Điểm tin báo chí sáng ngày 05 tháng 3 năm 2010

05/03/2010
Trong buổi sáng ngày 05/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Thanh niên phản ánh: Chiều ngày 4.3, Bộ GD-ĐT đã tổ chức họp báo công bố chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Trả lời một số câu hỏi của báo chí về các vấn đề dư luận quan tâm, lãnh đạo bộ cho biết, Bộ không có chủ trương cấm mở ngành Luật, Sư phạm, Báo chí ở các trường ngoài công lập.
Thời gian tới, Bộ sẽ xây dựng kế hoạch kiểm tra, rà soát điều kiện thành lập trường ở các trường ĐH đang hoạt động. Căn cứ vào các điều kiện đảm bảo chất lượng và cam kết khi xây dựng trường, Bộ sẽ có giải pháp xử lý những trường không đủ điều kiện với các hình thức dừng tuyển sinh hoặc đóng cửa trường. Đặc biệt, khi mở ngành đào tạo, ngoài việc sẽ thẩm định thực tế, Bộ yêu cầu hồ sơ mở ngành phải đưa công khai lên trang web của trường để xã hội cùng giám sát.
Tại cuộc họp báo, trả lời câu hỏi liên quan đến việc tăng học phí, lãnh đạo Bộ cho biết, các trường phải công khai và cam kết tăng học phí  đồng thời với việc tăng chất lượng đào tạo. Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thị Nghĩa còn khẳng định: một số trường ĐH thuộc Bộ Công thương, năm vừa qua, đã thu học phí vượt mức quy định thì trách nhiệm thuộc về Bộ chủ quản.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 4-3, Văn phòng Chính phủ tổ chức hội nghị trực tuyến về đầu tư xây dựng toàn quốc giữa Chính phủ với các tỉnh, thành. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) cho hay năm 2009, đầu tư xây dựng cơ bản có nhiều thành công nhưng tỷ lệ dự án chậm tiến độ vẫn chiếm khoảng 12,7%.
Theo Bộ KH&ĐT, trong các năm 2007 và 2008 tình hình suy thoái kinh tế thế giới làm giá cả tăng đột biến, dẫn tới năm 2009 nhiều dự án phải điều chỉnh tổng mức đầu tư, ảnh hưởng đến tiến độ. Ngoài ra, còn một nguyên nhân muôn thuở là công tác giải phóng mặt bằng khó khăn và thủ tục đầu tư phức tạp. “Nghị định 69/2009 về bồi thường giải phóng mặt bằng theo hướng ngày càng có lợi cho người dân bị thu hồi đất. Tuy nhiên do có sự giao thời khi áp dụng nghị định này và các văn bản cũ dẫn tới việc áp giá khác nhau khiến người dân so bì. Rồi trong việc xác định nguồn gốc đất có trường hợp thiếu chính xác” - Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) Hồ Nghĩa Dũng cho biết.
Trả lời việc này, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) Phạm Khôi Nguyên cho biết cách tính giá các dự án có khác nhau trong giai đoạn giao thời các văn bản cũ và mới là không thể tránh khỏi. “Từ trước đến nay đã có năm nghị định quy định về việc này. Khi ban hành Nghị định 69, Bộ đã phối hợp triển khai ở 25 tỉnh, thành thì không thấy có trường hợp nào vướng” - ông nói. Về việc xác định nguồn gốc đất để bồi thường, lãnh đạo Bộ TN&MT cho biết văn bản hướng dẫn đã đủ nhưng một số nơi làm không đúng nên cấp giấy sai. Trường hợp cấp sai sẽ bị thu hồi.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chia sẻ với các địa phương: “Giải phóng mặt bằng là một vấn đề khó nhưng phải làm cho đầy đủ vì lợi ích của người dân. Nghị định 69 và các văn bản hướng dẫn còn vướng mắc gì thì Bộ TN&MT ghi nhận và tiếp tục xử lý. Muốn giải quyết nhanh khâu này thì phải chuẩn bị trước phương án tái định cư, thực hiện đúng, đầy đủ chính sách bồi thường. Còn nếu đã làm hết sức mà một bộ phận nhỏ người dân vẫn cố ý không chấp hành thì phải kiên quyết buộc họ thực hiện”.
