Điểm tin báo chí sáng ngày 15 tháng 3 năm 2010

15/03/2010
Trong buổi sáng ngày 15/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Sở Xây dựng TP.HCM vừa đề xuất UBND TP.HCM một số nội dung về dự thảo quy định chuyển nhượng suất tái định cư (TĐC) trên địa bàn TP.HCM, sau khi có ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp TP.HCM.Theo đó, bỏ điều kiện bên mua suất TĐC (căn hộ, nền đất) phải có hộ khẩu TP.HCM, đồng thời cam kết không sở hữu căn nhà nào khác. Trường hợp UBND quận, huyện và đơn vị quản lý nhà không mua lại suất TĐC hoặc mua nhưng người TĐC không đồng ý mức giá thì có thể bán cho người khác. Tổ chức mua suất TĐC không cần phải có xác nhận của UBND quận, huyện về nhu cầu sử dụng quỹ nhà TĐC này phục vụ các dự án của đơn vị trên địa bàn mới được mua mà chỉ cần cam kết sử dụng cho mục đích TĐC, không bán ra thị trường như nhà ở thương mại.
Tuy nhiên theo Sở Xây dựng, cần bổ sung quy định: tổ chức sau khi mua suất TĐC phải làm thủ tục cấp giấy chủ quyền nhà, đất trước khi đưa ra giao dịch. Tương tự, đối với người dân phải cam kết ký hợp đồng mua bán suất TĐC theo quy định, tránh tình trạng người mua không làm thủ tục cấp giấy chủ quyền nhà, đất mà bán suất TĐC lòng vòng.
Như vậy theo dự thảo quy định chuyển nhượng suất TĐC, người mua suất TĐC chỉ cần có đủ năng lực hành vi dân sự, cam kết có xác nhận của địa phương là chưa được mua suất TĐC nào khác, thanh toán hết một lần giá trị căn hộ, nền đất TĐC theo quy định cho đơn vị quản lý nhà và thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy định... Theo kết quả kiểm tra các khu nhà ở TĐC trên địa bàn TP, hoàn tất vào đầu năm nay, trong số hơn 19.800 căn hộ, nền đất TĐC được kiểm tra, cơ quan chức năng phát hiện gần 2.650 trường hợp có dấu hiệu mua bán suất TĐC, tập trung nhiều ở quận 2, 8, 11, Bình Thạnh, huyện Bình Chánh.
2. Báo An ninh Thủ đô có bài Một quyết định cần cân nhắc lại. Bài báo phản ánh: Sở GTVT Hà Nội đã có Công văn số 624 ngày 5-3-2010, yêu cầu tạm dừng hoạt động đối với trạm thu phí QL 3 (đoạn qua Sóc Sơn) từ 0h ngày 1-4 và trạm thu phí QL6 (Chương Mỹ) từ 0h ngày 15-3. Tuy nhiên, yêu cầu này đang gây nhiều ý kiến khác nhau...
Nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho công tác quản lý, duy tu và phân luồng, tổ chức giao thông trên các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố, gần đây Bộ GTVT đã chuyển giao nhiều đoạn tuyến quốc lộ về cho Hà Nội trực tiếp quản lý. Tính đến thời điểm này, những tuyến đường lớn, quốc lộ trên địa bàn Hà Nội như Quốc lộ 32, Láng - Hòa Lạc, vành đai 3, Quốc lộ 2, cầu Thăng Long và tuyến Bắc Thăng Long, QL6, QL3 đều đã được chuyển giao. Tuy nhiên, ngay sau khi nhận bàn giao, Sở GTVT đã có Văn bản số 624 gửi Khu quản lý đường bộ II, yêu cầu dừng hoạt động tại trạm thu phí QL 3 (đoạn qua Sóc Sơn) từ 0h ngày 1-4 và trạm thu phí QL6 (đoạn qua Chương Mỹ) từ 0h ngày  15-3. Trả lời báo chí về việc dừng hoạt động 2 trạm thu phí này, một lãnh đạo Sở GTVT Hà Nội cho rằng, trước đây các đoạn tuyến quốc lộ này thuộc thẩm quyền quản lý của Cục Đường bộ Việt Nam (Bộ GTVT) nên Sở không có ý kiến gì. Nhưng nay Hà Nội đã tiếp quản công tác quản lý, duy trì, để đảm bảo ATGT, tạo sự thông thoáng trong lưu thông Sở đã quyết định dừng hoạt động 2 trạm thu phí. Một lý do khác là các trạm thu phí đặt tại các vùng ngoại ô, các vùng kinh tế chậm phát triển, trong khi thành phố đang muốn nâng vị thế của các vùng này về kinh tế xã hội...
