I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam điện tử có bài: Nhiều trẻ em bị bóp chết giấc mơ vì một tờ giấy. Bài báo phản ánh: Tăng Thị Thanh T. là một cô bé đã gần 15 tuổi, thế nhưng sự hiện diện của em trong cuộc đời này chỉ mỗi gia đình và những người xung quanh biết. Còn đối với pháp luật, với cơ quan quản lý hộ tịch, em là một con số 0 tròn trĩnh.
Ra đời đã được 15 năm, nhưng Tăng Thị Thanh T. chưa từng thấy, cầm tờ giấy khai sinh chính mình, bởi đơn giản là em không có. Cha chết, mẹ sinh ra em trong cơn túng quẫn cùng cực nên đã trốn viện bỏ lại em – đứa trẻ oe oe đỏ hỏn không có cả tờ giấy chứng sinh (căn cứ quan trọng để làm giấy khai sinh).
Hiện nay, tại TP.HCM có khoảng 1,8 triệu trẻ em, trong đó có gần 400.000 trẻ em nhập cư từ các tỉnh thành khác, số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khoảng 70.000 em, số lượng trẻ em lang thang trên địa bàn thành phố là khoảng 1.450 em.
Thực tế đã và đang cho thấy còn rất nhiều rào cản pháp lý và xã hội cần được cải thiện, dỡ bỏ để “ước mơ được nhận diện bản thân của những số 0” có cơ hội trở thành hiện thực. Cụ thể, quyền trẻ em có giấy tờ tuỳ thân (giấy khai sinh, chứng minh nhân dân, hộ khẩu) cần được đưa vào luật.
Trong Luật Bảo vệ và Giáo dục trẻ em năm 2004 đang sửa đổi quy định “Quyền được khai sinh và có quốc tịch” (Điều 11) cho trẻ em, tuy nhiên, quyền về chứng minh nhân dân chưa được nhắc đến. Vì thế nên sửa đổi thành “Quyền có giấy tờ tuỳ thân cho trẻ em” để bao trùm rất cả các loại giấy tờ này.
Mặt khác, quy trình cấp giấy tờ tùy thân cho trẻ em cũng cần thay đổi theo hướng có giấy khai sinh thì làm được chứng minh nhân dân mà không cần hộ khẩu; có chứng minh nhân dân có thể làm được hộ khẩu mà không yêu cầu phải có nhà.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực theo dõi.
2. Báo Hà Nội mới có bài: Thừa phát lại: Hành trình đi đến "chính danh". Bài cuối: Khẳng định một chủ trương đúng. Bài báo phản ánh: Xã hội hóa công tác thi hành án (THA) và một phần việc của tòa án để người dân được sử dụng dịch vụ nhanh hơn, hiện đại hơn là mục tiêu không thể thiếu trong quá trình cải cách tư pháp. Để đạt mục tiêu này, cần có luật về thừa phát lại (TPL), giao thêm việc để TPL chủ động khẳng định vị thế là vấn đề được đặt ra.
Một câu hỏi lớn đặt ra từ việc xã hội hóa công tác THA và một phần việc của tòa án là, làm thế nào để kết quả thí điểm về TPL báo cáo vào năm 2015 sẽ đủ sức thuyết phục Quốc hội cho tiếp tục triển khai, nhân rộng? Đại diện địa phương tiên phong thí điểm đầu tiên trước khi Quốc hội quyết định từ mô hình này, nhân rộng ra cả nước, Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Tất Thành Cang chỉ ra thực tế: "Dù TPL làm được nhiều việc, nhưng chính quyền địa phương một số nơi coi TPL là doanh nghiệp, nên việc TPL đi xác minh hoặc tổ chức cưỡng chế THA rất khó khăn". Từ đó, ông Cang đề nghị: "Mạnh dạn cho thí điểm TPL cưỡng chế thi hành án một số vụ khó".
Thế nhưng, có điều đáng lưu ý là, một trong những khó khăn lớn đối với TPL khiến TPL tỏ ra "yếu thế" xuất phát ngay từ hệ thống pháp luật hiện hành. Trước hết, hoạt động của TPL mang tính chất tố tụng nhưng chỉ được ghi nhận ở cấp nghị định của Chính phủ và các thông tư liên ngành. Khi có xung đột, mâu thuẫn giữa nội dung nghị định với các luật về tố tụng, thi hành án dân sự, bảo hiểm, ngân hàng… các cơ quan liên quan, đặc biệt là ngân hàng thường vin vào luật làm hạn chế hiệu lực hoạt động của TPL. Cùng với đó, một nghề mới hình thành mà lại phải mang danh "thí điểm" đã vô tình tạo ra tâm lý không coi trọng TPL trong xã hội. Thế nên mấu chốt là cần có luật về TPL.
