Trong buổi sáng ngày 03/3/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Lao động phản ánh: Ông Huỳnh Vạn Thắng - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn TP.Đà Nẵng vừa cho P.V Lao Động biết đang hoàn tất hồ sơ để Chủ tịch UBND TP tiếp tục gửi kiến nghị lên Thủ tướng Chính phủ, đề nghị can thiệp giải quyết tranh chấp nguồn nước ở thượng nguồn sông Vu Gia, Quảng Nam. Như Lao Động đã nhiều lần phản ánh, việc xây dựng Nhà máy thuỷ điện Đắk Mi4 tại huyện Phước Sơn, Quảng Nam đã cắt tiệt dòng Đắk Mi (chiếm 1/3 lưu vực dòng Vu Gia, nhưng chiếm 50% lưu lượng nước của dòng sông lớn này) để phát điện, nhưng không trả về dòng cũ mà đổ về sông Thu Bồn, gây cạn kiện hạ lưu, ảnh hưởng nội thuỷ TP.Đà Nẵng. Ngoài những hệ lụy về môi sinh, môi trường, gần 1,7 triệu người dân vùng hạ lưu sẽ ảnh hưởng trực tiếp trước việc bị cắt tiệt dòng ở thượng nguồn sông Vu Gia.
UBND TP đã có nhiều công văn gửi Chính phủ, Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên Môi trường, trong đó có việc đề nghị tạm đình chỉ thi công đập thuỷ điện Đắk Mi4 để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, việc giải quyết của Bộ Công thương kéo dài, trong khi công trình vẫn tiếp tục thi công. Cuối tháng 1.2010, tổ chuyên gia thẩm định vấn đề xả nước sau đập thuỷ điện Đắk Mi4 do Bộ Công thương thành lập (QĐ số 3425/QĐ-BCT ngày 7.7.2009) đã có báo cáo, tham mưu Bộ Công thương để đệ trình Chính phủ hướng giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Vạn Thắng, kết quả báo cáo của tổ chuyên gia thẩm định (trong đó có ông Thắng) không khách quan, thiếu cơ sở. Cụ thể, lưu lượng trung bình mùa kiệt ở thượng nguồn Vu Gia, đoạn qua Nhà máy thủy điện Đắk Mi4 là 45-47m3/giây, song tổ công tác chỉ đề nghị nhà máy xả, trả lại dòng cũ với lưu lượng 8m3/giây. Ông Thắng đã phản đối nhưng bất thành.
Hiện công trình thuỷ điện Đăk Mi4 đang khẩn trương hoàn thành, khả năng trả nước về lại sông Vu Gia khó có thể thực hiện được, song Đà Nẵng sẽ kiên trì kiến nghị các giải pháp hợp lý. Theo ông Thắng, Đà Nẵng không đòi hỏi quá đáng, chỉ đề nghị Nhà máy thủy điện Đắk Mi4 trả về dòng cũ chỉ cần với lưu lượng trung bình của mùa kiệt nước, tức 45-47m3/giây, để tránh thảm họa môi trường và ảnh hưởng nội thủy ở Đà Nẵng.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Sau kiến nghị của Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, gửi lãnh đạo Đảng, nhà nước cảnh báo việc nhiều địa phương cho nước ngoài thuê rừng đầu nguồn dài hạn, dư luận đặt câu hỏi: Có phải vì rộng tay phân cấp quản lý đất đai cho địa phương nên mới xảy ra chuyện? Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, các chuyên gia đều cho rằng việc nhiều địa phương cho nước ngoài thuê rừng đầu nguồn với thời hạn dài, bất lợi cho an ninh, quốc phòng và kinh tế-xã hội xuất phát từ việc phân cấp, giao quyền cho địa phương thiếu các điều kiện cụ thể và “rào giậu” hậu kiểm, để xảy ra chuyện “thả gà ra để đuổi”.
