Trong buổi sáng ngày 22/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
1. Báo An ninh Thủ đô phản ánh: Đề án Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp giai đoạn II (giai đoạn rà soát thủ tục hành chính) sắp đi vào hồi kết, ngày 31-3-2010. Theo tin từ Bộ Tư pháp, Tổ công tác 30 của Bộ cùng các đơn vị khác đã tiến hành báo cáo kết quả rà soát thủ tục hành chính.
Hiện công tác rà soát đang dần hoàn chỉnh, các đơn vị đã đưa ra nhiều kiến nghị đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm hoàn thành chỉ tiểu đơn giản hóa 30% quy định về thủ tục hành chính mà Thủ tướng Chính phủ giao theo hướng dẫn minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và giảm chi phí thực hiện thủ tục hành chính, góp phần phát triển kinh tế xã hội. Trong các đơn vị, Cục Đăng ký Quốc gia giao dịch đảm bảo, Cục Trợ giúp pháp lý, Cục Con nuôi là các đơn vị tham gia tích cực và đảm bảo tiến độ theo kế hoạch đề ra.
Cùng với công tác rà soát, công tác thống kê thủ tục hành chính theo các văn bản mới vẫn được tiến hành. Tổng cục Thi hành án dân sự và Vụ Hành chính tư pháp đang hoàn tất công tác thống kê các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự và quốc tịch theo quy định mới.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài ĐỀ NGHỊ NGƯNG CẤP PHÉP KINH DOANH 115 ĐOẠN, TUYẾN ĐƯỜNG: hợp tình nhưng phải có căn cứ. Bài báo phản ánh: “Hiện nay có hàng trăm ngành nghề được phép kinh doanh. Nếu không liệt kê cụ thể ngành nghề nào bị tạm ngưng cấp phép trong “vùng nóng” có thể dẫn đến việc các địa phương áp dụng không thống nhất và gây phiền toái cho doanh nghiệp”. Đó là ý kiến của Sở KH&ĐT về danh mục các tuyến đường bị hạn chế cấp phép kinh doanh của Sở GTVT (báo Pháp Luật TP.HCM ngày 18-3).
Sở KH&ĐT cho rằng danh mục ngành kinh tế quốc dân hiện có khoảng 650 ngành, không phân định đâu là ngành dịch vụ, thương mại tập trung đông người hay ít người. Vậy Sở GTVT căn cứ vào đâu để xác định những ngành nghề sẽ bị tạm ngưng cấp phép trên một số tuyến đường? Cũng theo sở này, nếu cho rằng những ngành tập trung đông người là nhà hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, trường học, bệnh viện... thì những ngành này đều đã có quy hoạch ngành nghề. Do đó, không cần thiết phải lập thêm quy hoạch riêng vì có thể gây trùng lắp hoặc mâu thuẫn với quy hoạch đã có. Ngoài ra, dù có xác định được ngành nào thường tập trung đông người thì cũng không có căn cứ pháp lý để từ chối cấp phép. Ngoài ra, Sở KH&ĐT cũng đề nghị muốn xác định nguyên nhân gây ùn tắc cho đoạn đường, cơ quan chuyên môn cần khảo sát, lấy ý kiến người dân, UBND và công an địa phương xem thực trạng giao thông trong khu vực như thế nào, nguyên nhân chính gây ùn tắc giao thông có phải do việc kinh doanh của doanh nghiệp hay không...
Tương tự, văn bản góp ý của Sở Tư pháp cũng đề nghị Sở GTVT làm rõ khái niệm “ngành tập trung đông người” và cơ sở nào để không cấp đăng ký kinh doanh cho các ngành này. Bà Ung Thị Xuân Hương, Phó Giám đốc Sở Tư pháp, cho biết: Không có căn cứ pháp lý để ngưng cấp đăng ký kinh doanh một ngành nghề vì lý do giao thông. Tuy nhiên, để điều chỉnh việc kinh doanh cho phù hợp, lâu nay TP vẫn có quy hoạch đối với một số ngành nghề có tính chất đông người như chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, cơ sở lưu trú du lịch, trường học, nhà hàng, vũ trường, karaoke... Các sở, ngành, địa phương có thẩm quyền quy hoạch ngành nghề khi quy hoạch phải tính đến các điều kiện kinh tế-xã hội và cả vấn đề giao thông. Dựa trên quy hoạch này, cơ quan chức năng sẽ quyết định có cấp phép kinh doanh hay không.
