Trong buổi sáng ngày 22/4/2010, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Theo TTXVN, Việt Nam đã yêu cầu Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thành lập Ban hội thẩm xem xét khiếu kiện của Việt Nam về việc Mỹ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với tôm nhập khẩu từ Việt Nam.
Đại sứ Vũ Dũng, Trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam nêu rõ: Đây là lần đầu tiên Việt Nam yêu cầu thành lập Ban hội thẩm kể từ khi gia nhập WTO và việc này đã được cân nhắc kỹ lưỡng và tham vấn với phía Mỹ. Đại sứ Vũ Dũng cho rằng, Mỹ có một loạt các việc làm không phù hợp với nghĩa vụ của Mỹ theo Hiệp định chống bán phá giá và các hiệp định khung khác của WTO. Theo đó, bao gồm việc sử dụng phương pháp “quy về không” trong các cuộc rà soát hành chính áp dụng đối với các sản phẩm tôm của Việt Nam; tiến hành 2 hành động ngăn cản việc chấm dứt áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và áp dụng “mức thuế toàn quốc” trái với tinh thần và lời lẽ của Hiệp định chống bán phá giá và Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam…
Sau khi Việt Nam yêu cầu tham vấn với Mỹ về các biện pháp chống bán phá giá do Mỹ áp dụng đối với một số sản phẩm tôm nhập khẩu từ Việt Nam ngày 1-2-2010, 2 bên đã tiến hành tham vấn vào ngày 23-3-2010 tại Geneva, Thụy Sĩ. Tuy nhiên, 2 bên không đạt được giải pháp chung cho các vấn đề tranh chấp. Vì vậy, Việt Nam đề nghị Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO thành lập một Ban hội thẩm theo các quy định của WTO để xem xét vấn đề này.
Báo cũng phản ánh: Từ ngày 21/4 đến 1/5, tại Trung tâm triển lãm Vân Hồ, số 2 phố Hoa Lư, Hà Nội, Bộ Xây dựng phối hợp với Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức triển lãm đồ án “Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050” nhằm lấy ý kiến nhân dân về đồ án quan trọng này.
Ngay trong ngày khai mạc, Ban tổ chức đã phát ra hàng trăm phiếu lấy ý kiến đóng góp nhanh cho các khách vào tham quan. Các vấn đề xin ý kiến tập trung vào một số nội dung như định hướng phát triển quy hoạch tổng thể Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050 có phù hợp không; định hướng di dời một số trường đại học, cao đẳng, cơ sở công nghiệp, y tế ra khỏi nội đô; các giải pháp quy hoạch phát triển giao thông cho Thủ đô Hà Nội trong tương lai.
Quy hoạch chung xây dựng Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được kỳ vọng sẽ đưa đô thị Hà Nội phát triển bền vững theo mô hình kết nối mạng đa cực, đa trung tâm, đa tầng bậc. Thủ đô sẽ gồm đô thị trung tâm hạt nhân được giới hạn từ đô thị lõi mà chủ yếu là khu phố cổ, phố cũ đến tuyến đường vành đai 4 - phía Tây và phía Bắc sông Hồng đến khu vực Mê Linh, Đông Anh, Gia Lâm. Cùng đó là năm đô thị vệ tinh được xác định là Hòa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên - Phú Minh và Sóc Sơn. Ngoài ra, Hà Nội còn có nhiều đô thị sinh thái, thị trấn hiện hữu khác.
2. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Tối 21-4, tin từ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Bình Dương cho hay có một vụ cài chất nổ trong nhà xe một cán bộ. Hiện cơ quan công an đang vào cuộc điều tra làm rõ. Được biết, vào rạng sáng ngày 19-4, người nhà của ông Đỗ Văn Công (nguyên bí thư huyện ủy Tân Uyên; nay là bí thư Đảng ủy khối Dân chính Đảng Bình Dương) đã phát hiện một quả mìn tự chế trên một chiếc xe tải. Cùng thời điểm này, người nhà ông Công còn phát hiện thêm một quả mìn tự chế được đặt dưới bánh một xe du lịch 7 chỗ đã phát nổ.