Bộ KH&ĐT báo cáo năm 2009 việc giải ngân nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản được đẩy nhanh hơn những năm trước nhưng vẫn thấp so với yêu cầu. Bộ này thông báo: tính đến 31-12-2009, các bộ ngành và địa phương đã giải ngân được khoảng 80,9% vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách nhà nước và hơn 42.600 tỉ đồng trái phiếu chính phủ (đạt hơn 76% kế hoạch). Thủ tướng nhận xét, một số công trình chậm tiến độ, có nơi giải ngân chưa tới 70% là một khuyết điểm cần khắc phục. Thủ tướng đề nghị các bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh, thành, lãnh đạo các tổng công ty rà soát việc phân bổ vốn cho năm 2010. Tuy nhiên, chỉ các dự án đủ điều kiện, thủ tục hoặc những dự án ưu tiên đưa vào sử dụng mới được dồn vốn cho xong. Thủ tướng cũng lưu ý các địa phương không đầu tư dàn trải mà chỉ nên chọn một công trình trọng điểm để làm trước.
Về các giải pháp huy động vốn để chi cho đầu tư xây dựng, bên cạnh các cách làm hiện nay, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Tài cho biết đang xin ý kiến Bộ Tài chính có thêm hình thức phát hành trái phiếu ra quốc tế từ một công ty không phải của nhà nước. Đề xuất này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá rất cao.
4. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Sau 4 tháng, quy định cấm dùng chung cư làm văn phòng tại TP Hà Nội vẫn chưa được thực thi. việc cho doanh nghiệp thuê căn hộ tại các khu đô thị lớn như: Trung Hòa - Nhân Chính (quận Thanh Xuân); khu ĐT Mỹ Đình, Từ Liêm; khu ĐT Linh Đàm (quận Hoàng Mai)... vẫn tiếp tục mở thêm.
Thực trạng này cũng diễn ra tại Hà Nội, TPHCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nghệ An và Thanh Hóa. Bộ Xây dựng lại vừa có công văn yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thống kê tình hình sử dụng căn hộ chung cư làm cơ sở sản xuất, kinh doanh, văn phòng và báo cáo trước ngày 30-3-2010.
Theo Bộ Xây dựng, nhà chung cư có mục đích để ở, nên việc sử dụng làm cơ sở sản xuất, kinh doanh, làm văn phòng đang diễn ra ở một số khu chung cư hiện nay là sai Luật Nhà ở. Việc sử dụng nhà chung cư cho những mục đích không phải để ở đã bộc lộ nhiều bất cập, làm cơ sở hạ tầng bị quá tải và xuống cấp nhanh chóng, ảnh hưởng đến môi trường sống của những người dân trong khu nhà.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 4-3, Ban soạn thảo Luật Thủ đô đã tổ chức họp thảo luận về dự án luật này. Theo Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Vũ Hồng Khanh, hiện Thủ đô đang phải đối mặt với việc bùng nổ các cơ sở đào tạo. Do đó, nếu muốn Hà Nội là trung tâm đào tạo nhân tài trình độ cao, thì phải có điều kiện khắt khe đối với việc thành lập các trung tâm đào tạo được tồn tại trên địa bàn Thủ đô. Một mong muốn nữa của Hà Nội là có cơ chế mở để tuyển dụng nhân tài. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên cũng nhất trí với quan điểm trên.
Nếu không có gì thay đổi, Ban soạn thảo sẽ trình Chính phủ dự thảo Luật Thủ đô vào ngày 15-3 tới.
2. Báo Nhân dân phản ánh: Ngày 4-3, tại TP Kon Tum, Khối Sở Tư pháp, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh khu vực duyên hải miền trung và Tây Nguyên tổ chức Hội nghị giao ước thi đua năm 2010.
Hội nghị đã thống nhất ký kết giao ước thi đua năm 2010 với nội dung trọng tâm là công tác xây dựng ngành và nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Trong đó chú trọng nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật; công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật theo Chỉ thị số 32 của Ban Bí thư; công tác trợ giúp pháp lý, nhất là trợ giúp pháp lý cho đối tượng chính sách, người nghèo; công tác thi hành án dân sự, công tác hành chính Tư pháp và bổ trợ Tư pháp; công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo; công tác cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
3. Thời báo Kinh tế Sài gòn online có bài Còn nhiều vướng mắc. Bài báo phản ánh: Nhu cầu về mua bán và sáp nhập (M&A) ngày càng tăng lên, thế nhưng hoạt động này lại đang gặp rất nhiều vướng mắc do hành lang pháp lý còn tản mát, thiếu hụt và không rõ ràng. Luật sư Trần Thanh Tùng, Công ty Luật P&P, đã liệt kê một loạt khó khăn như sau.
Một, là đối tượng M&A bị bó hẹp. Các quy định về chia, tách, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp từ điều 150 đến điều 153, Luật Doanh nghiệp đều được xây dựng theo hướng chỉ có các công ty cùng loại (công ty cổ phần, công ty TNHH) mới được sáp nhập, hợp nhất với nhau và chỉ có thể chia, tách công ty thành các công ty cùng loại. Điều này làm ngăn cản khả năng chia, tách công ty TNHH thành các công ty cổ phần và ngược lại cũng ngăn cản khả năng sáp nhập, hợp nhất giữa các công ty không cùng loại (sáp nhập, hợp nhất công ty TNHH vào công ty cổ phần hoặc ngược lại). Luật Doanh nghiệp cũng không quy định về việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập đối với các doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh.
Hai, là hạn chế trong việc chuyển đổi doanh nghiệp sau M&A. Luật Doanh nghiệp quy định năm hình thức doanh nghiệp (công ty TNHH một thành viên, công TNHH hai thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân), và nếu có thể chuyển đổi tự do qua lại giữa các loại hình doanh nghiệp, chúng ta sẽ có 5 x 4 = 20 cách chuyển đổi. Tuy nhiên, các quy định hiện hành chỉ cho phép thực hiện 8/20 cách chuyển đổi (cụ thể là chuyển công ty TNHH một thành viên thành công ty TNHH hai thành viên hoặc công ty cổ phần và ngược lại; công ty TNHH hai thành viên thành công ty TNHH một thành viên hoặc công ty cổ phần và ngược lại; chuyển DNTN thành công ty TNHH một thành viên hoặc công ty TNHH hai thành viên). Sự hạn hẹp đó không đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi của doanh nghiệp và nhiều giao dịch mua bán doanh nghiệp không thể thực hiện do không có cơ sở pháp lý.
Ba, là khó khăn về thủ tục, trong đó rối nhất vẫn là trường hợp công ty trong nước chuyển nhượng vốn cho nhà đầu tư nước ngoài. Công ty được chuyển nhượng phải làm thủ tục sửa đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đầu tư vẫn là vấn đề chưa được quy định rõ ràng và áp dụng thống nhất. Nếu áp dụng theo Luật Doanh nghiệp trong trường hợp vốn nước ngoài dưới 49% thì chỉ cần sửa đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, còn áp dụng theo Luật Đầu tư và các công văn hướng dẫn của các cơ quan quản lý, chẳng hạn như Bộ Công Thương thì dù có 1% vốn nước ngoài cũng phải làm giấy chứng nhận đầu tư. “Mặc dù hai thủ tục này là hoàn toàn khác nhau nhưng cho đến nay vẫn chưa có quy định thống nhất, mỗi nơi làm một kiểu, gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp”, ông Tùng cho biết. Mặt khác, một số luật khác, chẳng hạn như Luật Cạnh tranh cũng quy định về các hành vi tập trung kinh tế (sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp…). Theo đó, các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30-50% trên thị trường liên quan thì phải làm thủ tục thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh. Tuy nhiên, hiện cũng chưa có cơ chế để thực hiện việc thông báo tập tung kinh tế và điều khiến các nhà đầu tư thiếu an tâm là không rõ hậu quả pháp lý sẽ ra sao nếu thủ tục này bị bỏ qua.
Ngoài ra, còn vô số khó khăn khác phát sinh trong thực tiễn. Ví dụ, một số cơ quan đăng ký kinh doanh bắt buộc doanh nghiệp phải sử dụng mẫu hợp đồng chuyển nhượng của họ. Hợp đồng này chỉ khoảng vài trang, nội dung rất sơ sài trong khi hợp đồng của doanh nghiệp có thể lên tới hàng chục trang với các điều khoản chi tiết hơn, đầy đủ hơn lại không được chấp nhận. “Để giải quyết vướng mắc, các bên chuyển nhượng đành phải làm theo cách, một mặt buộc phải chấp nhận hợp đồng mẫu của cơ quan đăng ký kinh doanh, một mặt ký riêng với nhau một hợp đồng khác trên cơ sở ý chí của các bên. Tuy nhiên, cách làm này chứa đựng nhiều rủi ro vì hợp đồng thực chất giữa các bên không được Nhà nước công nhận”, ông Tùng phân tích.