Theo Luật Đất đai năm 2003, việc phân cấp quản lý và định đoạt các loại đất nông nghiệp, lâm nghiệp đã giao hoàn toàn cho các địa phương. Trao đổi với báo chí, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Hùng Võ cho rằng chủ trương phân cấp là đúng, vấn đề nằm ở chỗ địa phương thực hiện thẩm quyền quản lý và định đoạt của mình như thế nào cho tốt. Theo ông Võ, địa phương làm tốt hay không tốt thì cũng có một phần trách nhiệm của trung ương do chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, kiểm tra, thanh tra. Địa phương nếu chưa làm tốt thì có thiếu sót là chưa tường hết nghiệp vụ quản lý, chưa ý thức hết được thẩm quyền của mình và chưa thể hiện hết trách nhiệm với dân.
Một chuyên gia, cố vấn thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (đề nghị không nêu tên) cũng cho biết: Xét về phương diện pháp lý thì việc chính quyền địa phương cho nhà đầu tư nước ngoài thuê đất là không có gì trái pháp luật; tuân thủ cả Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Ngân sách nhà nước, cũng như nghị định của chính phủ về giao và cho thuê đất lâm nghiệp. Tuy nhiên, theo vị chuyên gia nói trên, hiện việc phân cấp đầu tư đang mang tính “khoán trắng”. Ông phân tích: Ta đang thiếu sự phối hợp giữa các ban ngành trong việc báo cáo và thẩm định dự án. Luật của ta thông thoáng với nhà đầu tư nước ngoài nhưng lại thiếu chặt chẽ về ba điểm cực kỳ quan trọng: 1. Vấn đề giao đất cho nhà đầu tư nước ngoài; 2. Vấn đề đào tạo và sử dụng lao động tại chỗ; và 3. Cơ chế kiểm soát sản phẩm đầu ra. “Hậu quả là doanh nghiệp nước ngoài có thể đưa người của họ vào đất của ta, khai thác ồ ạt tài nguyên đất. Trong khi đó, dự án 5 triệu hecta rừng thực hiện rất chậm mà nguyên nhân là do thiếu đất chứ không phải thiếu vốn” - ông nói.
Cũng theo vị này, mật độ dân số Việt Nam rất cao, tới 270 người/km2, so với mức trung bình của thế giới chỉ khoảng 40 người/km2. Người đông, đất ít như vậy nên việc giao đất cho dân địa phương là hết sức cần thiết, nhất là khi đa số đồng bào miền núi còn chưa có nghề phụ. Ấy vậy mà địa phương lại đem đất cho người nước ngoài thuê dài hạn. “Từ quan điểm kinh tế đầu tư, tôi thấy việc phân cấp đầu tư về địa phương là một ý tưởng tốt nhưng quá trình thực thi lại mang tính “khoán trắng”, rất nguy hiểm” - ông kết luận.
Nguyên Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc thì gọi đây là kiểu “thả gà ra khỏi chuồng để đuổi”, không có “rào giậu” hậu kiểm. “Phân cấp, giao quyền cho địa phương nhưng sử dụng quyền đó đến đâu, với điều kiện như thế nào thì chưa làm rõ. Do đó, phân cấp cho địa phương (giao đất, quyết định đầu tư) thì phải đặc biệt chú trọng đến cơ chế kiểm tra, giám sát, hậu kiểm” - ông Lộc nhấn mạnh.
3. Báo Thanh niên phản ánh: Thu nhập bình quân đầu người tại TP.HCM liên tục tăng qua các năm, nhưng tốc độ tăng không đều giữa thành thị và nông thôn, chênh lệch bình quân giữa nhóm thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất là 6,9 lần. Đó là kết quả điều tra mức sống và môi trường sống của các hộ gia đình tại TP.HCM lần đầu tiên được tiến hành trên địa bàn thành phố, do Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM thực hiện theo đơn đặt hàng của UBND TP, vừa được hoàn tất.