Theo bà Hương, không thể vì riêng lý do giao thông mà lại đưa ra một quy hoạch khác có thể dẫn đến mâu thuẫn với quy hoạch ngành nghề đã được phê duyệt. Nếu vì đặc thù giao thông mà TP phải ngưng cấp phép kinh doanh trên một số tuyến đường như đề xuất của Sở GTVT thì phải lập đề án và trình Chính phủ phê duyệt để có cơ sở pháp lý thực hiện. “Xét về mục đích nhằm giảm ùn tắc giao thông thì đề xuất của Sở GTVT hợp tình nhưng việc gì cũng phải phải đảm bảo căn cứ pháp lý chứ không thể nóng vội. Trước mắt, TP có thể yêu cầu các quận, huyện rà soát quy hoạch ngành nghề để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp” - bà Hương nói.
Báo cũng có bài Hướng dẫn vô lý về tiền đánh đề. Bài báo phản ánh: Tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa qua, ông Trần Thế Vượng-Trưởng ban Dân nguyện nêu: Hướng dẫn của Nghị quyết 01/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao về số tiền định tội trong việc đánh đề là trái luật. Ông Vượng đề nghị chánh án TAND Tối cao có quan điểm, lý giải... Có điều này vì trong phần hướng dẫn của Nghị quyết 01 nêu rõ: Người ghi đề 20.000 đồng, nếu với tỉ lệ một ăn 70 thì số tiền đánh bạc sẽ là 1.420.000 đồng và đây là số tiền làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.
Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình cho biết hướng dẫn trên “rất khó xác định có trái luật hay không”. Bởi lẽ luật chỉ quy định là xử lý hình sự bất kỳ hành vi nào được xem là đánh bạc, được thua bằng tiền có giá trị lớn… còn hướng dẫn của nghị quyết là hướng dẫn về hình phạt. Tuy nhiên, ông Bình cũng chỉ ra điểm vô lý của hướng dẫn: Tội đánh bạc có cấu thành vật chất chứ không phải cấu thành hình thức. Vì thế khi xử lý phải lấy số tiền thực chứ không phải tiền ảo. Số tiền thực ở đây được hiểu là khi người chơi đề đã trúng, đã nhận hoặc trúng mà chưa nhận chứ không phải cứ nhất nhất lấy tiền vốn nhân với 70 rồi làm căn cứ lượng hình. Từ đó, ông Bình cho biết đang xây dựng văn bản hướng dẫn mới và sẽ trình Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao để sửa đổi.
Việc chánh án TAND Tối cao cho biết sẽ sửa hướng dẫn trên vừa phù hợp thực tế, vừa có căn cứ khoa học với loại tội có cấu thành vật chất này. Tuy nhiên, một câu hỏi lớn được đặt ra: Từ năm 2006 đến nay, nhiều cơ quan tố tụng cứ máy móc làm theo một hướng dẫn vô lý để khởi tố, điều tra, xét xử người chơi đề dù số tiền ghi đề chưa tới mức xử lý hình sự và người chơi không trúng. Như vậy, ai sẽ giải quyết hậu quả pháp lý cho những trường hợp này và giải quyết ra sao?
3. Báo Tiền phong có bài Chờ cầm tay chỉ việc. Bài báo phản ánh: Ông Lê Hoàng Tấn, ngụ tại số 90A, đường Điện Biên Phủ, khóm 3, phường 6 (TP Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) thắng kiện trong một vụ đòi nợ, án tuyên có hiệu lực nay đã 11 năm vẫn chưa được thi hành.