Nhận được tin báo, các cơ quan chức năng đã đến ngay hiện trường để xem xét, điều tra vụ việc. Kết quả ban đầu cho thấy quả mìn tự tạo chưa nổ dạng hình trụ được làm bắng giấy có đường kính 40mm, thuốc nổ bên trong có trọng lượng 200g, được xác định là thuốc nổ công nghiệp. Quả mìn tự tạo này được kết nối với một điện thoại di động để kích ngòi nổ. Khi kiểm tra chiếc điện thoại này, cơ quan chức năng đã phát hiện có bốn cuộc gọi nhỡ. Theo nhận định, số máy gọi vào là do kẻ cài đặt gọi để kích hoạt cho nổ quả thứ hai nhưng không thành. Quả mìn tự tạo này đã được lực lượng chức năng tháo gỡ an toàn.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Ngày 21-4, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã họp toàn thể, thẩm tra dự án Luật Tố tụng hành chính.
Với tính chất phức tạp của các khiếu kiện hành chính - một bên là cá nhân, tổ chức còn bên kia là cơ quan nhà nước nên việc ban hành một đạo luật về tố tụng hành chính được các đại biểu đồng tình nhằm bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích chính đáng của người dân. Theo dự thảo Luật Tố tụng hành chính, tòa án có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành chính, ngoại trừ các quyết định thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo danh mục Chính phủ quy định và các hành vi hành chính mang tính chất nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước. Về vấn đề này, các thành viên của Ủy ban Tư pháp đề nghị, cơ quan soạn thảo cần giải thích rõ khái niệm các hành vi ''mang tính chất nội bộ'' của cơ quan hành chính để không gây hiểu nhầm trong quá trình áp dụng pháp luật.
Cùng ngày, phiên họp toàn thể lần thứ 11 của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội để thảo luận về kết quả triển khai một số luật, dự án luật chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XII tới đã diễn ra tại TP Hồ Chí Minh. Đáng lưu ý là sau khi nghe báo cáo về tình hình triển khai Luật Bình đẳng giới năm 2009 và phương hướng mục tiêu năm 2010, các thành viên Ủy ban đã kiến nghị một số vấn đề cần làm rõ, nhất là đầu tư nguồn lực cho bình đẳng giới và việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật và các dự án phát triển kinh tế - xã hội.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Cơ quan Điều tra Viện KSND tối cao yêu cầu làm rõ: Trốn thi hành án nhờ chấp hành viên. Bài báo phản ánh: Công ty TNHH thương mại và dịch vụ Trung Nam I (Cty Trung Nam I) văn phòng đặt tại 129 Lê Hồng Phong, P3Q5, TPHCM, do bà Nguyễn Thị Lài làm giám đốc, ký hợp đồng mua bột mì của Công ty lương thực và nông sản xuất khẩu Thái Bình Dương (Cty Thái Bình Dương). Với lý do không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán, Cty Thái Bình Dương kiện Cty Trung Nam I ra tòa.
Với hai bản án số 42/PTKT ngày 6-9-2001 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM và số 976/DSPT ngày 18-6-2003 của TAND TPHCM, Cty Trung Nam I phải trả nợ cho Cty Thái Bình Dương 5,313 tỷ đồng. Ngày 24-9-2001, quyền Trưởng phòng thi hành án (nay là Cục thi hành án) dân sự TP Lương Vĩnh Phúc ký quyết định (QĐ) cho thi hành án đối với bản án 42/PTKT (bản án 976/DSPT do thi hành án Q5 tổ chức thực hiện). Bốn tháng sau, ngày 30-1-2002, ông Phúc ký QĐ hoãn thi hành án. Đến ngày 8-5-2002, ông Phúc lại ký QĐ tiếp tục thi hành án! Từ cuối tháng 7-2002 đến tháng 7-2003, chấp hành viên Bùi Đức Dương ký hàng loạt QĐ cưỡng chế, tổ chức kê biên, bán căn nhà 129 Lê Hồng Phong, P3Q5 để thi hành án. Mãi đến ngày 5-12-2005, ông Dương nối bước “sếp” ký văn bản giải tỏa kê biên nhà 129 Lê Hồng Phong, P3Q5 theo ý kiến chỉ đạo của Cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (?).