Về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường nêu quan điểm đồng tình. Bộ trưởng Hà Hùng Cường cho biết, đã chỉ đạo các đơn vị chức năng nghiên cứu, đánh giá tác động của chế định này cũng như các nội dung khác để phục vụ cho việc tổng kết, trong đó có việc chuẩn bị các điều kiện để xây dựng luật về TPL ngay khi Quốc hội cho phép. Dự án luật về TPL dự kiến sẽ được trình Quốc hội vào năm 2016. Về các khó khăn của TPL, ông Hà Hùng Cường đề nghị, trước mắt những bộ phận liên quan có thể làm đơn gửi đích danh ông để đẩy nhanh tiến độ giải quyết.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Tổng cục Thi hành án dân sự theo dõi.
3. Trang vietnamplus.vn có bài: Gỡ “điểm nghẽn" trong thực hiện cải cách thủ tục hành chính. Bài báo phản ánh: Thời gian xử lý thông quan trung bình đối với hàng luồng xanh không quá 3 giây, cắt giảm 290 giờ thực hiện thủ tục hành chính thuế, tiết kiệm hơn 1.241 tỷ đồng/năm chi phí tuân thủ thủ tục cho nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất; những cải cách trong lĩnh vực hải quan hay những bước đi tiến tới cắt giảm 54% thời gian thực hiện thủ tục thuế đã khiến bức tranh cải cách thủ tục hành chính năm 2014 có những chuyển động rõ nét.
Theo ông Ngô Hải Phan, Cục trưởng Cục Kiểm soát thủ tục hành chính (Bộ Tư pháp): Nhìn lại kết quả cải cách thủ tục hành chính năm 2014 cho thấy Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt, thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo an sinh, phúc lợi xã hội, đẩy mạnh quá trình cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện dễ dàng cho doanh nghiệp và nhân dân khi tiếp cận, sử dụng các dịch vụ hành chính công. Do đó, ở nhiều lĩnh vực: lĩnh vực thuế, hải quan, đầu tư, đất đai xây dựng cải cách thủ tục hành chính đã thu được kết quả đáng ghi nhận.
Việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về chủ trương “Đề án Hệ thống thông tin tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính và tình hình, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền” và đang xem xét phê duyệt “Đề án liên thông thủ tục công chứng, đăng ký quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất và thuế” sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho cả người dân và cơ quan quản lý nhà nước, cắt giảm gánh nặng chi phí, thời gian thực hiện thủ tục hành chính; tăng cường kỷ cương hành chính, hạn chế nhũng nhiễu, tiêu cực trong giải quyết thủ tục hành chính.
Tuy nhiên, công tác cải cách thủ tục hành chính vẫn còn những khó khăn, tồn tại, hạn chế nhất định. Việc chỉ đạo công tác cải cách, kiểm soát thủ tục hành chính của một số Bộ, ngành, địa phương chưa sâu sát. Công tác công bố, công khai thủ tục hành chính có lúc, có nơi còn chậm, chưa kịp thời, đầy đủ; thủ tục được công bố, công khai trong phạm vi ngành, lĩnh vực của cùng cấp địa phương giải quyết không đồng nhất về số lượng và nội dung dẫn đến tính thống nhất trong thực hiện thủ tục hành chính bị phá vỡ, khó kiểm soát. Còn nhiều thủ tục hành chính, quy định liên quan ở các lĩnh vực khác như: an sinh xã hội, nông nghiệp, nông thôn, công chức, viên chức... đặc biệt là xét tổng thể nhóm thủ tục hành chính liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực trong giải quyết một công việc cụ thể cho cá nhân, tổ chức còn rườm rà, phức tạp, gây nhiều bức xúc, là rào cản đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
Đó là những “điểm nghẽn" trong quy định và thực hiện thủ tục hành chính cần phải được gỡ bỏ. Do đó, Cục Kiểm soát thủ tục hành chính đã tham mưu cho lãnh đạo Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính trọng tâm năm 2015 với 13 nhóm thủ tục hành chính, quy định liên quan và 2 nhóm nhiệm vụ thực hiện thủ tục hành chính giao cho các Bộ, ngành, địa phương tiến hành rà soát, đơn giản hóa.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Cục Kiểm soát thủ tục hành chính theo dõi.
4. Báo Pháp luật Việt Nam có bài: Hòa giải thương mại phải được pháp luật công nhận. Bài báo phản ánh: Các chuyên gia cho rằng, hoạt động hòa giải thương mại cần được pháp luật công nhận để hiện thực hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về khuyến khích các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án cũng như cam kết quốc tế của Việt Nam khi gia nhập WTO, đồng thời giảm tải cho hệ thống Tòa án
Trong dòng chảy hội nhập, sự gia tăng số lượng các doanh nghiệp đã và đang tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn nhưng cũng không kém phần phức tạp, cạnh tranh gay gắt. Các tranh chấp kinh doanh, thương mại từ đó mà phát sinh với số lượng ngày càng gia tăng về số vụ và tính chất phức tạp, đòi hỏi phải có những cơ chế linh hoạt để giải quyết, giúp các doanh nghiệp tránh được những hậu quả tiêu cực do mâu thuẫn và xung đột lợi ích gây ra.
Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống Tòa án và Trung tâm Trọng tài. Trong đó, hệ thống Tòa án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ án tồn đọng, không kịp giải quyết, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đơn cử, từ ngày 1/10/2013 đến 30/9/2014, ngành Tòa án đã giải quyết 385.356 vụ án các loại trong tổng số 415.038 vụ án đã thụ lý, số vụ đã giải quyết tăng song mới đạt tỷ lệ 92,8%. Riêng 3 Tòa phúc thẩm, 5 Tòa chuyên trách và Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì đã xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hàng nghìn vụ án; giải quyết tới 1.855 đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
Còn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài những năm gần đây cũng ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài thương mại tại Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải quyết khoảng 1% tổng số tranh chấp thương mại hàng năm. Thực tiễn trên đặt ra yêu cầu phải đa dạng hóa phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án để giảm tải gánh nặng cho hệ thống Tòa án, qua đó góp phần lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh thương mại. Một trong những phương thức phổ biến trên thế giới hiện nay là hòa giải thương mại. Nhưng hoạt động hòa giải thương mại tại Việt Nam với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập thì chưa được công nhận, mặc dù trong thực tế một số tổ chức, doanh nghiệp đã sử dụng hòa giải để giải quyết các tranh chấp của mình và bước đầu đã phát huy hiệu quả nhất định. Bởi vậy, Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng Dự thảo Nghị định về hòa giải thương mại nhằm thực hiện chủ trương “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó” được nêu trong Nghị quyết 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và cam kết quốc tế của Việt Nam khi gia nhập WTO về dịch vụ hòa giải tranh chấp giữa các thương nhân. Theo Dự thảo Nghị định, hòa giải thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập, phù hợp với Luật mẫu về hòa giải thương mại quốc tế 2002. Hòa giải thương mại được tiến hành theo thỏa thuận của các bên và có sự hỗ trợ của một bên thứ ba (hòa giải viên). Hòa giải viên do các bên thỏa thuận lựa chọn, phải có vị trí độc lập với các bên, hoàn toàn không có lợi ích liên quan đến tranh chấp, không đại diện cho quyền lợi của bất cứ bên nào và không có quyền đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp.
Cơ bản đồng tình với quy định trên, TS. Nguyễn Bá Bình (Trường Đại học Luật Hà Nội) nhấn mạnh: “Khác với trọng tài, hòa giải viên không có quyền áp đặt giải pháp giải quyết tranh chấp mà chỉ hỗ trợ các bên trong việc đưa ra giải pháp”. Vì thế, theo ông Bình, Dự thảo Nghị định cần thể hiện rõ sự khác biệt của hòa giải với thủ tục trọng tài và tòa án và có thể nêu rõ không khuyến khích các bên sử dụng thủ tục trọng tài hay tòa án khi đang tiến hành hòa giải. Hiệu lực thi hành của thỏa thuận hòa giải thành cũng là một trong những vấn đề quan trọng quyết định hiệu quả của hòa giải thương mại.
ThS. Lê Thị Hoàng Thanh (Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp) lại đề xuất: Để đảm bảo tính hiệu quả, khả thi của phương thức hòa giải, cần quy định giá trị biên bản hòa giải theo hướng các bên có thể yêu cầu Tòa án công nhận thỏa thuận hòa giải theo thủ tục giải quyết việc dân sự quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Nếu được vậy, “sẽ đơn giản, ít tốn kém thời gian, chi phí thường được áp dụng với các sự kiện, việc dân sự đã được thừa nhận”, bà Thanh khẳng định.
Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng đồng tình cần phải có quy định về giá trị pháp lý của thỏa thuận này và việc thi hành thỏa thuận. Ông Dũng phân tích, thỏa thuận hòa giải là nơi ghi nhận những ý chí tự nguyện hòa giải của các bên. Bên cạnh đó, thỏa thuận hòa giải thành là kết quả của quá trình hòa giải, có giá trị như một hợp đồng ràng buộc các bên. “Tuy nhiên, cần có sự hỗ trợ từ Tòa án trong việc đăng ký, công nhận và thi hành thỏa thuận hòa giải thành. Có như vậy thì việc hòa giải mới thực sự đạt được ý nghĩa của nó”, ông Dũng đúc rút.
Về vấn đề này, Văn phòng đề xuất Cục Bổ trợ tư pháp theo dõi.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Đầu tư có bài: Bộ trưởng Thăng làm việc với Uber: Phép thử quyền tự do kinh doanh. Bài báo phản ánh: Việc Bộ trưởng Bộ Giao thông - Vận tải Đinh La Thăng vừa có cuộc làm việc chính thức với Công ty Uber đã thu hút sự quan tâm lớn của không chỉ các doanh nghiệp kinh doanh vận tải hành khách bằng đường bộ, mà còn cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Tại cuộc làm việc này, người đứng đầu Bộ Giao thông - Vận tải đã khẳng định sẽ ủng hộ hoàn toàn việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc hình thành các sàn giao dịch điện tử cho dịch vụ vận tải, trong đó có trường hợp của Uber - đơn vị cung cấp công nghệ, dịch vụ trên nền tảng công nghệ hiện đại ứng dụng trên điện thoại thông minh cho các xe kinh doanh vận tải hành khách. Đổi lại, Uber và các doanh nghiệp cung cấp các phần mềm quản lý, kết nối vận tải khác phải hoạt động theo đúng quy định pháp luật, tức là chỉ cung ứng dịch vụ cho các doanh nghiệp, hợp tác xã của giấy phép kinh doanh vận tải bằng ô tô cũng như thực hiện đúng các quy định về kinh doanh vận tải bằng ô tô.
Với quan điểm như vậy, có thể hiểu, Bộ Giao thông - Vận tải trong vai trò là cơ quan quản lý nhà nước đã bật đèn xanh cho loại hình dịch vụ công nghệ thông tin này được phép xuất có mặt trong thị trường kinh doanh vận tải đường bộ Việt Nam. Đây thực sự là bước chuyển rất lớn trong tư duy quản lý của Bộ Giao thông - Vận tải so với hồi đầu tháng 12/2014, khi chính lãnh đạo Bộ này đã có văn bản gửi Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị có biện pháp nhằm hạn chế hoạt động của Uber tại Việt Nam.
Cũng cần khẳng định rằng, việc cấm kinh doanh dịch vụ này vào thời điểm Quốc hội vừa thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2015), với quan điểm doanh nghiệp được kinh doanh tất cả những gì pháp luật không cấm, sẽ là điều khó có thể chấp nhận, khi dịch vụ này không nằm trong danh mục những ngành nghề bị cấm.
Vẫn còn quá sớm để khẳng định Uber sẽ đem lại những lợi ích thiết thực lâu dài cho người tiêu dùng hoặc sẽ đẩy hàng loạt doanh nghiệp vận tải taxi đứng trước nguy cơ phá sản, song việc chấp nhận loại hình dịch vụ này với yêu cầu phải tuân thủ pháp luật hiện có được coi là thái độ ứng xử chuẩn mực theo tinh thần thượng tôn pháp luật cần phải có của các cơ quan quản lý nhà nước.
Vì vậy, ứng xử của các cơ quan nhà nước, trong đó có Bộ Giao thông - Vận tải trong trường hợp với Uber cần được xem là việc cụ thể hóa tinh thần cải cách đã được quy định trong Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.
2. Báo Thanh niên có bài: Xét xử đại án Huyền Như: Luật sư đề nghị Vietinbank trả 718 tỉ đồng cho ACB. Bài báo phản ánh: Chiều 24.12, đại diện Viện KSND Tối cao (VKS) giữ quyền công tố tại tòa, các luật sư bắt đầu phần tranh luận xoay quanh trách nhiệm của Vietinbank đối với thiệt hại trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo gần 4.000 tỉ đồng.
Luật sư Kiều Vũ Thụy Uyên, bảo vệ quyền lợi cho ACB, cũng đề nghị Vietinbank có trách nhiệm trả 718 tỉ đồng cho ACB. Luật sư Uyên cho rằng tòa sơ thẩm xác định ACB là nguyên đơn là vi phạm quy định tố tụng.
Luật sư Uyên lập luận, VKS cho rằng Như giả danh Vietinbank để huy động vốn là sai, vì Như là nhân viên của Vietinbank, có nhiệm vụ huy động vốn. Các nhân viên ACB ký kết hợp đồng gửi tiền với Vietinbank do bà Nguyễn Thị Minh Hương, ông Trương Minh Hoàng (cùng là phó giám đốc Vietinbank chi nhánh TP.HCM) làm đại diện có chữ ký, con dấu thật. Vì vậy, việc mở tài khoản, ký kết hợp đồng tiền gửi và chuyển tiền là hợp pháp.
3. Báo Vietnam Economy có bài: Hàng loạt quy định mới có hiệu lực từ 1/1/2015. Bài báo phản ánh:
- Thay thế Luật Hôn nhân và gia đình 2000, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã nâng độ tuổi kết hôn lên đủ 18 tuổi đối với nữ và đủ 20 tuổi đối với nam và tiếp tục không thừa nhận hôn nhân đồng tính.
Luật này cũng cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, tuy nhiên người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.
Điểm mới tiếp theo là việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 7 tuổi trở lên (trước đây là 9 tuổi).
- Với Luật Việc làm, so với quy định trước đây, đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ có thêm người lao động làm việc theo hợp đồng mùa vụ từ đủ 3 tháng trở lên.
Mặt khác, cũng không còn quy định người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 người lao động trở lên mới phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế 2008, Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi 2014 có nhiều quy định mới.
Như cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động thuộc diện phải đóng bảo hiểm y tế mà không đóng hoặc đóng không đầy đủ thì buộc phải đóng đủ số tiền chưa đóng và nộp số tiền lãi bằng hai lần mức lãi suất liên ngân hàng (tăng gấp đôi so với trước đây).
Ngoài ra người sử dụng lao động còn phải hoàn trả toàn bộ chi phí cho người lao động trong phạm vi quyền lợi, mức hưởng bảo hiểm y tế mà người lao động đã chi trả trong thời gian chưa có thẻ bảo hiểm y tế.
- Thêm nhiều loại công trình được miễn giấy phép
Thay thế Luật Xây dựng 2003, Luật Xây dựng 2014 bổ sung một số loại công trình được miễn cấp giấy phép xây dựng.
- Quy định mới về Luật Phá sản thay thế Luật Phá sản 2004, Luật Phá sản 2014 quy định rõ thời điểm chủ nợ, người lao động người lao động bắt đầu có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là hết 3 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán được.
Bên cạnh các luật nói trên, từ ngày đầu tiên của 2015 còn một số luật khác cũng có hiệu lực thi hành, như Luật sửa đổi các luật về thuế, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Hải quan, Luật Công chứng, Luật Đầu tư công, Luật Giao thông đường thủy nội địa (sửa đổi)…
4. Báo Dân trí có bài: Đừng để “lòng nhân đạo” nuôi dưỡng “hành vi vô nhân đạo”! Bài báo phản ánh: Việc UBND TP.HCM kêu gọi không cho tiền người ăn xin đang nhận được sự ủng hộ của dư luận. Thực ra, tình trạng ăn mày, ăn xin không chỉ xuất hiện ở Việt Nam hay các nước kém phát triển mà ngay tại các nước giàu có, tình trạng này cũng không hiếm.
Việc khuyến cáo người dân không cho tiền người ăn xin ở Việt Nam cũng không mới. Cách đây hơn chục năm, tại Sa Pa, du khách cũng được khuyến cáo là không nên cho tiền người ăn xin. Gần đây, Đà Nẵng cũng thực hiện chủ trương này.
Lý do mà lãnh đạo ở Sa Pa hay Đà Nẵng đưa ra là nếu như để “nghề” này phát triển, không chỉ mất mỹ quan của một địa điểm du lịch mà sâu xa hơn, sẽ có rất nhiều trẻ em bỏ học để đi xin vì lợi “nhuận” của “nghề” này không nhỏ.
Gần đây tại các thành phố lớn, tình trạng trẻ em bị bọn cái bang chăn dắt không phải là hiếm. Đã có nhiều em nhỏ bị hành hạ, thậm chí gây tàn tật để làm “cái máy xin tiền” cho bọn người man rợ.
Vì vậy, khuyến cáo của TP HCM sẽ trọn vẹn hơn, nếu như có các giải pháp đồng bộ như sàng lọc đối tượng, xây dựng những trung tâm bảo trợ xã hội từ ngân sách nhà nước và sự tài trợ của các nhà hảo tâm, nghiêm trị bọn cái bang, tuyên truyền vận động đồng thời tiếp tục đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.