Năm 1995, ông Tấn cho bà Trương Thị Ngó (ngụ tại nhà số 90 cùng đường Điện Biên Phủ) vay tiền, nợ gốc cùng lãi lên đến 192,5 triệu đồng. Ông Tấn đòi không được, phải kiện ra tòa. Cấp sơ thẩm, rồi đến cấp phúc thẩm (xử ngày 26-4-1999) đều tuyên buộc bà Ngó trả nợ. Án có hiệu lực, Cơ quan thi hành án TP Sóc Trăng ban hành 3 quyết định số 77, 34, 153 về việc thi hành án, đồng thời kê biên căn nhà số 90 của bà Ngó. Quá trình kê biên tài sản, nảy sinh tranh chấp trong anh em bà Ngó. Việc tranh chấp này đã bị các cấp tòa án sau đó bác bỏ.
Từ năm 2004, khi những tranh chấp phát sinh đã được giải quyết, ông Tấn tiếp tục làm đơn yêu cầu thi hành án. Ban chỉ đạo thi hành án TP Sóc Trăng, Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng, Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng, Cục Thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp), Viện KSND tỉnh Sóc Trăng, Viện KSNDTC, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sóc Trăng, đều có văn bản chỉ đạo, yêu cầu thi hành theo phán quyết của tòa. Ngày 26-3-2009, ông Phạm Văn Nguyên (Trưởng thi hành án TP Sóc Trăng) có văn bản trả lời ông Tấn “chưa có chỉ đạo nào của cơ quan có thẩm quyền về việc xử lý căn nhà số 90 để thi hành án”. Chìa ra xấp văn bản chỉ đạo của nhiều cơ quan, ông Tấn kêu: “Những văn bản này có đóng dấu đỏ”, vẫn không thuyết phục được ông Nguyên.
Mới đây, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng (theo tên mới) cho rằng, gia đình bà Ngó còn có mấy người ở nước ngoài, phải có ý kiến của họ mới có thể phát mại căn nhà số 90; nếu Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ Tư pháp) có văn bản chỉ đạo phát mại căn nhà để thi hành án cho ông Tấn thì làm ngay. Ông Tấn lại kêu khổ, cho rằng thi hành án dân sự kéo quá dài tình trạng cấp dưới chờ cấp trên “cầm tay chỉ việc”.
Báo cũng có bài UBND tỉnh Bình Thuận 'né' thi hành án. Bài báo phản ánh: Người dân khiếu nại, Tỉnh không giải quyết, dân phải kiện ra tòa. Án có hiệu lực, người bị kiện đòi được giám đốc thẩm. Không được giám đốc thẩm, người bị kiện... điều chỉnh quyết định đã bị tòa bác. Dường như Tỉnh muốn sự việc quay lại điểm xuất phát. Sau hơn 8 năm, quyền lợi của người dân chưa được khôi phục, và chưa biết đến bao giờ mới được khôi phục. Sau hơn tám năm lao tâm đáo tụng đình, ông Trần Khánh Dân (khu phố 4, phường Mũi Né, TP Phan Thiết) ngậm ngùi nói: Bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, nhưng lại không có hiệu lực với UBND tỉnh Bình Thuận!
Cuối năm 2001, 42.500 m2 đất ven biển khu phố 4 Mũi Né bị thu hồi để UBND tỉnh Bình Thuận cho DNTN Trần Cao Sang và DNTN Con Sò Xanh thuê làm khu du lịch. Ông Dân bị thu hồi toàn bộ đất canh tác của gia đình ông, nhưng trong quyết định (QĐ) thu hồi đất không có tên ông. Do ông Dân khiếu nại, ngày 22-4-2005, UBND tỉnh Bình Thuận ban hành QĐ số 983/QĐ-UB, bổ sung hộ ông Dân với 9.800 m2 đất nông nghiệp vào danh sách thu hồi đất.
Tháng 12-2005, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Huỳnh Tấn Thành ký hai QĐ số 4125 và 4126 về việc bồi thường thiệt hại cho ông Dân. Theo đó, gia đình ông Dân được bồi thường 100% giá trị đất nông nghiệp đối với diện tích 1.656m2, nhưng chỉ được hỗ trợ công khai hoang 2.700đồng/m2 với diện tích 8.144m2 còn lại. Tổng trị giá bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông Dân là hơn 293 triệu đồng. Cho rằng diện tích đất bị thu hồi là 11.715m2 chứ không phải 9.800m2, giá cả bồi thường quá thấp so giá thị trường, ông Dân khởi kiện UBND tỉnh Bình Thuận, yêu cầu Tòa án hủy hai QĐ số 4125 và 4126.
