Trong buổi sáng ngày 12/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chống tham nhũng: Không thể nộp tiền vi phạm là thoát. Bài báo phản ánh: Ngày 11-3, tại TP Cần Thơ, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (Ban Chỉ đạo TW) mở hội nghị triển khai công tác phòng, chống tham nhũng cho ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Theo báo cáo của Văn phòng Ban Chỉ đạo TW, một số địa phương xây dựng chương trình còn chung chung, chưa xác định trọng tâm, trọng điểm; thực hiện chương trình, kế hoạch đôi khi mang tính chiếu lệ. Báo cáo của Vụ III Văn phòng Ban Chỉ đạo TW cho thấy: Người phạm tội tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn, có quan hệ rộng và có nhiều ảnh hưởng. Do vậy, họ có nhiều điều kiện để thực hiện lẫn che giấu hành vi phạm tội, đối phó với việc phát hiện, điều tra và xử lý của các cơ quan chức năng. Ông Nguyễn Thế Bình, Vụ trưởng Vụ III Văn phòng Ban Chỉ đạo TW, lý giải: “Họ tìm mọi cách để tác động, gây ảnh hưởng, thậm chí gây sức ép đến những người hoặc cơ quan đang xử lý những vi phạm của họ. Do vậy, nhiều cán bộ chức năng dễ bị tư tưởng e ngại, thiếu quyết tâm, né tránh, nể nang dẫn đến việc phát hiện, điều tra xử lý không nghiêm, không kiên quyết, không dứt điểm”.
Ngoài ra, thực tế còn có nhiều hành vi tham nhũng khi bị phát hiện, để tránh bị xử lý hình sự, đối tượng vi phạm chủ động nộp lại tài sản đã chiếm đoạt, sau đó cơ quan điều tra đã quyết định không khởi tố, không xử lý hình sự mà cho xử lý hành chính. Điển hình như vụ Trần Ngạnh (Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng TP Đà Nẵng) cùng một số đối tượng thông đồng khai khống tính chất đất để chiếm đoạt tiền bồi thường trên 800 triệu đồng. Khi bị phát hiện, người vi phạm đã nộp lại tiền chiếm đoạt. Cơ quan điều tra bèn không khởi tố vụ án mà chỉ xử lý hành chính. Ông Nguyễn Thế Bình cho rằng đây là một vấn đề liên ngành tư pháp trung ương phải có văn bản hướng dẫn để tránh việc né tội bằng việc nộp tiền.
2. Báo Tiền phong có bài Không cho phép xây cao ốc gần hồ Gươm. Bài báo phản ánh: Liên quan dự án “Trung tâm thương mại, khách sạn, văn phòng cho thuê”, gần khu vực hồ Gươm tại số 10 Trần Nguyên Hãn, bên hành lang phiên thảo luận dự án Luật Thủ đô sáng qua, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo cho biết việc thực hiện dự án phải theo không gian của khu vực chứ chưa ai cho phép sai quy hoạch. , gần khu vực hồ Gươm tại số 10 Trần Nguyên Hãn, bên hành lang phiên thảo luận dự án Luật Thủ đô sáng qua, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Thế Thảo cho biết việc thực hiện dự án phải theo không gian của khu vực chứ chưa ai cho phép sai quy hoạch. Theo ông Thảo, vừa qua chủ đầu tư dự án “Trung tâm thương mại, khách sạn, văn phòng cho thuê” là Tổng Cty Thiết bị điện Việt Nam có nhu cầu nâng cấp, cải tạo khu đất hiện nay. “Trên cơ sở nhu cầu này, thành phố mới cho phép nghiên cứu, chứ chưa có một quyết định nào’- Ông Thảo nhấn mạnh. Cũng theo ông Thảo, chức năng của khu hồ Gươm vẫn được xác định là trung tâm dịch vụ và thương mại, trong đó có gắn kết với văn hóa và cây xanh. Riêng dự án của Tổng Cty thiết bị điện nằm trong khu vực được định hướng thương mại trong đầu bài ra cho cuộc thi quy hoạch khu vực hồ Gươm. Tuy nhiên, trả lời câu hỏi của báo chí về việc liệu công trình tại số 10 Trần Nguyên Hãn có thể xây 8 tầng hay không, ông Thảo cho rằng, công trình này phải theo không gian của khu vực và không thể cho phép 8 tầng. Trước đó, dự án Trung tâm thương mại, khách sạn và văn phòng cho thuê tại số 10 Trần Nguyên Hãn và 27 - 29 Lý Thái Tổ, sau khi được UBND TP Hà Nội có văn bản chấp thuận cho chủ đầu tư nghiên cứu lập và thực hiện, đã dấy lên nhiều ý kiến phản đối, lo ngại của các chuyên gia kiến trúc.
3. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Vietnam Airlines (VNA) vừa có văn bản kiến nghị Thủ tướng không thông qua việc hợp tác đầu tư (dưới mọi hình thức) của Hãng hàng không giá rẻ Air Asia (Malaysia) vào Công ty cổ phần hàng không VietJet Air (VJA) để thành lập Hãng hàng không giá rẻ VietJet AirAsia. Kiến nghị trên được đưa ra sau khi VJA bán 30% cổ phần cho AirAsia.
Trong văn bản gửi Thủ tướng, VNA cho rằng việc cho phép các hãng hàng không chi phí thấp tham gia ồ ạt vào thị trường VN và tìm cách “lách luật” để mua rẻ thương quyền nội địa của VN chắc chắn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc tồn tại và phát triển của các hãng hàng không mới được thành lập của VN.
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Đức Tâm, tổng giám đốc VJA, cho biết đến nay các thủ tục mua cổ phần của AirAsia đã hoàn tất. Ông Tâm khẳng định: “Việc VJA có cổ đông nước ngoài phù hợp với luật pháp VN. Với tỉ lệ góp vốn 30%, AirAsia chỉ giữ vai trò một cổ đông trong công ty. Mọi quyết định chiến lược của công ty đều do hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc đa số”...
4. Báo Lao động có bài Bán biệt dược không đơn: Thả nổi đến bao giờ?. Bài báo phản ánh: Bài báo phản ánh: Tháng 2. 2010 thông tin trên một số trang web loan báo về việc thuốc giảm cân có chứa chất sibutramine với các tên thương mại là: Reductil, Sibutral, Meridia... đã được Cơ quan dược phẩm Châu Âu (EMA) khuyến cáo thu hồi vì nghiên cứu ở 9.805 người sử dụng thuốc này có sự gia tăng nguy cơ tai biến tim mạch. Tuy nhiên, ở VN loại thuốc này lại được bán rộng rãi. Đây là thực trạng rất đáng báo động, việc bán các loại thuốc biệt dược mà không cần có đơn của bác sĩ đang rất phổ biến trên thị trường. Gần đây, các BS sản khoa cảnh báo tình trạng tự ý sử dụng thuốc phá thai Mifepristone đang có bán tại các cửa hàng thuốc ở Hà Nội. Một nữ sinh khi có thai nghe bạn bè mách bảo đã mua thuốc về uống để đẩy cái thai mấy tuần tuổi ra ngoài. Sau khi uống thuốc bị băng huyết phải đưa vào cấp cứu tại bệnh viện và chỉ chậm thêm một chút đã không giữ được tính mạng.
Chuyện thường gặp ở các hiệu thuốc là khách hàng chỉ cần nói tên thuốc cần mua, hoặc kể bệnh với người bán thuốc thì ngay lập tức sẽ được đáp ứng. Vào những hiệu thuốc nằm trên phố Hai Bà Trưng, Tràng Thi (Hà Nội) - nơi được mệnh danh là nơi bán các loại thuốc biệt dược và cả những loại thuốc “quý hiếm” - người mua có thể mua được mọi loại thuốc mà không cần đến đơn của BS. Theo ước tính của một vài hiệu thuốc thì số người đến mua thuốc có đơn của BS chỉ chiếm khoảng 20-30%, còn lại là những người mua thuốc tự do. Thuốc kháng sinh là loại thuốc có số người mua không có đơn nhiều nhất, kế đến là thuốc tiêu hoá, tim mạch, nội tiết, ung thư...Thực tế này là câu trả lời rõ ràng rằng quy định của ngành y tế về việc phải có đơn, nhà thuốc mới được bán là vô giá trị.
Tháng 7.2009, Bộ Y tế đã chính thức ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục gồm 256 loại hoạt chất thuốc được phép mua bán không cần đơn của BS và còn 30 nhóm hoạt chất thuốc khác bắt buộc phải có đơn thuốc do thầy thuốc kê thì nhà thuốc, quầy thuốc mới được phép cấp bán. Trước đó, Bộ Y tế cũng đã ban hành quy chế kê đơn thuốc và bán thuốc theo đơn, song rõ ràng sự lộn xộn trong việc bán thuốc không có đơn vẫn y nguyên. Rất hiếm thấy nhà thuốc nào bị xử phạt vì bán thuốc không có đơn. Khi hỏi về vấn đề này, một quan chức của ngành dược nói rằng, do Cục Quản lý dược chưa có đội ngũ thanh tra dược chuyên ngành nên việc thanh - kiểm tra còn nhiều hạn chế. Vậy, tình trạng thả nổi này sẽ còn tiếp diễn đến bao giờ?
5. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Chiều 11-3, tại Hà Nội, Đảng bộ Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng đã tổ chức lễ trao Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng tặng đồng chí Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng ghi nhận những đóng góp của đồng chí Lê Khả Phiêu đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và cũng là niềm tự hào của Đảng bộ quân đội, Đảng bộ cơ quan Tổng cục Chính trị - nơi đồng chí đang sinh hoạt.
6. Báo điện tử VnMedia có bài Báo chí khiến người dân hiểu sai về quy định sinh con thứ 3. Bài báo phản ánh: Mấy ngày qua, một thông tin do báo chí đưa ra nhân sự kiện Chính phủ ban hành nghị định số 20/2010/NĐ-CP về Sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 đã khiến người dân hiều sai về Nghị định này. Nguyên nhân có thể xuất phát từ việc một phóng viên hiểu sai dẫn đến giải thích sai về Nghị định này. Tuy nhiên, điều quan trọng là nhiều phóng viên của nhiều tờ báo khác, trong đó có cả những tờ báo có uy tín đã copy lại thông tin này mà không hề xem xét, phân tích kỹ Nghị định. Cụ thể, Nghị định quy định những trường hợp không vi phạm quy định sinh 1 hoặc 2 con, trong đó có trường hợp cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất nhưng sinh 3 con trở lên. Tuy nhiên, trên một loạt tờ báo đã giật tít “7 trường hợp được sinh con thứ 3” và giải thích trong nội dung rằng: “…. có nghĩa là được phép sinh lần thứ hai, mặc dù trước đó đã có trên 2 con…”. Sáng 11/3, Tổng cục DS-KHHGĐ đã có công văn số 148/TCDS-TTGD, gửi Cục Báo chí, Cục Quản lý Phát thanh - Truyền hình và Thông tin điện tử thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, trong đó nêu rõ: “Sự suy diễn, bình luận sai lệch nội dung của Nghị định số 20/2010/NĐ-CP nói trên của các cơ quan báo chí lại một lần nữa tiếp tục làm cho người dân hiểu sai về chính sách dân số của Đảng và Nhà nước, mặc dù chính sách này đã được quy định rất cụ thể tại Điều 1 của Pháp lệnh số 08/2008/UBTVQH12 ngày 27/12/2008 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003:
Điều 1. Sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số năm 2003 như sau: “Điều 10. Quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản: (1) Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con; (2) Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định; (3) Bảo vệ sức khỏe, thực hiện các biện pháp phòng ngừa bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS và thực hiện các nghĩa vụ khác liên quan đến sức khỏe sinh sản”.
Công văn đề nghị: “Để khắc phục tình hình nêu trên, góp phần tạo dư luận xã hội tích cực và động viên các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện tốt chính sách dân số của Đảng và Nhà nước. Tổng cục Dân số - KHHGĐ thuộc Bộ Y tế trân trọng đề nghị Cục Báo chí, Cục Quản lý Phát thanh - Truyền hình và Thông tin điện tử thuộc Bộ Thông tin và truyền thông chỉ đạo các cơ quan báo chí, đặc biệt là các Báo điện tử phải tuyên truyền đúng chủ trương, luật pháp, chính sách của Đảng và Nhà nước về DS-KHHGĐ, đồng thời yêu cầu các cơ quan báo chí đã tuyên truyền không đúng nội dung Nghị định số 20/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ phải gỡ bỏ và đính chính ngay nội dung đã tuyên truyền, phổ biến sai trên mặt báo”.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người Lao động có bàiViệt Nam dễ bị “vạ lây” về điều tra phòng vệ thương mại. Bài báo phản ánh: Đó là nhận xét của tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Trang, Phó Ban Pháp chế kiêm thư ký Hội đồng Tư vấn về phòng vệ thương mại - Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI), tại tọa đàm “Các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp liên quan đến xuất khẩu VN” do VCCI tổ chức ngày 11-3 ở TPHCM. Trong năm 2009, các nhà xuất khẩu VN phải đối diện với 41 vụ phòng vệ thương mại. Ngoài sự gia tăng bất ngờ về số lượng, các vụ điều tra phòng vệ thương mại còn có những điểm đáng lưu ý, nhất là việc xuất hiện những ngành nghề không là thế mạnh xuất khẩu của VN cũng bị liên quan.
Một trong những nguyên nhân khiến VN hay bị “vạ lây” là do VN nằm trong khu vực gồm nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ có thế mạnh về xuất khẩu và bị áp thuế về chống bán phá giá, chống trợ cấp như Thái Lan với 142 vụ, Indonesia 145 vụ, Đài Loan 187 vụ và Trung Quốc 677 vụ. Để đối phó với tình trạng trên, các chuyên gia am hiểu lĩnh vực này cho rằng các nhà xuất khẩu VN nên đoàn kết và chuẩn bị bài bản về bằng chứng có lợi nhằm giảm thấp nhất mức thiệt hại. Bên cạnh đó, cần phải tận dụng quyền của thành viên WTO để kiện những quốc gia và các nền kinh tế không tuân thủ quy định chống bán phá giá, chống trợ cấp của WTO.
2. Báo An ninh Thủ đô có bài Chất lượng… văn bản. Bài báo phản ánh: Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp là làm sao để các văn bản ban hành đạt chất lượng cao nhất. Luật tốt chưa đủ, khi dưới luật còn rất nhiều văn bản kém chất lượng, thiếu tính khả thi. Yêu cầu cấp bách mà Thủ tướng Chính phủ đề ra trong năm 2010 về cải cách thủ tục hành chính là: Muốn cho một nền hành chính có hiệu lực, hiệu quả và thông suốt, thì yêu cầu có tính tiên quyết là các văn bản hành chính phải có chất lượng.
Vậy, làm thế nào để “cân đo” được chất lượng… văn bản? Thực tế cho thấy, có những văn bản kém chất lượng, trái với Hiến pháp và pháp luật, phi thực tế, không khả thi, thậm chí chứa đựng những sai sót khó chấp nhận. Ngoài những trường hợp hiển nhiên đó, rất khó có thể đánh giá chất lượng của văn bản. Theo ý kiến của một số chuyên gia về pháp luật, một khiếm khuyết lâu nay rất dễ nhận thấy và đã để lại nhiều hệ lụy là việc phân tích chính sách ít được quan tâm đúng mức để làm cơ sở cho việc ban hành văn bản. Ngay cả trong Luật ban hành các văn bản pháp luật cũng không đề cập đến công đoạn phân tích chính sách. Có thể nhận thấy các văn bản kém chất lượng thường xuất phát từ những nguyên nhân sau đây. Không thiết lập được những ưu tiên chính sách chủ yếu, không đưa được những lựa chọn khó khăn giữa các mục tiêu mâu thuẫn khác nhau hoặc không chuyển hóa được những ưu tiên thành các văn bản cụ thể.
Có trường hợp né tránh các quy trình, nguyên tắc chính thức trong ban hành văn bản. Do vai trò của tổ chức không rõ ràng hoặc do có sự mâu thuẫn giữa các chương trình công tác của các Bộ, ngành hoặc vì cả hai lý do này, cộng với thất bại trong việc lấy ý kiến của các Bộ có liên quan về các quyết định cụ thể, nên các ý kiến trình lên Chính phủ được soạn thảo sơ sài và không đánh giá đầy đủ các chi phí. Nguy hại nhất là cố tình “cài cắm” những nội dung có lợi cho nhóm lợi ích này, nhưng bất lợi cho nhóm lợi ích kia. Trong quy trình đưa ra một quyết định, có 4 nguyên tắc chọn đặc biệt quan trọng. Đó là tính kỷ luật, tính minh bạch, tính bền vững và lựa chọn cấu trúc. Nguyên tắc đưa ra văn bản phải có tính kỷ luật cao, các quyết định phải nhất quán, có tính thực tiễn và có khả năng thực hiện. Đây là nguyên tắc hiển nhiên, song trên thực tế nó lại ít được tôn trọng. Ở các nước có nền hành chính kém phát triển, người ta ban hành quyết định mà không có sự cân nhắc, xem xét đầy đủ những chi phí tiềm tàng, đặc biệt là gánh nặng chi phí theo ngành dọc tác động lên chính sách.
Tính minh bạch trong quá trình ra quyết định cũng là yếu tố không kém phần quan trọng. Vì thế quyết định phải phản ánh trung thực các kết luận trước đó. Nguyên tắc cuối cùng của một quy trình ban hành văn bản là “lựa chọn cấu trúc”. Nhiều văn bản trình lên trên chỉ có nội dung thường nhật thường được dễ dàng thông qua. Nhưng cũng có việc dồn trách nhiệm lên cấp trên, dẫn tới tình trạng nhiều vấn đề nhỏ nhặt cũng phải chờ Chính phủ phê duyệt. Vì vậy cần phải thực hiện phân cấp ủy quyền để Chính phủ có thời gian chỉ đạo những vấn đề có tính chiến lược.
Từ những nguyên tắc chung, một cơ chế ban hàng văn bản tốt phải thực hiện hiệu quả 5 nhiệm vụ sau: Cung cấp hệ thống thu thập, xử lý thông tin và cảnh báo sớm về vấn đề cần quyết định. Bảo đảm tham khảo đầy đủ ý kiến của mọi cơ quan, ban, ngành. Cung cấp các phân tích hỗ trợ và xem xét thận trọng khả năng lựa chọn. Phổ biến rộng rãi các quyết định. Giám sát quá trình thực hiện và theo dõi sát các bước tiếp theo. Hiệu quả của việc ban hành văn bản, chất lượng văn bản sẽ cao hơn nếu có một cơ chế nhất định để tổ chức thu nhập ý kiến tư vấn rộng rãi từ các cơ quan của Chính phủ, giới doanh nghiệp cũng như từ công chúng.
3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài Kiểm soát giá: không khả thi. Bài báo phản ánh: Việc kiểm soát giá theo dự thảo thông tư mới do Bộ Tài chính soạn thảo nhằm thay thế Thông tư 104 được ban hành từ cuối năm 2008, theo nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là không khả thi và còn nhiều bất cập. “Việc kiểm soát giá theo dự thảo thông tư mới sẽ rất khó thực hiện, vì nhiều lý do”, ông Trần Trung Chính, Phó tổng giám đốc Công ty liên doanh Khí hóa lỏng Việt Nam (VT Gas), khẳng định.
Theo dự thảo thông tư mới, mặt hàng gas (khí hóa lỏng) cũng nằm trong danh mục hàng hóa dịch vụ thực hiện bình ổn giá. Doanh nghiệp kinh doanh gas buộc thực hiện đăng ký giá với Nhà nước. Thực tế rất khó để thực hiện điều này, bởi doanh nghiệp nhập khẩu gas phụ thuộc vào giá cả biến động hàng ngày trên thị trường quốc tế. Giá gas sẽ tự điều chỉnh theo nhu cầu thị trường và có lợi cho người tiêu dùng, khi thị trường có cạnh tranh lành mạnh. Kiểm soát giá sẽ gây khó khăn cho những nhà đầu tư nước ngoài, gây bị động cho doanh nghiệp trong quá trình lập kế hoạch kinh doanh và ảnh hưởng đến những mục tiêu dài hạn của nhà đầu tư. Ông Chính dẫn chứng, hiện ở thị trường gas, doanh nghiệp tư nhân mua gas từ nhà sản xuất, hay đầu mối nhập khẩu, họ đã đạt được lợi nhuận khoảng 30 đô la Mỹ/tấn gas. Trong khi đó, doanh nghiệp nước ngoài phải đạt mức lợi nhuận cao hơn mới có lời. Khoản lợi nhuận này của doanh nghiệp phải bù được chi phí đầu tư kho cảng và những khoản đầu tư khác từ thời điểm ban đầu khởi nghiệp ở Việt Nam. “Do vậy, Nhà nước không thể áp đặt giá bán cho doanh nghiệp, bởi mức hạch toán của từng doanh nghiệp ở mỗi thời điểm khác nhau”, ông Chính nói.
Theo dự thảo thông tư mới, mặt hàng thép xây dựng cũng nằm trong danh mục bình ổn giá. Bình luận về thông tin này, giám đốc một doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, sản xuất thép tại Việt Nam, cho biết: “Công ty tôi đã quá mệt mỏi khi chịu sức ép cạnh tranh ở thị trường trong nước, nay nếu bị kiểm soát giá bởi Nhà nước chắc tôi cân nhắc lại quyết định kinh doanh ở thị trường Việt Nam”. Vị này than thở, đầu năm 2010, nguyên liệu đầu vào của ngành thép như than, điện đã tăng giá, Nhà nước không thể ấn định giá bán ra của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những yếu tố đầu vào của ngành như phôi, sắt cũng thay đổi liên tục, buộc các doanh nghiệp thép phải linh động điều chỉnh giá bán ra, theo từng thời điểm của thị trường.
Trước những lo lắng của doanh nghiệp thành viên, ông Nguyễn Tiến Nghi, Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam, cho rằng trước tình hình giá cả biến động mạnh trong thời gian qua, Nhà nước can thiệp vào giá là điều cần thiết nhằm tránh tình trạng “té nước theo mưa”. Tuy nhiên, việc can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của doanh nghiệp bằng những biện pháp hành chính như dự thảo thông tư mới là điều không ổn. “Với nhiều thành phần kinh tế tham gia trong ngành thép và cạnh tranh để tồn tại, nên không có chuyện doanh nghiệp tự ý tăng giá”. Ông Nghi nói, hiện tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước trong ngành thép chiếm 30%, các liên doanh thép 24%, còn lại là doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm khoảng 46%.
Dù dự thảo chưa có hiệu lực nhưng đã có những tác động tiêu cực ban đầu, giám đốc một liên doanh sản xuất thức ăn chăn nuôi, cho biết ngay từ đầu năm nay, toàn bộ sản lượng lysine (chất phụ gia chính trong sản xuất thức ăn chăn nuôi) của công ty ông đã được xuất ra nước ngoài. Công ty thực thi chiến lược này nhằm tránh bị kiểm soát giá cả. Trong khi đó, doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước buộc phải nhập khẩu nguyên liệu này từ nước ngoài.
Ông Trần Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn Chăn nuôi, bức xúc: “Đã gần ba tháng trôi qua, dự thảo thông tư mới đã xếp mặt hàng thức ăn chăn nuôi vào mặt hàng bình ổn giá. Nhưng khả năng dự thảo có đi vào thực tế hay không? Nếu có, khi nào thông tư này có hiệu lực? Những thông tin này hiện vẫn còn bỏ ngỏ”. Điều này gây tâm lý hoang mang cho doanh nghiệp trong ngành, họ bị động trong việc lập kế hoạch kinh doanh.
4. Báo Hà Nội mới có bài Thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ: Liệu có "nhờn thuốc"?. Bài báo phản ánh: Cũng như nhiều quốc gia khác, Việt Nam hiện đã có một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ (SHTT) khá đầy đủ nếu xét về mặt hình thức. Tuy nhiên, cùng với tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế, những hành vi vi phạm về SHTT, đặc biệt là vi phạm về sở hữu công nghiệp (SHCN) diễn ra ngày một tinh vi hơn, nhưng biện pháp xử lý đến nay vẫn là thách thức đối với các cơ quan thực thi pháp luật.
Đợt kiểm tra sơ bộ của thanh tra ngành khoa học - công nghệ tiến hành từ tháng 4 đến tháng 6-2009 tại hơn 3.000 cơ sở kinh doanh trên cả nước cho thấy, 37 đơn vị trong số này có hành vi vi phạm về SHCN (một đối tượng bảo hộ của pháp luật về SHTT). Đó là hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu; hành vi chỉ dẫn sai về tình trạng pháp lý bảo hộ quyền SHCN... Điều này như bổ sung thêm cho thống kê hằng năm của Cục Quản lý thị trường (Bộ Công thương) khi mỗi năm có đến hàng nghìn vụ việc liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có kiểu dáng "cải tiến" của các kiểu dáng đã được đăng ký bảo hộ. Thực trạng này không những gây thiệt hại cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính mà còn làm cho một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng phải dùng tiền thật để mua... hàng giả.
Điển hình cho tình trạng vi phạm pháp luật về SHTT là sản phẩm võng xếp Duy Lợi và các dòng xe máy của Honda Việt Nam. Công ty TNHH Duy Lợi đã phải kêu trời khi cho biết có thời điểm tại thị trường trong nước có đến 16 cơ sở, doanh nghiệp sản xuất võng xếp vi phạm kiểu dáng độc quyền sản phẩm võng xếp của mình. Hay gần đây, nhiều khách hàng bất ngờ thấy có nhiều địa chỉ rao bán các dòng xe Honda Spacy, AirBlade, SCR với giá 16 triệu đồng, trong khi giá thành chính hãng nhập khẩu lần lượt là hơn 90 triệu và 30 triệu đồng. Kết quả điều tra cho thấy, các loại xe này là hàng không rõ nguồn gốc. Theo ước tính của các chuyên gia, mỗi năm thị trường Việt Nam tiêu thụ khoảng hơn 1 triệu chiếc xe máy giả, nhái, trong đó có đến 50% là xe giả, nhái nhãn hiệu Honda.
Không chỉ các mặt hàng có giá trị kinh tế lớn mới bị làm giả mà những sản phẩm có giá trị không lớn như chiếc bút bi, giấy viết, khăn ăn giấy... cũng bị làm giả. Điển hình hơn cả là tình trạng băng đĩa lậu xuất hiện tràn lan ở khắp mọi ngõ ngách mà việc xử lý là "bất khả thi" với các cơ quan thực thi pháp luật. Câu trả lời chung cho tình trạng này là hành vi vi phạm pháp luật SHTT luôn tạo ra siêu lợi nhuận trong khi việc xử lý vi phạm chủ yếu dừng ở mức xử phạt hành chính và mức phạt cũng chưa đủ sức răn đe đối với đối tượng vi phạm.
Theo các chuyên gia của Công ty cổ phần SHCN Investip: Một bất cập rất lớn trong khâu thực thi quyền SHTT hiện nay là thiếu sự phối hợp xử lý giữa 6 cơ quan được giao trách nhiệm bảo đảm thực thi về SHTT là tòa án; quản lý thị trường; thanh tra (Văn hóa - Thể thao và Du lịch, NN&PTNT, KHCN); công an; hải quan; UBND các cấp. Mặc dù thẩm quyền của mỗi cơ quan đã được quy định nhưng vẫn có hiện tượng chồng chéo. Điều này không chỉ khiến các chủ thể quyền SHTT lúng túng khi muốn liên lạc mà còn làm chính những cơ quan thực thi này nảy sinh tâm lý đùn đẩy, chờ đợi, giẫm chân lên nhau hoặc mạnh ai nấy làm. Khó khăn không chỉ dừng ở các cơ quan thực thi mà một phần còn ở những quy định về việc làm thế nào để người được quyền sở hữu, sử dụng tài sản trí tuệ bị vi phạm "thuyết phục" được các cơ quan chức năng vào cuộc. Bởi theo quy định, đơn vị khi bị vi phạm SHTT phải chứng minh quyền SHTT bị xâm phạm đến đâu và cung cấp hóa đơn tài chính của nơi vi phạm để chứng minh thiệt hại của đơn vị mình. Điều này là khó khả thi khi đơn vị vi phạm mới chỉ sản xuất mà chưa bán hàng ra thị trường nên không thể có hóa đơn tài chính. Vô hình trung, chỉ đến khi hàng vi phạm SHTT được bày bán thì việc khuyến nghị các cơ quan chức năng vào cuộc mới có cơ sở. Điều đó dẫn đến việc ngăn chặn từ xa đối với hành vi vi phạm dường như là câu chuyện không thể xảy ra...
Mặt khác, Luật SHTT (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010, quy định về mức phạt tiền tối đa là 500.000 đồng có sự bất hợp lý nếu xét với các hành vi vi phạm vốn mang lại lợi nhuận cao như trong sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và phụ tùng... Ngoài ra, căn cứ để xác định mức phạt này vẫn còn chưa rõ ràng. Đây là trở ngại cho các cơ quan thực thi và gây băn khoăn đối với các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Hiện đã có không ít chuyên gia cho rằng, thời gian tới Việt Nam nên thành lập các tòa án chuyên biệt về SHTT như một số nước trong khu vực đã và đang làm khá thành công như: Anh, Mỹ, Pháp, Malaixia, Xingapo... Câu trả lời xin dành cho các cơ quan quản lý.