Giám đốc Cty Thái Bình Dương Diệp Thị Kim Mai liên tục có đơn khiếu nại. Ngày 10-5-2006, liên ngành tư pháp TP có cuộc họp thống nhất chỉ đạo: Cơ quan thi hành án tiếp tục xác minh, truy tìm tài sản của Cty Trung Nam I; xác định vốn điều lệ của công ty là bao nhiêu cũng như từng thành viên góp vốn để buộc có trách nhiệm trả nợ cho Cty Thái Bình Dương... Sự việc nhùng nhằng đến giữa năm 2008 vẫn dậm chân tại chỗ buộc bà Diệp Thị Kim Mai phải lên tiếng. Trong đơn tố cáo, bà Mai đề nghị làm rõ trách nhiệm của chấp hành viên lợi dụng chức quyền cố tình trì hoãn, kéo dài thời gian thi hành án, có dấu hiệu tiêu cực.
Tiếp nhận đơn của bà Mai, ngày 7-8-2008 Phó viện trưởng Viện KSNDTP Hồ Thị Phấn ký văn bản số 824/VKS-P10 gởi Trưởng thi hành án dân sự TP kiểm tra chỉ đạo việc thi hành án. Viện KSNDTP yêu cầu thi hành án Q5 chuyển hồ sơ việc thi hành bản án 976/DSPT cho thi hành án dân sự TP thực hiện. Cả hai bản án được gom về một mối, do thi hành án dân sự TP tổ chức thi hành án. Văn bản số 824/VKS - P10 xác định rõ: “Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, Cty Trung Nam I vẫn hoạt động và có điều kiện để thi hành án nhưng giám đốc Nguyễn Thị Lài và con là Mã Văn Lộc (thành viên Cty) đã cố tình không thi hành án, tẩu tán tài sản”. Viện phó Hồ Thị Phấn nhấn mạnh: “Nếu Cty Trung Nam chống đối, cản trở việc thi hành án thì củng cố chặt chẽ hồ sơ để cưỡng chế thi hành án theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự”.
Liên quan đến sai phạm của chấp hành viên, Văn bản số 824/VKS-P10 nêu rõ: “Chấp hành viên không tiến hành xác minh tài sản và hoạt động của Cty Trung Nam I để áp dụng các biện pháp thi hành án mà lại báo cáo Cty Trung Nam I ngưng hoạt động và không còn tài sản. Chấp hành viên tạo điều kiện cho Cty này có đủ thời gian để tẩu tán tài sản, trốn tránh việc thi hành án dẫn đến việc thi hành án kéo dài từ tháng 6-2001 đến nay vẫn chưa thi hành được”. Viện KSNDTP khẳng định: “Chấp hành viên đã làm trái chỉ đạo của lãnh đạo hai ngành, tiến hành trả giấy tờ nhà cho bà Lài, ông Lộc, vi phạm điều 14 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004”. Viện KSNDTP đề nghị Trưởng thi hành án dân sự TP: “Kiểm điểm trách nhiệm của chấp hành viên; chuyển hồ sơ cho chấp hành viên khác có năng lực, trách nhiệm để tổ chức dứt điểm việc thi hành án”.
Ngày 6-8-2008 Cơ quan điều tra - Viện KSND tối cáo có văn bản gởi Viện KSNDTP đề nghị làm rõ nội dung đơn của bà Kim Mai tố cáo chấp hành viên thi hành án dân sự TP Trần Bá Ngọc. Viện KSNDTP đã có văn bản phúc đáp ngày 21-8-2008 nêu rõ những sai trái của chấp hành viên Ngọc.
Vụ việc tưởng đã khơi thông, nào ngờ lại bị kéo dài thêm hơn một năm nữa vẫn không thấy nhúc nhích! Giám đốc Kim Mai lại làm đơn kêu cứu. Ngày 27-10-2009, Viện KSNDTP có văn bản 865/VKS-P10 xin ý kiến chỉ đạo của Viện KSND tối cao để giải quyết dứt điểm vụ việc. Sau khi tóm tắt quá trình thi hành án kéo dài suốt hơn 8 năm, văn bản 865/VKS-P10 nêu rõ: “Để việc thi hành án đúng theo quy định của pháp luật, Viện KSNDTP đã có văn bản 824/VKS - P10 gởi Trưởng thi hành án dân sự TP. Tuy nhiên từ khi ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp kê biên quyền sử dụng lô đất 4.721m2 và nhà xuởng tại 7/6 ấp Xuân Thới Đông 1, xã Xuân Thới Sơn, huyện Hóc Môn đến nay, chấp hành viên không áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án được vì những chỉ đạo chưa đúng quy định của Cục thi hành án - Bộ Tư pháp và lãnh đạo thi hành án dân sự TP”. Theo quan điểm của Viện KSNDTP, cần thiết phải áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên đối với lô đất và nhà xưởng nêu trên của Cty Trung Nam I. Nếu bên phải thi hành án cản trở, chống đối việc thi hành án thì đề nghị khởi tố về tội không chấp hành án theo quy định tại Điều 304, Bộ luật Hình sự.