Một luật sư của Văn phòng Luật sư Người nghèo cho biết có trường hợp như tại Đồng Tháp, ngân hàng yêu cầu phải có hợp đồng mua bán công ty thì mới cho phép nhà đầu tư mở tài khoản (để chuyển tiền chuyển nhượng) trong khi luật quy định phải dưới hình thức hợp đồng chuyển nhượng cổ phần (hoặc vốn góp). Hoặc có trường hợp chuyển nhượng toàn bộ công ty, bên nhận chuyển nhượng muốn giữ lại pháp nhân công ty nhưng cơ quan quản lý đầu tư lại không cho mà yêu cầu phải bỏ pháp nhân cũ và lập pháp nhân mới thì mới cho phép chuyển nhượng. Với các trường hợp trên, các nhà đầu tư đành phải ngậm ngùi bỏ cuộc vì không thể chấp nhận những yêu cầu… không khả thi như vậy.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Gần 20 năm không thể ly hôn. Bài báo phản ánh: TAND một quận ở TP.HCM đang đau đầu khi giải quyết vụ ông P. (ngụ Gò Vấp) yêu cầu tuyên bố vợ ông mất năng lực hành vi dân sự để ông ly hôn. Ông P. kể rằng vợ chồng ông kết hôn năm 1987. Ba năm sau thì có một bé gái. Tuy nhiên, một năm sau nữa, vợ ông bỏ nhà đi… 12 năm trước, ông cũng đã nộp đơn ra tòa này xin ly hôn vì vợ bị bệnh bởi bà hay nói ông lăng nhăng. Rồi bà từng một lần tự tử, phá phách, chửi bới ông, đánh con trước mặt lối xóm... Ông không thể chung sống vì nếu sống chung sẽ sinh ra những người con không bình thường. Tuy nhiên, vợ ông lại phản bác cho là mình rất bình thường, không mắc bệnh gì cả. Bà vẫn rất yêu thương chồng con… Bà nhấn mạnh thêm rằng từng bị sốc khi biết ông không chung thủy, phụ bạc. Gia đình có đưa bà đi khám vì bà bị bệnh về nhân cách, không có bệnh về tâm thần.
Sau khi nghe hai bên trình bày, cuối cùng tòa quyết không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông P. vì bà vợ chỉ bị sốc về tình cảm dẫn đến ảnh hưởng tinh thần chứ không phải mắc bệnh tâm thần như ông nại ra. Giờ đây, để chuyện ly hôn có kết quả, ông làm đơn yêu cầu tòa tuyên bố bà mất năng lực hành vi dân sự. Bởi nếu ông không làm được thủ tục này thì không có cách nào khác để ly hôn. Tuy nhiên, khổ cho tòa là thụ lý vụ án này, tòa đã mời vợ ông P. cùng gia đình bà này đến để phối hợp giải quyết nhưng hết người này đến người khác đều không xuất hiện. Trong khi luật thì cũng không quy định tòa được cưỡng chế họ khi họ không hợp tác nên vụ án đành phải… treo.
Biết chuyện này, nhiều thẩm phán tòa quận cũng than thở hiện có rất nhiều yêu cầu tuyên bố mất hành vi năng lực một người nào đó để làm thủ tục ly hôn. Nhưng những người đang sống chung với họ cương quyết không hợp tác với tòa. Vì thế vụ án đã rơi vào bế tắc, tòa bó tay… Trước vấn đề trên, một thẩm phán TAND TP.HCM cho biết đúng là hiện luật tố tụng chưa có quy định cụ thể gì về những trường hợp này. Khi giải quyết vụ việc dân sự, luật không cho phép tòa được cưỡng chế để giám định với những người có dấu hiệu tâm thần. Vấn đề là người giải quyết vụ việc phải linh động để có thể trưng cầu được giám định người được yêu cầu có mắc bệnh không. Từ đó tòa mới có thể ra quyết định tuyên bố một người nào đó mất năng lực hành vi dân sự. Thẩm phán này đề nghị hiện những trường hợp như ông P. không hiếm, luật chưa tiên liệu được hết nên cần sớm có một hướng dẫn cụ thể để giải quyết, khắc phục.


File đính kèm