Nguồn thu nhập của các hộ gia đình đến từ nhiều nguồn khác nhau, như: từ việc làm chính, việc làm phụ, từ cấp dưỡng của thân nhân, lãi gửi ngân hàng hay từ việc cho thuê nhà... Nguồn thu từ việc làm chính luôn chiếm đa số trong cơ cấu tổng thu nhập; bình quân chung thì nguồn thu nhập chính chiếm tới 76,7%, còn thu nhập từ việc làm phụ chiếm tỷ lệ không đáng kể, khoảng 4,1%. Theo kết quả khảo sát thì phần lớn những người đang làm việc không có việc làm phụ. Ngoài ra, các nguồn thu khác cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể khoảng 19,2%.
Tổng thu nhập bình quân người/tháng tại TP ở mức 1.746.274 đồng, trong đó các quận nội thành có mức thu nhập cao hơn ở mức 1.914.634 đồng và các huyện có thu nhập thấp nhất chỉ khoảng 1.208.799 đồng. Nhìn chung, tổng thu nhập bình quân/hộ/tháng là khoảng 7.587.093 đồng. Với mức thu nhập như trên, theo đánh giá của nhóm nghiên cứu là mức thu nhập không cao (khoảng 3 USD/ngày), vì vậy mà mức độ hài lòng về công việc và thu nhập của người dân TP không cao. Chỉ có khoảng 24,3% hài lòng, 40,6% cảm thấy thu nhập ở mức bình thường, có thể chấp nhận, còn đến 35% không hài lòng với thu nhập của mình.
4. Báo Hà Nội mới phản ánh: Tin từ Liên đoàn Luật sư Việt Nam (LĐLSVN), thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc cử LS tham gia Tổ Công tác 30 của Chính phủ về rà soát thủ tục hành chính, LĐLSVN đã lựa chọn và cử 54 LS từ 130 hồ sơ đăng ký tham gia tập huấn.
Đến đầu tháng 3 này, có 47 LS được phân công vào 14 nhóm công tác thực hiện Đề án 30 của Văn phòng Chính phủ. Các LS được chọn là những người đáp ứng các yêu cầu về chuyên môn, chính trị và kỹ thuật, tập trung chủ yếu ở Hà Nội, các tỉnh lân cận và một số ở phía Nam. Sắp tới, Tổ Công tác 30 và LĐLS sẽ rà soát lần cuối, những LS đủ điều kiện sẽ được ký hợp đồng trực tiếp và tham gia Tổ công tác trong 4 tháng. Tổ công tác sẽ tổng hợp kết quả thực hiện để thông qua LĐLS 1 tháng/lần lấy ý kiến đóng góp của các LS, nhất là đối với những vấn đề khó, còn tranh cãi.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Hà Nội mới phản ánh: Từ tháng 3 này, lĩnh vực công chứng sẽ do Vụ Bổ trợ tư pháp quản lý thay cho Vụ Hành chính tư pháp. Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp Hoàng Thế Liên yêu cầu Vụ Bổ trợ tư pháp xây dựng ngay một đề án để củng cố về bộ máy và tổ chức để bảo đảm quản lý tốt hoạt động này.
Hiện tại cả nước có 129 phòng công chứng, trong đó nhiều nhất là Hà Nội có 9 phòng. Đối với các văn phòng công chứng, đến nay đã có 56 văn phòng (trong đó nhiều nhất là Hà Nội 38 văn phòng, TP Hồ Chí Minh 8 văn phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu 3, còn lại một số địa phương có 1 văn phòng) với tổng số 101 công chứng viên. Mặc dù mới thành lập song nhìn chung số lượng hợp đồng giao dịch của các văn phòng công chứng có xu hướng tăng nhưng không đồng đều (có văn phòng mỗi ngày thực hiện 15-20 hợp đồng, có văn phòng chỉ 5 hợp đồng/ngày).
Vấn đề quy hoạch công chứng còn đang rất lúng túng. Việc phát triển các văn phòng công chứng chưa thống nhất với 3 tiêu chí: quy mô dân số, lãnh thổ và điều kiện kinh tế từng vùng.
2. Báo Đất Việt có bài Chấp hành viên ly hôn để 'né' thi hành án. Bài báo phản ánh: Tổng cục Thi hành án (THA) Dân sự, Bộ Tư pháp vừa có văn bản yêu cầu Cục THA Dân sự tỉnh Kiên Giang báo cáo vụ ông Nguyễn Văn Sơn, Chấp hành viên THA Dân sự huyện Kiên Lương tỉnh Kiên Giang bị tố cáo tẩu tán tài sản, nhằm né thi hành án.
Theo tố cáo của bà Nguyễn Thị Tâm, trú tại khu cư xá mới thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang: Khoảng tháng 4/2006, ông Nguyễn Văn Sơn giới thiệu và làm hợp đồng bán cho bà Tâm 7 lô đất nông nghiệp với giá 308 triệu đồng. Bà Tâm đã giao đủ tiền cho người bán là bà Phạm Thị Hiên, ở 75E Nguyễn Văn Tố, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá như thỏa thuận. Tuy nhiên, việc mua bán không thành, hai bên không thống nhất cách giải quyết nên khởi kiện ra tòa án.
Bản án phúc thẩm ngày 2/11/2007 của TAND tỉnh Kiên Giang quyết định “tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Tâm với ông Nguyễn Văn Sơn và bà Phạm Thị Hiên là vô hiệu. Buộc ông Sơn và vợ chồng bà Hiên trả cho bà Tâm số tiền 172.121.250 đồng. Trong đó, phần ông Sơn phải thanh toán cho bà Tâm là 86.060.000 đồng”. Tuy nhiên, ông Sơn đã không bị kê biên tài sản để THA đúng hạn. Ngày 18/8/2008, THA Hà Tiên ra quyết định kê biên căn nhà của ông Sơn tại 108 đường Nam Hồ, phường Tô Châu, thị xã Hà Tiên để THA. Nhưng ngày 29/9/2008, vợ chồng ông Sơn được TAND thị xã Hà Tiên cho thuận tình ly hôn và tài sản của ông Sơn đã được chuyển giao cho vợ, nhằm “né” THA.
3. Báo Diễn đàn doanh nghiệp có bài Chuyển nhượng 2 triệu cổ phần Cty Cảng Đình Vũ : VIGECAM sai luật. Bài báo phản ánh: Do khó khăn về vốn, TCty Vật tư nông nghiệp VN (Vigecam), đã đề nghị các đơn vị thành viên thuộc TCty cùng nhau góp sức, đầu tư vào cảng Đình Vũ do Vigecam đứng tên đại diện. Cty Vật tư nông sản (nay cổ phần hóa, tên Cty đổi thành Cty cổ phần Vật tư nông sản) cùng góp vốn với Vigecam. Sau đó, Vigecam có quyết định chuyển nhượng số cổ phần nói trên cho Cty cổ phần Vật tư nông sản. Tiền đã nhận, song tới nay Vigecam vẫn không chịu làm thủ tục sang tên và vẫn nắm giữ số cổ phần nói trên.
Năm 2003, Cty cổ phần cảng Đình Vũ (Cảng Đình Vũ) đóng tại Hải Phòng được thành lập. Là cổ đông góp vốn ngay từ đầu, Vigecam tham gia góp 20% vốn điều lệ, bằng 2 triệu cổ phần, trị giá 20 tỷ đồng. Ngày 23/8/2004 TGĐ Vigecam đã có Quyết định số 79 VT/TCKT/QĐ chuyển nhượng cho Cty Vật tư nông sản 10% vốn điều lệ của cảng Đình Vũ bằng 1 triệu cổ phần, tương đương 10 tỷ đồng. Số tiền 10 tỷ đồng này sau đó đã được Cty Vật tư nông sản thanh toán đủ cho Vigecam.
Đầu năm 2006 do gặp khó khăn về tài chính, Vigecam tiếp tục chào bán 1 triệu cổ phần còn lại cho các cổ đông khác của cảng Đình Vũ và các thành viên trong TCty. Vào thời điểm này, do không tìm được đối tác mua nên Vigecam đã phải vời đến cả TCty quản lý và kinh doanh vốn nhà nước song cũng bị từ chối. Cực chẳng đã, Cty Vật tư nông sản đành đứng ra nhận chuyển nhượng lại số cổ phần cảng Đình Vũ nói trên từ Vigecam. Ngày 5/6/2006, lãnh đạo Vigecam có Công văn số 185 gửi Cty Vật tư nông sản với nội dung: “Về nguyên tắc TCty đồng ý chuyển nhượng tiếp cho Cty Vật tư nông sản 10 tỷ đồng cổ phiếu theo tỷ lệ 1:1. TCty yêu cầu Cty Vật tư nông sản chuyển số tiền 10 tỷ đồng vào tài khoản của TCty trước ngày 10/6/2006...”. Việc chuyển tiền sau đó đã được Cty Vật tư nông sản hoàn tất.
Với hai lần mua và trả tổng số 20 tỷ đồng cho Vigecam, tính đến thời điểm tháng 6/2006 Cty Vật tư nông sản đã là chủ sở hữu 2 triệu cổ phần cảng Đình Vũ. Thủ tục cuối cùng là Vigecam sẽ phải làm thủ tục sang tên số cổ phần trên cho Cty Vật tư nông sản khi đã đủ thời gian 3 năm theo quy chế chuyển nhượng, thừa kế, mua lại cổ phần ban hành kèm theo Quyết định số 46/QĐ-HĐQT, ngày 12/12/2006 của Hội đồng Quản trị cảng Đình Vũ.Tuy nhiên, thời hạn 3 năm đã qua song phía Vigecam không chịu chuyển nhượng 2 triệu cổ phần trên cho dù Cty Vật tư nông sản đã nhiều lần đề nghị bằng văn bản và đối thoại trực tiếp. Sự việc sau đó buộc phải nhờ đến sự phân xử của Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Á Châu (ACIAC).
Ngày 14/9/2007 ACIAC mở phiên họp và quyết định: “Công nhận việc chuyển nhượng 2.000.000 cổ phần trị giá 20 tỷ đồng tại Cty cổ phần đầu tư và phát triển cảng Đình Vũ giữa TCty Vật tư nông nghiệp và Cty cổ phần Vật tư nông sản (lúc này Cty vật tư nông sản đã được cổ phần hoá) ; Cty cổ phần Vật tư nông sản được quyền góp vốn đợt 2 là 1.400.000 cổ phần trị giá 14 tỷ đồng tại Cty cổ phần Đầu tư và phát triển cảng Đình Vũ; Cty cổ phần Vật tư nông sản được quyền góp vốn đợt ba 3.400.000 cổ phần là 3.400 cổ phần trị giá 3,4 tỷ đồng theo nghị quyết Hội đồng Quản trị của Cty cổ phần Đầu tư và phát triển cảng Đình Vũ. Cuối cùng, Cty cổ phần Vật tư nông sản được hưởng tỷ lệ cổ tức 5% của năm 2006 của 2.000.000 cổ phần trị giá 20 tỷ đồng với số tiền là 1 tỷ đồng”.Những quyết định trên đã vấp phải sự phản ứng của Vigecam và họ yêu cầu các cấp toà phải huỷ quyết định trên của ACIAC .
Ngày 19/12/2008 Toà phúc thẩm, Toà án nhân dân tối cao đã mở phiên xét xử phúc thẩm vụ việc này. Tại phiên toà Hội đồng xét xử ra phán quyết: “Bác yêu cầu huỷ quyết định Trọng tài của TCty Vật tư nông nghiệp; Quyết định Trọng tài thương mại số 119/QĐ-HĐTT ngày 14/9/2007 của Trung tâm Trọng tài thương mại quốc tế Á Châu không bị huỷ và có hiệu lực pháp luật...”. Thế nhưng, phía Vigecam vẫn không thực hiện ngay bản án, trì hoãn việc chuyển nhượng cổ phần cho Cty cổ phần vật tư nông sản. Quý IV/2009, cảng Đình Vũ làm thủ tục lên sàn giao dịch cổ phiếu, Vigecam không những không thông báo cho Cty cổ phần Vật tư nông sản biết mà còn đơn phương tiếp tục làm thủ tục đứng tên để niêm yết toàn bộ 3.740.000 cổ phiếu của cảng Đình Vũ. Nhẽ ra việc đứng tên này phải thuộc về Cty cổ phần Vật tư nông sản mới đúng. Mặc dù, trong bản án của Toà phúc thẩm TAND tối cao khẳng định: “ Quyết định của Toà phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành”. Còn phía Vigecam vẫn viện lý do vì mình là DN nhà nước nên phải báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu DN nhà nước và các cơ quan liên quan cho ý kiến chỉ đạo.
Trong buổi làm việc với Thứ trưởng Bộ NN-PTNT - ông Diệp Kỉnh Tần mới đây cho biết, Bộ không can thiệp vào việc của DN, vụ việc không thuộc quản lý nhà nước và mọi việc phải tuân thủ theo pháp luật. Lý do chờ Bộ chỉ đạo mà Vigecam đưa ra hoàn toàn thiếu căn cứ pháp lý song ý kiến của Bộ NN-PTNT cũng đã rõ. Thiết nghĩ Vigecam cần tuân thủ luật pháp vì bản án của Toà phúc thẩm, Toà án nhân dân tối cao đã có hiệu lực cần được thi hành ngay.
4. Báo Lao động có bài Điều đáng lo. Bài báo phản ánh: Những phản biện từ dân chúng trước các chính sách, quy định của Nhà nước, chính quyền các địa phương và các bộ ngành đã có được sự lắng nghe. Đây là một tín hiệu tốt lành của đất nước.
Tuần qua, các báo lên tiếng phản biện dự thảo thông tư của Bộ GDĐT quy định “trường ngoài công lập không được mở các ngành đào tạo sư phạm, luật và báo chí”. Nhiều ý kiến phân tích đây là một dạng phân biệt đối xử trong giáo dục đào tạo. Ngay lập tức, trong phiên bản dự thảo thông tư trên, quy định không được mở các ngành báo chí, luật và sư phạm đã được gỡ bỏ. Bộ GDĐT cho rằng đây là một sự nhầm lẫn đáng tiếc do lỗi mang tính kỹ thuật chứ không phải chủ trương của bộ. Dù vì lý do gì, nhưng thấy được điều chưa phù hợp và kịp thời sửa chữa cũng là phúc cho dân lắm rồi.
Cũng dịp tết năm nay, các nhà biên soạn Luật Thủ đô đã lắng nghe tiếng nói từ dân chúng, gỡ bỏ các quy định về hạn chế nhập cư, xin cho trong tìm kiếm việc làm. Sự điều chỉnh kịp thời đó đã làm dân chúng hài lòng. Các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp biết tôn trọng tiếng nói từ phía người dân thì chắc chắn các chính sách, quy định được ban hành sẽ có chất lượng. Tuy nhiên, có một điều rất đáng lo ngại, đó là tại sao lại có quá nhiều quy định trong các dự thảo luật non kém về tính pháp lý và tính thực tiễn đến thế. Làm gì cũng có điều chưa chuẩn xác và cần có thời gian và sự đóng góp ý kiến để điều chỉnh. Nhưng có những cái sai quá sơ đẳng, chứng tỏ tầm nhìn hạn hẹp, không xứng đáng với trọng trách của người sơ đẳng làm việc lớn cho đất nước.
Lối tư duy bao cấp, lạc hậu, đã từng làm chậm sự phát triển của đất nước lại được vận dụng để áp đặt vào các quy định cho xã hội hôm nay quả là điều khó chấp nhận. Đến thời đại này mà còn tính toán ngăn nhập cư bằng hộ khẩu, phân biệt đối xử giữa trường công lập và ngoài công lập thì liệu có xứng tầm là người có trách nhiệm hoạch định các chính sách, chiến lược thuộc nhiều lĩnh vực quan trọng hay không? Vì còn những tư duy như vậy nên nhiều lĩnh vực địa phương sức bật chưa mạnh mẽ tương xứng với tiềm năng. Có người chưa đủ tầm nhưng còn biết lắng nghe, nhiều việc được sửa đổi cho phù hợp. Nhưng cũng có nhiều người không như thế, đó mới là điều đáng lo.