Tại phiên tòa hành chính sơ thẩm ngày 2-7-2007, TAND tỉnh Bình Thuận tuyên hủy một phần QĐ số 4125 và 4126, yêu cầu UBND tỉnh Bình Thuận giải quyết lại theo đúng quy định pháp luật về đất đai đối với 8.144m2 đất cho gia đình ông Dân. Ông Dân kháng cáo. Ngày 23-10-2007, TAND Tối cao mở phiên phúc thẩm, nhận định: UBND tỉnh Bình Thuận chưa thẩm định để xác định rõ diện tích đất sử dụng của gia đình ông Dân là 9.800m2 hay 11.715m2 về mặt pháp lý, ngày 22-4-2005, ông Dân mới bị thu hồi đất, vì vậy việc bồi thường phải theo Luật Đất đai năm 2003. Tòa chấp nhận kháng cáo của ông Dân, tuyên hủy hai QĐ số 4125 và 4126, yêu cầu UBND tỉnh Bình Thuận ban hành QĐ khác phù hợp với quy định pháp luật.
Sau khi bản án có hiệu lực, UBND tỉnh Bình Thuận hoãn thi hành bằng cách... đề nghị TAND Tối cao xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Trong năm 2008, TAND Tối cao có hai văn bản trả lời UBND tỉnh Bình Thuận: Không có cơ sở để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Nhận được văn bản này, UBND tỉnh Bình Thuận vẫn không chịu thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật từ hai năm rưỡi trước. Đến ngày 31-12-2008, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Huỳnh Tấn Thành bỗng ký QĐ thu hồi 8 QĐ do chính ông ký trước đây liên quan đến quyền lợi của ông Dân, trong đó có các QĐ số 983, 4125, 4126. Lý do: Các QĐ trên không còn phù hợp.
Ngày 3-7-2009, ông Thành lại ký hai QĐ số 1783 và 1784, điều chỉnh đối tượng bị thu hồi đất theo các QĐ năm 2001. Theo đó, đối tượng thu hồi đất không còn là Trần Khánh Dân, mà là Trần Khánh Dư. Ông Dư là cha ruột của ông Dân, hiện ở nhà số 32/1/4 Tôn Thất Thuyết, phường 1, quận 4, TPHCM, xác nhận: Năm 1978 tôi bỏ mẹ con thằng Dân, lập gia đình khác và sống ở TPHCM đến nay. Dân là con trai lớn nên được giao quyền sử dụng toàn bộ đất đai, nhà cửa...
Nhiều chuyên gia pháp luật nhận định, việc “điều chỉnh” của UBND tỉnh Bình Thuận chỉ mang tính hình thức, không đi vào nội dung bản án yêu cầu thực hiện, và việc này có nguy cơ đưa vụ án trở về vạch xuất phát, khiến gia đình ông Dân thêm thiệt thòi. Ông Trần Khánh Dân cho biết, ông đã làm đơn tố cáo, đề nghị xử lý theo pháp luật hình sự đối với ông Huỳnh Tấn Thành và cán bộ lãnh đạo Sở TN-MT tỉnh Bình Thuận, về hành vi cố tình không chấp hành bản án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, đến nay, không cơ quan nào trả lời đơn của ông Dân.
Báo cũng có bài Hiện tượng tăng ga bất thường của Ford Transit đời 2007: Ford vi phạm luật Việt Nam nhưng chưa có chế tài xử lý. Bài báo phản ánh: Sau khi Tiền Phong đăng bài trả lời của Tổng GĐ Ford Việt Nam, toà soạn nhận được bài của Luật sư Lê Thiên, GĐ Cty Luật Lê & Liên danh. Theo luật sư thì Ford đã vi phạm pháp luật Việt Nam, nhưng hành vi vi phạm này pháp luật lại chưa có chế tài xử lý.
Theo nội dung mà Tổng Giám đốc Ford Việt Nam Michael Pease trả lời trên báo Tiền Phong (xem bài Không thu hồi xe, số ra hôm 18-3) thì ông này thừa nhận thời điểm bán xe Transit 2007, Ford Việt Nam không có tài liệu hướng dẫn khách hàng và cũng không hướng dẫn trực tiếp khách hàng về tính năng bù ga của loại xe này. Bởi theo ông Michael Pease, thời điểm năm 2007, khi Ford giới thiệu xe Ford Transit đời mới, thì tiêu chuẩn khí thải Euro 1, nâng cấp thân vỏ mới là các tính năng nổi trội, còn tính năng bù ga không phải là tâm điểm chú ý nên không giới thiệu; nay khách hàng có ý kiến thì Ford Việt Nam sẽ giới thiệu và hướng dẫn để khách hàng hiểu.
Phân tích câu trả lời trên, có thể dễ dàng nhận thấy Ford Việt Nam tìm cách thoái thác trách nhiệm, lờ đi lỗi bù ga của xe Transit đời trước 2008 vì lo ngại phải thu hồi và đổi xe cho người tiêu dùng. Việc ông Michael Pease cho rằng “Tính năng bù ga của xe Ford Transit không phải là lỗi kỹ thuật, vì vậy chúng tôi không chủ động thu hồi”, và rằng “tính năng bù ga không phải là tâm điểm chú ý nên chúng tôi không giới thiệu, nay khách hàng có ý kiến thì chúng tôi sẽ giới thiệu, hướng dẫn để khách hàng hiểu” . Trả lời như vậy rõ ràng là thiếu trách nhiệm với người tiêu dùng, đặc biệt sản phẩm ở đây là xe ô tô du lịch chở người - loại phương tiện được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi tham gia giao thông.
Theo Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Nghị định số 55/2008 của Chính phủ thì nguyên tắc cơ bản là mọi quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng đều phải được tôn trọng và bảo vệ và mọi hành vi vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng phải được xử lý nghiêm minh, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Nhà sản xuất, nhà phân phối phải có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp thời, trung thực và chính xác cho người tiêu dùng và cung cấp các tài liệu hướng dẫn cho người tiêu dùng về cách thức sử dụng hàng hóa, nếu nói rằng tính năng bù ga của xe ô tô không phải là tâm điểm chú ý, vì thế không giới thiệu cho khách hàng rõ ràng là vi phạm trách nhiệm cung cấp thông tin cho người tiêu dùng.
Về trách nhiệm bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng, luật quy định nhà sản xuất phải đảm bảo các tiêu chuẩn và chất lượng hàng hóa như đã cam kết, thỏa thuận với người tiêu dùng, phải thường xuyên kiểm tra hàng hóa để đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng trước khi cung ứng đến người tiêu dùng. Ngoài ra, khi phát hiện hàng hóa lưu thông trên thị trường không đạt tiêu chuẩn chất lượng, nhà sản xuất phải kịp thời tiến hành các biện pháp khắc phục, xử lý và thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Không những thế, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng quy định trách nhiệm bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng đối với những hàng hóa do mình cung cấp như: Phải hướng dẫn đầy đủ về các thông tin an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng; Phải chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về đảm bảo an toàn sản phẩm. Đối với hàng hóa khi sử dụng có thể đe dọa gây ảnh hưởng về sức khỏe, tính mạng, tài sản và môi trường thì nhà sản xuất phải cảnh báo trước cho người tiêu dùng về những nguy cơ đó; giải thích rõ ràng và hướng dẫn cách sử dụng hàng hóa cùng các biện pháp phòng tránh các tác hại có thể xảy ra. Đặc biệt, luật còn quy định trong trường hợp để xảy ra thiệt hại về sức khỏe, tính mạng và tài sản cho người tiêu dùng khi sử dụng đúng các hướng dẫn về hàng hóa do nhà sản xuất cung cấp thì nhà sản xuất phải tiến hành ngay mọi biện pháp nhằm ngăn chặn và bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.
Có thể nhận thấy rằng pháp luật Việt Nam quy định khá cụ thể để bảo vệ người tiêu dùng, song có lẽ đây là những quan hệ mới mẻ với Việt Nam nên các chế tài xử phạt còn ít, mức phạt chưa đủ sức răn đe. Thậm chí có những hành vi rõ ràng là vi phạm như trường hợp xe FordTransit của Công ty Ford Việt Nam nêu trên đối với tính năng bù ga nhưng chế tài xử phạt cũng chưa được quy định cụ thể. Đối chiếu với Nghị định số 54/2009/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường chất lượng lại không có chế tài xử phạt về hành vi không giới thiệu chức năng mới khi bán sản phẩm cho người tiêu dùng, mà chỉ chú trọng xử phạt các hành vi không công bố tiêu chuẩn chất lượng. Chính vì vậy, trong những trường hợp này người tiêu dùng chỉ còn biết trông chờ vào cơ quan ngôn luận và các cơ quan liên quan lên tiếng phản ánh, kiểm tra và mong chờ ở đạo đức của nhà sản xuất cung cấp hàng hóa trước các trách nhiệm của mình.
4. Báo điện tử Đài Truyền hình Việt Nam có bài Việt kiều vẫn khó mua nhà. Bài báo phản ánh: Năm 2009, cả nước chỉ có khoảng 140 Việt kiều chính thức được mua nhà tại Việt Nam. Đây là con số quá ít nếu so với hơn 4 triệu kiều bào sinh sống ở nước ngoài… Vướng mắc nằm chính ở Luật, nhưng khi Luật sửa đổi bổ sung thông thoáng hơn thì cũng rất ít trường hợp Việt kiều mua được nhà tại Việt Nam. Đã hơn 6 tháng trôi qua kể từ khi luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/9/2009.
Giáo sư Huỳnh Hữu Tuệ từ bỏ một công việc với mức lương cao tại một trường Đại học ở Canada để về VN đã hơn 5 năm nay, hiện ông vẫn phải thuê nhà để ở. Theo Luật, ông nằm trong 5 đối tượng được mua nhà ở VN, nhưng thực tế việc chứng minh nguồn gốc Việt quá phức tạp tại các cấp hành chính, nên ông từ bỏ ý định này. Ông không biết phải đến đơn vị nào để xác định xem trường hợp của mình có đủ điều kiện hay không.GS.TSKH Huỳnh Hữu Tuệ, Hiệu trưởng Trường Đại học Quốc tế Bắc Hà cho biết: “Khó là ở chỗ, ở trên thì quy định rất rộng, nhưng khi đi vào cơ chế, nhất là mức hành chính thì không dễ như mình tưởng. Tôi khẳng định tôi là người Việt, vì tôi đi khắp thế giới với hộ chiếu Việt Nam, nhưng khi tôi mua nhà thì phường hay thị xã đó chưa chắc họ chấp nhận tôi là người Việt, mặc dù tôi đưa giấy tờ tôi là người Việt. Họ bảo, nếu tôi là người Việt thì phải có chứng minh thư thì họ mới xem là người Việt Nam, có nghĩa là tôi phải hồi hương một cách chính thức và toàn bộ”.
Thời hạn cư trú tại VN để thoả mãn điều kiện được mua nhà được rút từ 6 tháng xuống còn 3 tháng. Tuy nhiên, Luật không xác định rõ liên tục hay ngắt quãng, khiến Việt kiều chẳng biết thế nào là đủ điều kiện. Họ cho rằng, vướng mắc nhất vẫn là xác minh nguồn gốc Việt. Những Việt kiều không giữ được giấy khai sinh hay hộ khẩu, và không còn bà con thân thích thì không thể xác nhận được.
Ông Nguyễn Hoài Bắc, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần PT và ĐT Đại Sơn: “Các thủ tục đi kèm để người Việt kiều về VN mua nhà vẫn chưa phải là thông thoáng. Theo quan điểm của tôi, có quá nhiều giấy tờ đi kèm để mua được một căn nhà và những người nước ngoài khi trở về VN mua nhà thì thời gian của họ không có nhiều, và để đi làm tất cả các thủ tục đó thì họ phải bỏ hết công ăn việc làm ở bên kia và thời hạn về VN thì rất ngắn”.Nguyên nhân của những vướng mắc trên là do Chính phủ chưa có Nghị định hướng dẫn cụ thể nên không chỉ kiều bào lúng túng, mà các cơ quan chuyên môn cũng không có căn cứ để thực thi.
TS Luật học Lê Đình Vinh, Phó TGĐ Công ty Luật SMIC cho rằng: “Các cơ quan có thẩm quyền có thể linh hoạt tận dụng các quy định cũ trước đây trong khi chờ văn bản mới được ban hành”.
6 tháng đã trôi qua kể từ ngày Luật Nhà ở 2005 sửa đổi bổ sung có hiệu lực, Bộ Xây dựng cho biết, đã hoàn thành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, lấy ý kiến các cơ quan chức năng liên quan như Bộ Công an, Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp và hiện đang trình lên Chính phủ thông qua.
5. Báo Hà Nội mới có bài Công tác phòng cháy, chữa cháy tại các chung cư cao tầng: Luật còn nhiều kẽ hở. Bài báo phản ánh: Chỉ trong vòng nửa đầu tháng 3-2010, liên tiếp xảy ra hai vụ cháy lớn (tại cơ sở sản xuất nệm mút ở tỉnh Bình Dương và tòa nhà JSC Hà Nội) khiến 9 người thiệt mạng. Theo luật sư Nguyễn Bá Vũ, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, điều đáng nói qua những vụ cháy thương tâm này, đó là sự lơ là trong việc tuân thủ các quy định của Nhà nước về công tác phòng cháy, chữa cháy (PCCC); trong khi đó chế tài xử phạt lại quá nhẹ, không đủ sức răn đe.
Luật sư Nguyễn Bá Vũ lý giải, Bộ luật Hình sự (BLHS) chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự những đối tượng gây cháy nổ hậu quả nghiêm trọng, vì thế trên thực tế rất ít đối tượng gây cháy nổ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Hiện Hà Nội có trên 200 tòa nhà có chiều cao từ 10 tầng trở lên, theo đánh giá thì 2/3 số tòa nhà này không bảo đảm các yêu cầu của công tác PCCC. TP Hồ Chí Minh có 184 chung cư cao tầng thì có đến 80% không có ống thông gió, hút khói, đèn, còi báo động cháy… Từ vụ cháy tại tòa nhà JSC 34 Licogi khiến 2 người thiệt mạng đã làm người dân sống tại các khu chung cư cao tầng và các ban quản lý nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa của công tác PCCC. Tại tòa nhà F4, F5 Yên Hòa, Khu đô thị Trung Yên; Trung Hòa; bán đảo Linh Đàm đã xuất hiện những tấm biển nhắc nhở người dân không vứt vật liệu có nguy cơ cháy nổ vào nơi chứa rác. Ngoài ra, việc đun than tổ ong, đốt vàng mã không đúng nơi quy định cũng bị cấm.
Chủ một cửa hàng buôn bán đồ bảo hộ đi kèm thiết bị PCCC trên đường Yết Kiêu (xin được giấu tên) cho hay: "Sau khi các báo, đài liên tiếp đưa tin về hai vụ hỏa hoạn kinh hoàng, cướp đi sinh mạng của 9 người, ngoài những người dân tới mua đồ bảo hộ phòng, chống cháy nổ (PCCN), còn có khá nhiều công ty, nhà máy, các tòa nhà chung cư cao tầng... liên hệ với chúng tôi để thay mới một loạt vòi chữa cháy, bình cứu hỏa đã đưa vào sử dụng nhiều năm". Chủ cửa hàng này còn tiết lộ thêm, tại nhiều nơi tới thay thiết bị, công tác PCCC gần như bị lãng quên. Bằng chứng là cửa thoát hiểm bị khóa với lý do là để bảo đảm công tác an ninh; những chiếc van mở đường ống nước cứu hỏa hoen gỉ, phải dùng búa nện mới mở được. Trong khi đó thực tế đã chứng minh, thời hạn bảo hành bình cứu hỏa chỉ là 12 tháng. Sau đó cứ đều đặn từ 3-6 tháng lại phải súc, nạp bọt khí mới một lần... thì khi có tình huống cháy, nổ xảy ra mới phát huy tác dụng. Tuy nhiên, xét cho cùng, việc mua đồ PCCN chỉ là giải pháp tình thế của người dân và ban quản lý nhà cao tầng. Biện pháp lâu dài là diễn tập PCCN cho các hộ dân lại chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết người dân sinh sống ở Khu đô thị mới Yên Hòa, Mễ Trì Hạ, Trung Hòa (Hà Nội) khi được hỏi đều không biết sử dụng bình cứu hỏa. Cũng theo khảo sát của phóng viên Hànộimới, chưa thấy khu chung cư nào trên địa bàn Hà Nội trang bị thang dây thoát hiểm cho các hộ dân, vì đây không phải là thiết bị bắt buộc của Luật PCCC.