Giám đốc Kim Mai rất mừng trước sự kiên quyết xử lý vụ việc theo đúng quy định pháp luật của Viện KSNDTP. Tuy nhiên, chờ dài cổ gần nửa năm qua, vẫn chưa thấy động tĩnh gì nên bà Mai lại làm đơn kêu cứu...
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Sửa Hiến pháp để Kiểm toán Nhà nước độc lập hơn. Bài báo phản ánh: Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa ban hành nghị quyết về Chiến lược phát triển Kiểm toán Nhà nước (KTNN) tới 2020. Theo đó, sẽ nghiên cứu, bổ sung vào Hiến pháp những nội dung cơ bản về vị trí pháp lý, tính độc lập của KTNN.
Các luật liên quan như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ phần liên quan đến KTNN cũng sẽ được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng khẳng định KTNN là “cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và “Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm tổng kiểm toán Nhà nước”. Mục tiêu của chiến lược này là xây dựng KTNN thành công cụ hữu hiệu của nhà nước trong kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng ngân sách, tài sản nhà nước, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Hiện KTNN hoạt động theo Luật Kiểm toán nhà nước, khá độc lập nhưng chưa được khẳng định vị thế trong Hiến pháp.
3. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài Việt kiều: Nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài?. Bài báo phản ánh: Địa vị pháp lý của Việt kiều trong quá trình về nước đầu tư, kinh doanh vẫn là một câu hỏi chưa có giải đáp rõ ràng. Các nhà đầu tư than phiền rằng chính sự tù mù này đang trở thành vật cản trên con đường họ trở về làm ăn tại quê nhà.
Tiến sĩ Nguyễn Vân Nam, Việt kiều Đức, kể cách đây vài tháng ông cùng một số bạn bè trong nước dự kiến mở một công ty dịch vụ tin học tại TPHCM. Thế nhưng, sau năm lần đi lại liên hệ với sở kế hoạch và đầu tư mong muốn của ông vẫn không thể trở thành hiện thực. Chán nản và thất vọng, ông và các bạn ông đành bỏ cuộc. Trên đây chỉ là một trong số nhiều trường hợp mà Việt kiều gặp phải trong quá trình về nước đầu tư kể từ sau khi Luật Đầu tư có hiệu lực vào 1-7-2006, và đặc biệt trong thời gian gần đây. Trước đó, theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, ngoài một số ưu đãi (thuế, đất đai...) Việt kiều còn được đối xử giống như công dân trong nước trong thủ tục đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Điều 7, Luật Quốc tịch quy định rõ: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước...”. Tuy nhiên, sau khi Luật Khuyến khích đầu tư trong nước bị bãi bỏ bởi Luật Đầu tư thì địa vị pháp lý của nhà đầu tư Việt kiều rơi vào cảnh tù mù vì không có một văn bản pháp luật nào xác định cụ thể. Xem họ như nhà đầu tư trong nước, có sở kế hoạch và đầu tư chỉ yêu cầu họ thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh khi tiến hành đầu tư tại Việt Nam. Ngược lại, có nơi lại bắt buộc họ phải làm thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư như nhà đầu tư nước ngoài.