Theo đánh giá, việc tạo ra sự thông thoáng trong lưu thông là cần thiết, nhất là khi Hà Nội sắp đón nhiều sự kiện trọng đại nhân dịp kỷ niệm Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Tuy nhiên, đối với cơ quan quản lý Nhà nước khi đưa ra các quyết định không nên chỉ là một mệnh lệnh hành chính đơn thuần. Với yêu cầu trong khoảng thời gian ngắn, chưa đầy một tháng đó là sự thách đố với doanh nghiệp trong việc thu xếp việc làm, chuyển đổi công việc cho hàng trăm nhân công. Hơn nữa, trong lúc chúng ta đang còn khó khăn về kinh phí, việc duy trì nguồn thu để đảm bảo duy tu đường sá thông qua hoạt động của các trạm thu phí đường bộ thực sự vẫn là cần thiết để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Đó là chưa kể, đến thời điểm này, Bộ GTVT mới chỉ có quyết định bàn giao đường mà chưa hề có một quyết định bàn giao trạm thu phí nào cho Hà Nội. Việc yêu cầu dừng hoạt động trạm thu phí của Sở GTVT Hà Nội như vậy liệu có vượt quá thẩm quyền?
Trong 2 trạm thu phí kể trên, hiện nay chỉ có trạm thu phí Sóc Sơn trên QL 3 đã hoàn thành “sứ mệnh” thu phí của mình. Trạm thu phí Chương Mỹ trên QL6 là phục vụ cho dự án BOT nâng cấp QL6, đoạn qua Hòa Bình. Đến thời điểm hiện tại, theo thống kê cho thấy vẫn còn thiếu khoảng 12 tỷ đồng mới đủ bù đắp chi phí cho chủ đầu tư. Việc giảm thu phí đối với nhiều phương tiện giao thông ở những khu vực ngoại thành là cần, tuy nhiên, trong hoàn cảnh ngân sách chi cho đường sá còn thiếu, ngay trong nội thành hệ thống đường xuống cấp do đào đường, chưa quản lý khắc phục được thì việc thu phí vẫn cần thực hiện. Bởi chỉ có nguồn thu bổ sung mới có đường tốt, san sẻ bớt gánh nặng ngân sách của Nhà nước.
Mới đây, Bộ GTVT đã có Thông tư số 05/2010/TT-BGTVT quy định xung quanh trách nhiệm của  trạm thu phí. Đặc biệt trong đó quy định rõ cả trách nhiệm của những đơn vị này trong việc đảm bảo chống ùn tắc giao thông. Vì vậy, nên chăng, nếu Sở GTVT Hà Nội thấy bất cập chỉ cần kiến nghị cơ quan chủ quản chứ không nhất thiết phải dùng mệnh lệnh yêu cầu dừng hoạt động, ngân sách sẽ  mất đi nguồn thu và gây khó khăn cho người lao động...
3. Báo Lao động phản ánh: Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga hôm 13.3 đã yêu cầu Hội Địa lý quốc gia Hoa Kỳ (National Geographic Society - NGS) sửa lỗi vì ghi chú chữ “China” vào khu vực quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trên bản đồ thế giới do NGS phát hành. “Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bản đồ ghi “Paracel Is. China” do National Geographic công bố là sai. Chúng tôi yêu cầu National Geographic sửa lỗi này” - bà Nguyễn Phương Nga nói.
Trước đó, Tạp chí National Geographic Society (Hội Địa lý quốc gia Mỹ - NGS) đã đăng bản đồ thế giới trực tuyến tại trang web http://www.natgeomaps.com, trong đó quần đảo Hoàng Sa (Paracel) được chú thích là “Xisha Qundao” (quần đảo Tây Sa), bên dưới có chữ China (Trung Quốc).
Đại sứ quán Mỹ cuối tuần trước khẳng định, NGS là một công ty tư nhân và không liên kết gì với Chính phủ Mỹ, do đó các tài liệu do công ty đưa ra không phản ánh chính sách của Chính phủ Mỹ. ĐSQ Mỹ cũng khẳng định, Mỹ không đứng về bên nào trong các tranh luận pháp lý của các bên đang tranh chấp chủ quyền ở vùng biển trên và khuyến khích Trung Quốc cùng các đối tác trong ASEAN giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và theo luật quốc tế.
Báo cũng phản ánh: Trong thời gian qua có quá nhiều biện pháp hành chính đã được dùng trong nền kinh tế, gây lo ngại về xu hướng quay lại cách quản lý thời xưa đã bị cuộc sống phủ định. Ngân hàng Nhà nước có các công cụ “thị trường” của mình để điều tiết và nên huỷ bỏ các biện pháp hành chính, nhất là các loại trần lãi suất. Dùng các trần lãi suất luôn làm méo mó thị trường, và các ngân hàng thương mại muốn hoạt động bình thường đều phải “lách”. Họ lách trần lãi suất cho vay bằng cách thu các loại phí.
Trần huy động tiền gửi thực ra không có, nhưng nếu bất cứ ngân hàng thương mại nào huy động trên 10,5%/năm là bị nhắc nhở, thanh tra toàn diện luôn. Các ngân hàng lại phải “lách” bằng cách thưởng, khuyến mãi đủ loại. Chi phí thực về huy động của các ngân hàng có khi lên đến 12%/năm hay hơn (gửi nhiều có thể được hưởng “lãi suất thật” lên đến 12 thậm chí 13%/năm). Họ không thể cho vay 13%/năm vì sẽ lỗ nặng. Và như thế, khi cho vay, do bị trần lãi suất ràng buộc nên lãi suất ghi trên hợp đồng danh nghĩa luôn là mức trần (12%/năm), nhưng cái giá thật (lãi suất thực mà người vay phải trả) đã ở mức 15-17%/năm từ nhiều tháng nay rồi. Đó là thực tế cuộc sống, không thể trách các ngân hàng “lách” luật. Quy định chưa sát, không ăn nhập với cuộc sống, buộc họ phải làm vậy và làm thế không vi phạm luật hiện hành.
Nhưng việc đó gây hại đơn hại kép. Người dân (kể cả doanh nghiệp và ngân hàng) phải tìm cách “lách”, tinh thần thượng tôn pháp luật và niềm tin vào pháp luật bị xói mòn, rủi ro kinh doanh tăng, thị trường bị méo mó, các công cụ điều tiết của Nhà nước còn ít tác dụng, vân vân và vân vân. Và như thế, việc điều chỉnh vừa rồi của Ngân hàng Nhà nước chỉ là sự hợp thức hoá sự thực đã rồi trên thương trường. Nhưng mới áp dụng cho các khoản vay trung và dài hạn. Ngân hàng lại tiếp tục “lách”, cho vay 6 tháng cũng ghi luôn là 366 ngày rồi khách hàng sẽ tự nguyện “trả trước”. Tổng lượng vay “trung dài hạn” dỏm sẽ tăng lên đáng kể, số liệu thống kê méo mó. Thanh tra lại có nhiều việc để làm và để hành và có thể cả “thu” nữa. Lại làm méo mó thị trường, tăng chi phí, giảm hiệu suất, tăng rủi ro.
Tự chúng ta (Nhà nước, những người làm luật và có quyền quyết định chính sách, chứ không phải dân và doanh nghiệp) làm khổ mình, trói chân mình, gây tổn hại cho đất nước. Nên huỷ bỏ tất cả các loại trần lãi suất. Nhưng làm sao việc huỷ bỏ những công cụ bất hợp lý rành rành lại khó đến vậy. Không thể đổ lỗi tất cả lên đầu Ngân hàng Nhà nước. Họ bị quá nhiều ràng buộc và họ không được độc lập. Ngay cả việc bỏ trần lãi suất cho vay của họ cũng là chuyện “lách luật” của một cơ quan nhà nước. Họ hiểu kỹ và muốn xoá bỏ tận gốc việc “tự trói mình” bằng cách kiến nghị sửa luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng hay sửa luật dân sự.
Thế nhưng còn nhiều “nghị sĩ” vẫn chưa hiểu, chưa đồng tình. Họ hiểu nhầm các khái niệm “lãi suất cơ bản”, một công cụ điều tiết quan trọng của Ngân hàng Nhà nước, và do sự hiểu lầm đó, cũng như hành văn không chuẩn xác của một điều của Luật Dân sự, xác định trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản, là những sợi dây mà họ tự trói chân tay mình. Đấy là cái gốc cần sửa, cần cắt phăng các sợi dây trói buộc đó đó. Nhiều người chưa hiểu vẫn lớn tiếng đòi giữ các quy định sai và lỗi thời đó, các sợi dây tai ác đó mà vẫn nghĩ mình đang bảo vệ lợi ích của nhân dân, của đất nước.
Không ai đòi hỏi mọi đại biểu Quốc hội đều phải là chuyên gia về mọi lĩnh vực hay thậm chí về một lĩnh vực cụ thể, như ngân hàng. Song đại biểu cần lắng nghe các chuyên gia phân tích điều hay lẽ phải và trên cơ sở đó đưa ra quyết định của mình khi bấm nút hay đề xuất sửa đổi một luật. Những người chịu trách nhiệm trình - trong trường hợp này là Ngân hàng Nhà nước - cũng nên cải thiện cách trình bày lập luận của mình để cho các đại biểu Quốc hội hiểu rõ và chính xác. Làm được thế sẽ giải quyết tận gốc rễ bao nhiêu chuyện tự trói mình một cách hết sức phi lý mà quy định về lãi suất trần chỉ là một trường hợp cụ thể trong rất nhiều ví dụ “tự trói” của các luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Lao động có bài Nông dân kêu trời vì công chứng. Bài báo phản ánh: Tỉnh Long An vừa thực hiện chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản từ UBND cấp xã, huyện sang các phòng công chứng. Việc chuyển giao trên nằm trong lộ trình thực hiện Luật Công chứng. Thế nhưng, do chưa có sự chuẩn bị tốt nên việc chuyển giao đã gây phiền hà lớn, nhất là đối với nông dân vùng sâu.
Theo Quyết định 81/2009 của UBND tỉnh Long An, từ ngày 1.1.2010 bắt đầu thực hiện việc chuyển giao này ở 9/14 địa phương trong tỉnh. Thế nhưng, hiện toàn tỉnh Long An mới có 5 địa phương có phòng công chứng. Vì vậy mà đối với nhiều giao dịch, trước đây người nông dân chỉ cần đi vài cây số tới UBND xã nhà để chứng thực, thì nay phải đi 70 – 80 cây số (đi và về) để công chứng ở huyện khác. Yêu cầu về thủ tục của các phòng công chứng khắt khe hơn nhiều so với chứng thực ở xã trước đây, nên nhiều người dân phải đi lại 2 – 3 lần mới xong thủ tục công chứng. Không ít trường hợp chỉ vay 10 triệu đồng mà cả 2 vợ chồng phải mất 3 ngày để đi lại 200 cây số với chi phí hàng trăm ngàn đồng chỉ cho khâu công chứng.
Ngày 12.3, tại Phòng Công chứng số 1 - TP.Tân An, nhiều người dân ở các huyện xa nóng lòng chờ đợi tới lượt mình. Vợ chồng anh Phạm Văn Tiền (xã Long Trì, huyện Châu Thành) cho biết, vì huyện Châu Thành không có phòng công chứng, nên cả 2 vợ chồng anh phải đi về TP.Tân An công chứng giấy tờ để vay 15 triệu đồng trồng thanh long. Ngày trước chứng thực tại xã, chỉ cần 2 vợ chồng ra UBND xã ký giấy là xong, chi phí 15 ngàn đồng. Nay về TP.Tân An, người ta yêu cầu phải có giấy kết hôn. Vậy là vợ chồng anh phải quay về địa phương làm giấy kết hôn sau 37 năm cưới nhau... Đã là lần thứ ba vợ chồng anh vượt đường xa về TP.Tân An công chứng, nhưng cũng chưa tin chắc sẽ xong trong ngày 12.3. Ngoài lệ phí 100 ngàn đồng và mất trắng 3 ngày không làm được chuyện nhà, chi phí đi lại cho 2 vợ chồng đã lên đến gần 300 ngàn đồng. Trong những ngày qua, ở Long An có nhiều cặp vợ chồng, trong đó không ít người đã 70 – 80 tuổi, phải đi làm giấy kết hôn để có thể công chứng giấy tờ.
Quy mô các phòng công chứng ở Long An đều nhỏ. Bất ngờ tiếp nhận lượng lớn người dân từ ngày 1.1, tất cả các phòng công chứng đều quá tải, người dân phải chờ đợi lâu. Nhiều nơi đã xuất hiện nạn “cò công chứng” với giá 150 – 200 ngàn đồng/bộ hồ sơ giải quyết ngay trong ngày. Tại Phòng Công chứng số 1 TP.Tân An, vào lúc 11 giờ ngày 12.3 còn khoảng 40 người chờ công chứng, phần nhiều ở các huyện xa. Nhiều người trong họ phải chờ đến chiều, đến hôm sau.
Phó Chủ tịch UBND xã Nhựt Chánh (huyện Bến Lức) – ông Nguyễn Trung Dũng – cho rằng, trong giai đoạn hiện nay nên để cho người dân tự lựa chọn việc chứng thực hồ sơ, giấy tờ giữa phòng công chứng và UBND các cấp, nhất là đối với những khoản vay hoặc hợp đồng không lớn. Theo ông, việc này không sai luật. Tất cả các huyện chưa có phòng công chứng đều đề nghị Sở Tư pháp Long An nên để cho UBND xã chứng thực như trước đây, ít nhất là các giao dịch vay vốn phục vụ cho sản xuất nông nghiệp dưới 30 triệu đồng. Còn Phó Chánh văn phòng UBND huyện Bến Lức – ông Hồ Văn Hon – thì cho rằng, việc bắt buộc người dân đi công chứng đã phần nào phá vỡ cơ chế “một cửa liên thông” vốn đã giúp giảm phiền hà rất nhiều cho người dân.
Ông Trần Minh Mẫn - Giám đốc Sở Tư pháp Long An -  cho biết, sau 1 tháng đầu thực hiện thí điểm chứng thực tài sản liên quan đến bất động sản ở một số huyện, thành phố, đã có nhiều ý kiến phản hồi từ nhân dân và các tổ chức. Khó khăn chủ yếu là có một số xã ở các địa phương nằm khá xa các văn phòng công chứng, người dân đi lại công chứng giấy tờ còn nhiều khó khăn, tốn kém.
2. Báo Hà Nội mới có bài Lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài: Cần được tăng quyền năng. Bài báo phản ánh: Trên cơ sở các nguyên tắc của Luật Bình đẳng giới, Luật Lao động, các bộ, ngành, đặc biệt là Ủy ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ, Hội LHPN Việt Nam, Bộ LĐ-TB&XH đã quan tâm, bảo vệ quyền lợi chính đáng của lao động nữ đi làm việc tại nước ngoài.Tuy nhiên, theo đánh giá của Quỹ Phát triển phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM), đến nay các quyền cụ thể và nhu cầu của nữ lao động Việt Nam nhập cư vẫn chưa được quan tâm đúng mức và chưa được thể chế hóa trong các chính sách pháp luật và các quy định dịch vụ liên quan.
Tiến sỹ Suzette Mitchell, Trưởng Đại diện IFEM khẳng định, Việt Nam có khoảng 500.000 người đang làm việc ở hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, trong đó 25-30% là phụ nữ. Địa chỉ chị em thường đến là Inđônêxia, Philíppin. Theo thống kê, lao động nữ Việt Nam chiếm tới 60% tổng số lao động nữ nước ngoài tại các quốc gia này. Đây là nhóm đối tượng đặc biệt dễ bị tổn thương do đảm đương những công việc mang tính chất đặc thù về giới, như hộ lý, chăm sóc, giúp việc gia đình… Cách đàn áp điển hình nhất là chủ bắt làm việc quá giờ, chế độ ăn uống, vệ sinh cá nhân kém, bị quỵt lương.
Tuy nhiên, đến nay các quyền cụ thể và nhu cầu của nữ lao động Việt Nam nhập cư vẫn chưa được quan tâm đúng mức và chưa được thể chế hóa trong các chính sách pháp luật và các quy định dịch vụ liên quan. Trong khi đó, các trường hợp hợp đồng có nội dung sai lệch hoặc lừa đảo cũng đã bị phát hiện. Phụ nữ cũng chưa đủ năng lực để tự kiểm soát và sử dụng số tiền tiết kiệm từ thu nhập của mình. Thường thì chỉ khi cơ quan thông tin đại chúng đưa ra ánh sáng các vụ việc, hành động sai trái mà lao động nữ gặp phải thì chị em mới được cơ quan chức năng quan tâm, bảo vệ những quyền lợi thiết yếu cho họ. Về vấn đề này, bà Tuyết Minh, Phó Chánh Văn phòng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐ-TB &XH) cho biết: "Cho đến nay, phụ nữ Việt Nam khi lao động ở nước ngoài cũng chưa gặp phải vụ việc gì quá nghiêm trọng. Mặc dù vậy, khi xa nhà, những thiệt thòi về giới của cả nam và nữ đều không thể tránh khỏi, trong đó nữ giới thường thiệt hơn nam giới".
Để bảo vệ quyền lợi nhóm đối tượng này, việc tăng quyền năng cho phụ nữ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đang là vấn đề được Chính phủ ưu tiên và tích cực hợp tác. Hiện Cục Quản lý lao động ngoài nước đang cùng UNIFEM thực hiện dự án Tăng quyền năng cho phụ nữ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài với tổng kinh phí là 250.000 USD. Để phù hợp với Việt Nam, các hoạt động của dự án được thiết kế theo 2 mục tiêu chính. Thứ nhất, tăng cường kiến thức cơ bản về giới, chính sách pháp luật và các vấn đề liên quan đến di cư lao động tại Việt Nam. Mục tiêu thứ 2 là nâng cao năng lực các cơ quan của Chính phủ, các công ty hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và các tổ chức cộng đồng để phụ nữ đi làm việc và gia đình của họ có thể tiếp cận được các dịch vụ hỗ trợ về kinh tế và xã hội. Theo tiến độ làm việc hiện nay, dự kiến khoảng năm 2011, các chính sách, luật pháp và các hướng dẫn thực thi sẽ gắn bó, liên quan nhiều hơn tới các quyền của phụ nữ Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài. Việc thảo luận về tăng cường chính sách cũng sẽ được thiết lập ở các nước đến. Bên cạnh đó, năng lực của các cơ quan nhà nước, tổ chức tuyển dụng và các tổ chức cộng đồng cũng sẽ được nâng cao.
Tuy nhiên, một điều đáng lo ngại là khi số phụ nữ đi xuất khẩu lao động tăng thì việc giữ gìn hạnh phúc gia đình của họ sau khi trở về lại dường như chưa được quan tâm đúng mức. Thái Bình là nơi được Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ (Hội LHPN Việt Nam) chọn làm mẫu cho nghiên cứu về tác động của xuất khẩu lao động đến cuộc sống gia đình. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 30-40% gia đình có người đi xuất khẩu lao động bị tan vỡ mái ấm. Nguyên nhân chính của sự đổ vỡ này là người chồng thiếu trách nhiệm, sống buông thả hoặc do sự thay đổi lối sống, quan điểm sống của người vợ sau khi đi xuất khẩu lao động về. Ví như một số chị em được tiếp thu kiến thức "tây học", không muốn chấp nhận một ông xã bê tha nữa. Nghiên cứu cũng cho rằng, xuất khẩu lao động không làm tăng chất lượng các hoạt động chăm sóc và tái tạo sức lao động như kỳ vọng.
Rõ ràng, hệ lụy của xuất khẩu lao động là chức năng gia đình bị biến đổi, quan hệ gia đình lỏng lẻo dẫn đến tha hóa đạo đức, tệ nạn xã hội. Điều này có lẽ cũng cần được Hội LHPN Việt Nam quan tâm, đề xuất phương án xử lý khi phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện thúc đẩy xuất khẩu lao động cho nữ giới. Bởi rõ ràng mục đích cuối cùng của những chuyến đi lao động dài ngày xa nhà chính là cuộc sống hạnh phúc, no ấm ngày trở về chứ không phải điều gì khác.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Truy tố nữ luật sư lừa đảo gần 700 triệu đồng. Bài báo phản ánh: VKSND tỉnh Lâm Đồng vừa chuyển cáo trạng đến TAND tỉnh này để xét xử nguyên luật sư Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Thị Quốc Khánh về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo cáo trạng, từ giữa năm 2007 đến tháng 5-2009, Khánh là luật sư, đồng thời là phó giám đốc kiêm trưởng phòng tài chính của một công ty TNHH. Lợi dụng các chức danh này, Khánh đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền của một số người. Cụ thể, tháng 7-2008, Khánh được bà Lê Thị Nho, ngụ TP.HCM và tu sĩ Nguyễn Thị Xuân (Tịnh xá Ngọc Thiền, Đà Lạt) nhờ bảo vệ trong một vụ kiện người khác đòi 700 triệu đồng. Dù TAND TP Đà Lạt chưa thụ lý, Khánh vẫn yêu cầu thân chủ đóng tạm ứng án phí 34 triệu đồng. Song song đó, nại lý do rằng cần đóng tiền để kê biên khẩn cấp tài sản của con nợ, Khánh hối thúc thân chủ nộp gấp thêm 172 triệu đồng. Bà Nho và bà Xuân đã đưa cho Khánh tổng cộng trên 200 triệu đồng. Chờ mãi không thấy tòa giải quyết vụ kiện, cũng không thấy việc kê biên nhà, thân chủ nhiều lần tìm gặp Khánh đòi tiền thì chỉ được trả 75 triệu đồng. Thế rồi Khánh làm giả ba phiếu thu của cơ quan thi hành án Đà Lạt đưa cho các thân chủ, khẳng định vụ việc đang được giải quyết dù thực tế không phải vậy. Biết bị lừa, bà Nho và bà Xuân đã làm đơn tố cáo Khánh.
Tháng 7-2008, một Việt kiều Mỹ nhờ Khánh làm thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng mảnh đất tại xã Xuân Trường (TP Đà Lạt). Theo yêu cầu của Khánh, thân chủ đã giao hồ sơ và chuyển cho Khánh 140 triệu đồng để Khánh nộp lệ phí trước bạ cùng tiền sử dụng đất. Số tiền phải nộp chỉ là 62 triệu đồng. Do có ý định chiếm đoạt số tiền này, Khánh đã làm giả hai giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước và đem toàn bộ hồ sơ đến UBND TP Đà Lạt nộp để làm giấy tờ. Kiểm tra đối chiếu, Phòng Tài nguyên và Môi trường TP Đà Lạt phát hiện giấy tờ giả nên đã có công văn gửi công an khiến sự việc bại lộ. Ngoài ra, tháng 6-2007, Khánh nhận lời bảo vệ quyền lợi cho ông Nguyễn Khắc Đáng, ngụ huyện Đức Trọng. Nhận hơn 400 triệu đồng, Khánh không thực hiện vụ việc theo cam kết với ông Đáng. Ông Đáng nhiều lần tìm gặp Khánh để hỏi kết quả nhưng Khánh lần lữa mãi, không lo được việc cho ông Đáng và lẩn tránh không trả lại tiền. Ông Đáng bèn làm đơn tố cáo Khánh với cơ quan điều tra.
Trước đó, tháng 9-2006, Khánh đã bị Đoàn Luật sư tỉnh Lâm Đồng kỷ luật cảnh cáo vì nhận của thân chủ Lành Thị Biết, ngụ huyện Đức Trọng, 160 triệu đồng vì “vượt quá quy định pháp luật cho phép”. Tuy nhiên, theo tố cáo của bà Biết, Khánh đã lừa bà, nói đưa tiền để làm dịch vụ pháp lý. Khi biết số tiền Khánh đòi hỏi là quá lớn, bà Biết đòi lại để thuê luật sư khác thì Khánh nói mượn và viết giấy vay nợ, song mãi không chịu trả. Bà Biết phải nhờ đến Sở Tư pháp và đoàn luật sư can thiệp mới lấy lại được tiền. Ngoài ra, còn một số người khác bị Khánh vay mượn tổng cộng hơn 3,3 tỉ đồng rồi mất khả năng chi trả nhưng cơ quan điều tra xác định đó là quan hệ dân sự.
Tháng 4-2009, Khánh đã bị Công an TP Đà Lạt khởi tố, bắt tạm giam. Do vụ án thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh nên toàn bộ hồ sơ sau đó được chuyển đến Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh thụ lý.


File đính kèm