Theo TS Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, ở những chung cư cao tầng đòi hỏi sự quản lý khác hẳn chung cư thấp tầng. Thêm nữa, mỗi loại hình chung cư có kết cấu khác nhau cũng đòi hỏi cách quản lý khác nhau. Người dân ở mỗi chung cư phải họp bàn, đặt ra những nguyên tắc quản lý chung cư dựa theo đặc thù của chung cư mình. Ban quản lý chung cư phải có nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở những vi phạm. TS Liêm cũng cho rằng, không nên xây chung cư cao tầng phục vụ tái định cư bởi đối tượng tái định cư phần lớn là người nghèo, họ không có đủ tài chính đóng góp cho các khoản bảo dưỡng để bảo đảm an toàn cho chung cư. Chung cư tái định cư nên xây thấp tầng, cầu thang bộ, hành lang ở bên để người dân nếu có thổi nấu bằng than tổ ong sẽ thông thoáng hơn, có xảy ra cháy nổ cũng dễ ứng cứu.
Còn "thầy cãi" Nguyễn Bá Vũ thì hiến kế, để nâng cao hiệu quả công tác PCCC, ở những chung cư cao tầng và những nơi dễ xảy ra cháy nổ nên bắt buộc đơn vị chủ quản mua bảo hiểm. Bởi khi đó, đơn vị bảo hiểm sẽ cử chuyên gia đến thẩm định xem cơ sở đó có tuân thủ các quy định về PCCC hay không và họ cũng sẽ thường xuyên đi kiểm tra công tác bảo đảm an toàn PCCC. Ngoài ra, hàng loạt nội dung khác nảy sinh trong quá trình thực hiện công tác PCCC cần phải bổ sung vào luật. Cụ thể chưa có tiêu chuẩn quy định về PCCC đối với các công trình ngầm, công trình có tầng hầm, công trình siêu cao tầng. Nghị định số 35 của Chính phủ quy định điều kiện an toàn PCCC đối với cơ sở là phải có hệ thống báo cháy, chữa cháy, ngăn cháy, phương tiện cứu người phù hợp, bảo đảm về số lượng, chất lượng và hoạt động theo quy định của Bộ Công an (CA). Thế nhưng, đến nay Bộ CA vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về số lượng, phương tiện PCCC đối với từng cơ sở, do đó việc xử lý vi phạm gặp rất nhiều khó khăn, cán bộ kiểm tra thiếu căn cứ pháp lý để xử phạt.
Luật sư Vũ cũng cho rằng, mức xử phạt hành chính trong lĩnh vực PCCC hiện nay quá thấp, không đủ để răn đe các vi phạm về PCCC. Hà Nội cần kiến nghị Chính phủ nâng mức xử phạt cao hơn gấp 5-10 lần đối với một số hành vi như không niêm yết nội quy PCCC; sản xuất, kinh doanh chất nguy hiểm về cháy nổ mà không có giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn về PCCC; bố trí nơi đun nấu không bảo đảm an toàn về PCCC; không có biện pháp chống cháy lan khi sử dụng thiết bị điện... Có như vậy, người dân và các chủ đầu tư công trình mới nâng cao nhận thức về công tác PCCN.