Tình trạng không rõ ràng này kéo dài cho đến ngày 18-6-2009 sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 88/2009/QĐ-TTg. Trong đó có đưa ra định nghĩa “cá nhân nước ngoài là người không mang quốc tịch Việt Nam, cư trú tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam”. Trước đó, tại Quyết định số 121/2008/QĐ-BTC ngày 24-12-2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, cá nhân nhà đầu tư nước ngoài lại được quy định “là người có quốc tịch nước ngoài, cư trú tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam, bao gồm cả người gốc Việt Nam có quốc tịch nước ngoài”. Một số sở kế hoạch và đầu tư đã coi những quy định này như “phao cứu sinh” để làm cơ sở khi giải quyết thủ tục đầu tư đối với Việt kiều. Tức là Việt kiều sẽ được xem là nhà đầu tư nước ngoài khi không còn quốc tịch Việt Nam hoặc có quốc tịch nước ngoài. Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh là phạm vi áp dụng của những văn bản trên lại có phần hạn hẹp, ví dụ Quyết định 88/2009/QĐ-TTg chỉ liên quan đến việc góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam, còn Quyết định 121/2008/QĐ-BTC lại điều chỉnh về hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Do không có luật lệ rõ ràng, có nơi như Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM phải “cầu cứu” đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Phải mất hai tháng sau, ngày 3-7-2009 cơ quan này mới phúc đáp bằng Công văn số 4861/BKH-PC nhằm “chữa cháy” cho việc giải quyết các trường hợp Việt kiều đầu tư tại Việt Nam. Đáng nói ở đây là Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã căn cứ vào khoản 5, điều 3 Luật Đầu tư - một điều khoản gần như không ăn nhập gì để đưa ra hướng dẫn như sau: a. Trường hợp nhà đầu tư không còn quốc tịch Việt Nam thì áp dụng như đối với nhà đầu tư nước ngoài; b. Trường hợp nhà đầu tư còn quốc tịch Việt Nam thì cho họ lựa chọn được đối xử như nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài.
Tại công văn nói trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng thừa nhận đây chỉ là hướng dẫn tạm thời trong lúc chưa có quy định mới. Dù vậy, văn bản hướng dẫn này cũng vẫn chưa rõ ràng vì không đưa ra được những tiêu chí rõ ràng, cụ thể để xác định thế nào là Việt kiều “không còn quốc tịch Việt Nam” và thế nào là “còn quốc tịch Việt Nam”; cần phải có những giấy tờ gì chứng minh... Tình trạng mỗi nơi yêu cầu mỗi kiểu tiếp tục diễn ra, tiếp tục gây rắc rối cho các nhà đầu tư. Không chỉ các Việt kiều mới về đầu tư gặp rắc rối mà các doanh nghiệp do Việt kiều thành lập theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước trước đây cũng bị vạ lây. Luật sư Trần Thanh Tùng, Công ty Luật P&P, kể có doanh nghiệp tương tự tại Vĩnh Long muốn mở một công ty để thực hiện một dự án đầu tư cũng đành chịu vì bị sở kế hoạch và đầu tư liệt vào diện nhà đầu tư nước ngoài và do đó bắt buộc phải lập dự án, xin giấy chứng nhận đầu tư như đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, theo TS. Nguyễn Quốc Vinh, giảng viên Học viện Tư pháp, có một trường hợp tương tự ở Đồng Nai lại được chấp nhận đối xử như doanh nghiệp trong nước khi họ tiến hành thủ tục mua cổ phần của một doanh nghiệp Việt Nam.
So với nhà đầu tư trong nước thì rõ ràng việc xem doanh nghiệp do Việt kiều thành lập theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước trước đây như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là bất lợi hơn rất nhiều. “Nếu là nhà đầu tư trong nước thì họ chỉ cần thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh với thời gian 5-7 ngày. Thế nhưng, thủ tục đối với nhà đầu tư nước ngoài từ việc xin chấp thuận chủ trương đến thuê đất, cấp giấy chứng nhận đầu tư... có khi phải mất nhiều tháng hoặc cả năm trời. Hoặc nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì hàng năm phải có báo cáo kiểm toán, ngược lại doanh nghiệp trong nước thì không yêu cầu”, luật sư Tùng phân tích. Vì vậy, theo ông Tùng, để tránh nhập nhằng gây khó khăn, bất lợi cho nhà đầu tư, Nhà nước nên có văn bản quy định rõ địa vị pháp lý đối với số doanh nghiệp do Việt kiều thành lập trước đây theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Cần phải làm rõ họ là doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài?