thận trọng, phải nghiên cứu kỹ lưỡng, nhất là đối với các văn bản quy phạm pháp luật. Do đó Thứ trưởng đề nghị các đơn vị soạn thảo lưu ý kiểm soát chặt chẽ ngay từ đầu các quy định có liên quan đến TTHC, tránh việc vừa ban hành đã phải rà soát lại.Cũng tại hội nghị, Bộ Nội vụ đã trao tặng bằng khen cho 8 tập thể và 14 cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc thực hiện Đề án 30 giai đoạn 2007-2010.
3. Báo Quân đội nhân dân phản ánh: Sáng 18-5, tỉnh Sơn La đã tổ chức Lễ công bố hoàn thành công tác di chuyển dân ra khỏi lòng hồ thủy điện Sơn La, sớm hơn hai năm so với kế hoạch ban đầu.
Dự án thủy điện Sơn La là công trình trọng điểm Quốc gia, có nhiệm vụ cung cấp điện năng để phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; góp phần chống lũ về mùa mưa, cung cấp nước về mùa kiệt cho Đồng bằng Bắc Bộ; thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội khu vực Tây Bắc. Để triển khai thực hiện dự án, 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên phải di chuyển 18.897 hộ dân tới nơi ở mới; riêng tỉnh Sơn La phải di chuyển 12.584 hộ.
4. Báo Lao động phản ánh: Sáng 17.5, UBND TP Hải Phòng đã họp báo công bố nguyên nhân gây ra vụ hơn 500 học viên cai nghiện bỏ trốn khỏi Trung tâm Giáo dục lao động số 2 (tại xã Đại Thắng, huyện Tiên Lãng) vào tối 16.5. Theo đó - khoảng 16h20 phút ngày 16.5 - 587/826 học viên đã dùng gậy gộc, gạch đá để ném và khống chế cán bộ trung tâm, tập trung thành đoàn rời khỏi trung tâm. Theo ông Nguyễn Đình Hoa - GĐ trung tâm - cho biết, nguyên nhân dẫn đến vụ việc trên là do 2 học viên đánh nhau. Cán bộ trung tâm yêu cầu 2 học viên này viết kiểm điểm. Đến giờ ăn tối, một số đối tượng đã kích động các học viên bỏ trốn. Đến chiều ngày 17.5, đã có 141 học viên quay trở lại trung tâm.
Tại buổi họp báo, ông Phạm Văn Mợi - Chánh Văn phòng UBND TP - cho biết: Thành phố đang chỉ đạo làm rõ nguyên nhân sự việc. Trước mắt, trung tâm phối hợp cùng các ngành, gửi danh sác các học viên bỏ trốn về tận địa phương. Nếu học viên nào không tự nguyện sẽ bị cưỡng bức trở lại trung tâm để cai nghiện (92% số học viên trung tâm là đối tượng bị cưỡng bức cai nghiện).
Báo cũng phản ánh: Từ 1.7.2010, quy định bắt buộc tài xế lái ôtô đầu kéo sơmi rơmoóc phải có bằng FC chính thức có hiệu lực. Thế nhưng, đa số tài xế của các địa phương: TPHCM, Đà Nẵng, Hải Phòng chưa chuyển đổi được GPLX, nguyên nhân là do các trung tâm sát hạch không đáp ứng kịp nhu cầu của thực tế.
Theo số liệu của Hiệp hội Vận tải hàng hóa TPHCM, trong năm qua, các trung tâm sát hạch của TPHCM đã cấp GPLX hạng FC cho 1.533 người. Trong khi đó, tại thành phố có 13.000 phương tiện đầu kéo, nên số người có bằng lái hạng FC chỉ đáp ứng hơn 1/10 nhu cầu của DN. Nếu áp dụng ngay quy định bắt buộc phải có bằng FC vào đầu tháng 7, thì những tài xế chưa kịp chuyển đổi bằng lái xe sẽ mất việc.
Theo Hiệp hội Vận tải hàng hóa TPHCM, việc đào tạo và cấp đổi GPLX hạng FC đạt kết quả thấp là do các nguyên nhân: Quyết định số 977/QĐ của Bộ GTVT - ngày 15.4.2009 đã giới hạn thời gian đăng ký danh sách đối với các đối tượng thuộc diện được “đặc cách” (khi có GPLX hạng C, D, E, có đủ thâm niên 3 năm và 50.000km lái xe an toàn) quá gấp gáp, chỉ trong vòng một tháng tính từ ngày văn bản phát hành để triển khai đến các hiệp hội và DN thì chỉ còn 15 ngày để đăng ký với Sở GTVT theo quyết định của bộ, nên DN không chuẩn bị kịp. Nguyên nhân thứ hai là điều kiện vật chất của các trung tâm sát hạch GPLX hạng FC còn thiếu, chưa đủ để đáp ứng với nhu cầu thực tế. Nhiều lái xe cho biết, đã nộp đơn thi chuyển bằng lái nhưng chờ đợi rất lâu, hồ sơ tắc nghẽn. Một nguyên nhân nữa là điều kiện chuyển đổi GPLX sang hạng FC quá khó, cụ thể như phải có GPLX hạng C, D, E và phải đủ 24 tuổi.
Các hiệp hội vận tải đã có kiến nghị Bộ GTVT gia hạn quy định bắt buộc sử dụng bằng FC để lái xe có thời gian chuyển đổi, các trung tâm sát hạch cũng chuẩn bị đầy đủ phương tiện vật chất và giáo viên nhằm đáp ứng được nhu cầu của thực tế. Riêng Hiệp hội Vận tải hàng hóa TPHCM khẳng định: “...việc chậm trễ trong chuyển đổi GPLX sang hạng FC đối với tài xế lái xe đầu kéo chủ yếu do nguyên nhân khách quan từ các cơ quan nhà nước...; đề nghị Bộ GTVT xem xét tiếp tục lùi thời hạn áp dụng quy định lái xe đầu kéo phải có GPLX hạng FC thêm một năm nữa (đến 1.7.2011) và tiếp tục đặc cách chuyển đổi GPLX cho những lái xe đã có GPLX hạng C, D, E, có đủ thâm niên và số kilômét lái xe an toàn như Quyết định 977/QĐ”. Tuy nhiên, kiến nghị của các hiệp hội đã không được chấp thuận, ngày áp dụng quy định đã đến gần. DN và người lao động không biết phải kêu ai.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an nhân dân online có bài Phó Thủ tướng yêu cầu giải quyết sự việc của ông Lê Minh Hải. Bài báo phản ánh: Ngày 16/5/2010, Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 3007/VPCP-KNTN gửi Bộ Tư pháp truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng với nội dung: Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự xem xét, giải quyết nội dung đơn khiếu tố của Công ty cổ phần Công nghiệp Tàu thủy Vũng Tàu theo quy định của pháp luật, báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ.
Vừa qua, Báo CAND đã đăng bài: "Trở về với cộng đồng, Lê Minh Hải: Với tôi, vẫn còn hạnh phúc hơn rất nhiều người". Bài báo viết về những thăng trầm trong cuộc đời của Lê Minh Hải trong vụ án Tamexco. Gần 10 năm thụ án, Lê Minh Hải đã được Chủ tịch nước ký quyết định đặc xá tha tội chết đúng vào dịp Quốc khánh 2-9-2005. Ngay khi trở về cộng đồng, sẵn có tấm bằng Kỹ sư Hàng hải cũng như những kinh nghiệm quản lý trên thương trường, Lê Minh Hải được ông Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam giao cho làm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Công nghiệp Tàu thủy Vũng Tàu, rồi Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Sửa chữa và Dịch vụ Tàu biển Vũng Tàu.
Ngoài việc tham gia điều hành hai doanh nghiệp Hàng hải, thời gian gần đây, Lê Minh Hải còn dành thời gian triển khai dự án nuôi cá hồi, cá tầm ở tỉnh Kon Tum và Đà Lạt. Tuy nhiên, bên cạnh những niềm vui lại là nỗi buồn đối với Lê Minh Hải. Nguyên nhân là Lê Minh Hải rất muốn được thi hành dứt điểm phần trách nhiệm dân sự mà Tòa án đã tuyên. Đó là số tiền phải bồi thường cho Công ty Tamexco hơn 64 tỷ đồng và cùng hơn 10 công ty và cá nhân liên đới bồi thường cho First Vina Bank số tiền hơn 137 tỷ đồng. Song thật khó hiểu là mấy năm qua, sự việc trên vẫn chưa được thực hiện.
Theo Lê Minh Hải, vướng mắc nhất hiện nay chính là việc cơ quan Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh cần sớm tháo gỡ các tài sản của công ty và cá nhân anh đã kê biên để anh có điều kiện thi hành phần còn lại của bản án. Nếu để chậm ngày nào thì phần thiệt trước tiên là Nhà nước.
Bức xúc về vấn đề đã nêu, thời gian gần đây, Lê Minh Hải đã gửi nhiều đơn thư đến các cơ quan, các ngành, các cấp cũng như các cơ quan truyền thông, trong đó có Báo CAND. Ngày 16/4/2010, Lê Minh Hải tiếp tục có đơn gửi Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng phản ánh: "Trong lúc chờ đợi ý kiến cuối cùng của đồng chí Chánh án TAND Tối cao thì ông Vũ Duy Bội, chấp hành viên ngang nhiên một mình ký và cưỡng chế tài sản của Công ty TNHH Dolphin Vũng Tàu (doanh nghiệp mà Lê Minh Hải làm Giám đốc khi bị bắt) để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản".
Sau khi nhận được đơn của Công ty cổ phần Công nghiệp Tàu thủy Vũng Tàu, ngày 16/5/2010, Văn phòng Chính phủ có Văn bản số 3007/VPCP-KNTN gửi Bộ Tư pháp truyền đạt ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng với nội dung: Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự xem xét, giải quyết nội dung đơn khiếu tố của Công ty cổ phần Công nghiệp Tàu thủy Vũng Tàu theo quy định của pháp luật, báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ.
2. Thời báo kinh tế Sài Gòn online có bài Gỡ rối việc xác định thời điểm có hiệu lực. Bài báo phản ánh: Hiện nay những quy định về xác định thời điểm có hiệu lực của các hợp đồng về quyền sử dụng đất trong các văn bản có liên quan đã lộ rõ sự bất hợp lý, cần được xem xét lại. Bằng quy định tại khoản 4, điều 146, Nghị định 181/2004/NĐ-CP khẳng định: “Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất...”.
Quy định này từ đó đã tạo ra nhiều vướng víu khi xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Về vấn đề này, theo chúng tôi, có hai nội dung cần được làm rõ và điều chỉnh lại trong các nội dung quy định của pháp luật. Thứ nhất, xác định lại thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bắt buộc phải công chứng, chứng thực. Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng đối với các bên tham gia. Vì đó là thời điểm chính thức làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của họ liên quan đến hợp đồng đó. Để xác định thời điểm đó, Bộ luật Dân sự yêu cầu phải dựa vào từng loại hợp đồng. Đối với các hợp đồng mà pháp luật đòi hỏi bắt buộc phải có công chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng được tính kể từ thời điểm được công chứng, chứng thực. Hợp đồng trong các giao dịch về quyền sử dụng đất thuộc trường hợp này nên thời điểm có hiệu lực của chúng cũng được tính như vậy. Bỏ qua lý do bắt buộc phải tuân thủ Bộ luật Dân sự như một văn bản gốc, đây là cách thức mà pháp luật đất đai của chúng ta lựa chọn từ trước và cách lựa chọn đó theo chúng tôi là phù hợp. Thứ hai, xác định thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất. Trong các hợp đồng mua bán tài sản thông thường khác, giá trị nội dung quan trọng của nó là việc chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Vì lẽ đó, cực kỳ cần thiết khi xác định thời điểm dịch chuyển quyền sở hữu đối với tài sản từ người bán sang người mua.
Cũng tương tự, trong các giao dịch về quyền sử dụng đất, pháp luật cần phải chỉ ra thời điểm dịch chuyển quyền sử dụng đất từ bên chuyển quyền sang bên nhận chuyển quyền. Thời điểm này về bản chất không phải là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng cho dù trên thực tế chúng có ngẫu nhiên trùng nhau đi chăng nữa.
Trở lại với các quy định mà chúng ta đang bàn luận và giải quyết, chúng tôi cho rằng, những người soạn thảo Nghị định 181/2004/NĐ-CP đã có sự nhầm lẫn giữa hai thời điểm nêu trên. Bởi lẽ, trước hết, theo quy định hiện nay khi thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất, người sử dụng đất có nghĩa vụ tuân thủ đầy đủ các thủ tục luật định tại cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất. Thực ra, thủ tục này là thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo như quy định tại điều 46 của Luật Đất đai và điều 38 Nghị định 181/2004/NĐ-CP. Đồng thời lúc đó, quy trình trước bạ (sang tên) cũng được thực hiện. Cho nên, theo chúng tôi, thực chất thời điểm được đăng ký tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là thời điểm chuyển dịch quyền sử dụng đất.
Không những thế, khi chúng ta cho rằng, hợp đồng được thiết lập trong các giao dịch này có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thì có nghĩa là kể từ thời điểm này việc thực thi hợp đồng mới được bắt đầu, quyền và nghĩa vụ của các bên mới phát sinh. Điều này khó có thể được chấp nhận, bởi vì: Một là, trên thực tế sau khi hợp đồng được công chứng, chứng thực, các bên đã chấp nhận sự ràng buộc và bắt đầu thực hiện các hành vi cam kết. Hai là, không thể phủ nhận giá trị pháp lý của các hợp đồng trong những trường hợp này cho dù nó chưa được đưa ra đăng ký tại cơ quan đăng ký quyền sử dụng đất. Thực tiễn trên thị trường quyền sử dụng đất hiện nay, có rất nhiều hợp đồng được ký kết mà các bên thỏa thuận phương thức thanh toán nhiều lần, nhiều kỳ. Khoảng thời gian này có thể kéo dài từ một đến hai năm và các thủ tục chuyển quyền chỉ được thực hiện sau khi các kỳ hạn thanh toán theo cam kết đã được thực hiện hoàn tất. Trong trường hợp đó, liệu những khoản tiền mà bên mua đã chuyển cho bên bán có liên quan gì đến hợp đồng hay không? Nếu không, thì khi tranh chấp xảy ra việc người bán trả lại những khoản tiền đó cho người mua sẽ như thế nào? Hậu quả cho xã hội sẽ ra sao khi người bán không muốn bán và người mua không muốn mua chỉ với lý do là hợp đồng chưa phát sinh hiệu lực?
Trong đời sống pháp lý, với vị trí của một điều khoản trong một văn bản hướng dẫn thi hành, Nghị định 181/2004/NĐ-CP không thể là rào cản đối với quá trình tuân thủ các quy định của các văn bản có vị trí pháp lý cao hơn, được ban hành trước đó, đặc biệt là Bộ luật Dân sự. Và nội dung này cũng không làm thay đổi thói quen xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng của những người tham gia thiết lập trên thị trường quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, một hệ thống pháp luật nếu xuất hiện các quy định tréo ngoe như vậy không thể đảm bảo cho tính pháp điển hóa cao của hệ thống pháp luật đó, và đương nhiên nó không phải là động lực kích ứng cho quá trình phát triển thị trường quyền sử dụng đất nói riêng và thị trường bất động sản nói chung.
3. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Ngày 18-5, Công an TP Đông Hà (tỉnh Quảng Trị) cho biết vừa khởi tố bị can và ra lệnh bắt tạm giam đối với Vũ Văn Phúc (trú tại khu phố 11, phường 5, TP. Đông Hà, Quảng Trị) về tội cố ý gấy thương tích đối với luật sư Phạm Văn Khánh, thuộc Đoàn luật sư Hải Dương.
Theo hồ sơ của công an, luật sư Phạm Văn Khánh tham gia bảo vệ quyền lợi cho bà Dương Thị Vững trong phiên tòa xét xử vụ kiện ly hôn tại TAND tỉnh Quảng Trị. Vào chiều 31-3, luật sư Khánh đang ngồi uống nước tại quán cà phê Sao Xanh trên đường Lê Quý Đôn (Đông Hà) thì bất ngờ bị một thanh niên từ ngoài xông thẳng vào quán, dùng mũ bảo hiểm đánh tới tấp vào mặt và đầu, cầm ly thủy tinh ném mạnh vào mặt. Bệnh viên Đa Khoa tỉnh Quảng Trị kết luận luật sư Khánh bị đa chấn thương vì bị đánh ở vùng mặt và đầu. Đoàn luật sư Việt Nam đã có văn bản đề nghị cơ quan công an, viện KSND tỉnh Quảng Trị chỉ đạo cơ quan điều tra thu thập chứng cứ, tài liệu để khởi tố vụ án. Công an TP. Đông Hà đã điều tra và xác định được kẻ đánh luật sư Khánh là Vũ Văn Phúc. Tuy nhiên, khi cơ quan điều tra khởi tố bị can và ra lệnh bắt giam, Vũ Văn Phúc không có mặt tại địa bàn.