I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Thanh niên phản ánh: Báo cáo về tương lai năng lượng bền vững của Đông Á do Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 19.4 nhận định, nếu VN tiếp tục phát triển ngành năng lượng theo hướng hiện tại thì đến năm 2030, VN sẽ chuyển từ một nước xuất khẩu năng lượng sang nước nhập khẩu năng lượng.
Trong suốt thập kỷ qua, VN đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng, làm nhu cầu năng lượng tăng hơn 2 lần và dự kiến có thể tăng gấp đôi trong 10 năm nữa nếu VN tiếp tục tăng trưởng kinh tế ngoạn mục như hiện nay. Theo WB, VN là một trong 10 quốc gia dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu nhất, do một nửa dân số sống dọc vùng duyên hải và tại ĐBSCL.
Về những nỗ lực phát triển năng lượng bền vững, WB đánh giá cao VN vì trong vòng 10 năm qua đã giảm được 2% cường độ sử dụng năng lượng mỗi năm; chương trình 1 triệu đèn huỳnh quang compact đã làm giảm nhu cầu về năng lượng ở mức đỉnh điểm xuống 30 MW... WB cho rằng, VN cần đưa ra những chính sách để khuyến khích sản xuất điện bằng các nguồn năng lượng tái chế ít tốn kém và sử dụng khí tự nhiên.
Ngoài các nhà máy thủy điện công suất lớn chiếm 26% công suất điện hiện tại, VN dự kiến sản xuất 5% công suất điện từ các nguồn năng lượng tái sinh mới vào năm 2020. VN có nguồn tài nguyên và lượng dự trữ khí lớn. Cho nên, bằng các chính sách và quy chế định giá ưu đãi, sản xuất và tiêu thụ khí sẽ tăng đáng kể và đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu năng lượng của đất nước trong hai thập kỷ tới.
2. Báo Hà Nội mới phản ánh: Sáng 19-4, trước khi bế mạc phiên họp thứ 30, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã cho ý kiến về dự thảo Luật Thi hành án hình sự. Đáng lưu ý là mặc dù đã kéo dài thời gian thảo luận nhưng nội dung thi hành án tử hình như thế nào vẫn nhận được các ý kiến khác nhau.
Chủ nhiệm UB Tư pháp của QH Lê Thị Thu Ba đề nghị trình QH hai phương án để xem xét, quyết định. Theo đó, phương án 1 thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc. Quy trình thực hiện do Chính phủ quy định. Để có thời gian chuẩn bị, dự luật quy định việc áp dụng hình thức thi hành án bằng tiêm thuốc độc được thực hiện sau một năm kể từ ngày luật có hiệu lực. Trong thời gian chưa áp dụng hình thức tiêm thuốc độc, việc thi hành án tử hình vẫn được thực hiện bằng hình thức xử bắn theo quy định hiện hành. Phương án 2 vẫn là thi hành án tử hình bằng xử bắn như hiện nay.
Như vậy, sau 7 ngày họp, UBTVQH đã cho ý kiến vào giám sát chuyên đề việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương trình 135 giai đoạn II (2006-2010); việc quản lý, lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án liên quan trực tiếp đến xóa đói giảm nghèo trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn; thực hiện chính sách pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo với giáo dục đại học; phương án phân bổ nguồn tăng thu ngân sách nhà nước năm 2009; chủ trương đầu tư dự án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội - TP Hồ Chí Minh. Các dự án luật còn có nhiều ý kiến khác nhau như: Công đoàn (sửa đổi); Viên chức; Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; Bộ luật Lao động (sửa đổi); Thi hành án hình sự; An toàn thực phẩm; Thanh tra (sửa đổi); Trọng tài thương mại; Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, người khuyết tật cũng được các ủy viên thẩm tra, đưa ra thảo luận.
Báo cũng phản ánh: Thời gian qua, TP Hà Nội đã triển khai các dự án ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) hỗ trợ hoạt động cải cách hành chính (CCHC). Cùng với việc 12 sở, ngành, quận, huyện tham gia thí điểm xây dựng trang tin tích hợp trên cổng giao tiếp điện tử Hà Nội, hầu hết các đơn vị đã có website hoặc chủ động tham gia trang tin điện tử. Tuy nhiên, khảo sát mới đây của Sở TT&TT Hà Nội tại 54 đơn vị (25 sở, ngành và 29 đơn vị quận, huyện, thị xã), trên 6 nhóm lĩnh vực: tin tức, thông báo; hệ thống văn bản pháp luật; thủ tục hành chính (TTHC) công; dịch vụ công trực tuyến; tính tương tác; hình thức, giao diện cho thấy, chất lượng trang web, trang tin điện tử giữa các đơn vị chưa đồng đều và không ít đơn vị chỉ để các trang này tồn tại chứ không cập nhật, cung cấp thông tin kịp thời cho người dân. Cụ thể, trong việc cập nhật tin tức, thông báo hoạt động của đơn vị trên trang tin, có tới 50% đơn vị chậm trễ trong việc đăng tin bài hoạt động của đơn vị; 20% đơn vị không cập nhật thông tin hoặc đường truyền thường xuyên bị lỗi và chỉ có hơn 20% cập nhật tin tức đều đặn. Về lĩnh vực hệ thống văn bản pháp luật cũng chỉ có 5% đơn vị cập nhật và 45% đơn vị cập nhật không đều và 30% còn lại không cập nhật.
Đặc biệt, lĩnh vực TTHC công là nội dung thiết thực đối với công dân, phục vụ trực tiếp quá trình CCHC vẫn có tới 60% đơn vị không thực hiện... Vì thế, nhiều trang web và trang tin điện tử của các sở, quận, huyện được quảng bá rầm rộ khi mới khai trương nhưng đến nay đã làm người dân thất vọng vì lần nào truy cập cũng phải chờ đợi khá lâu do đơn vị chưa xây dựng được chức năng tìm kiếm dữ liệu thông minh; chỉ thấy báo cáo định kỳ hoạt động của đơn vị từ nhiều tháng trước, thậm chí từ năm trước; và cũng không thực hiện được tính năng điện tử khi không tiếp nhận và phản hồi thông tin.
Các đơn vị đưa ra nhiều lý do giải thích cho việc chậm trễ thông tin hoặc không cập nhật thông tin như hệ thống CNTT không đồng bộ, lỗi thời; thiếu cán bộ có chuyên môn giỏi, điều kiện tài chính... Nhưng chung quy, có thể thấy lỗi chủ yếu do lãnh đạo đơn vị chưa quan tâm đúng mức, chưa nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc duy trì, cập nhật thông tin lên mạng nên không bố trí nhân lực, không sát sao chỉ đạo cán bộ chuyên môn...
Theo kế hoạch của thành phố, cuối năm 2010 sẽ hoàn thành cung cấp dịch vụ công của sở, ngành, quận, huyện, thị xã ở mức 2 (cung cấp biểu mẫu điện tử) và cung cấp 10 dịch vụ công mức 3 (tiếp nhận biểu mẫu điện tử) trên cổng giao tiếp điện tử Hà Nội và trang tin của các đơn vị, nhằm tạo thuận lợi cho công dân khi giao dịch với chính quyền. Để thực hiện được điều này, các đơn vị cần nhanh chóng đổi mới tư duy, bố trí nhân sự, chấn chỉnh cách làm việc của cán bộ để trang web, trang tin của đơn vị mình hoạt động hiệu quả, thực sự là cầu nối điện tử giữa chính quyền với nhân dân.
3. Báo Nhân dân phản ánh: Ngày 14-4, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã ký ban hành Kết luận số 69-KL/T.Ư của Ban Bí thư về Tiếp tục thực hiện Quy định 54-QÐ/T.Ư ngày 12-5-1999 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về chế độ học tập lý luận chính trị trong Ðảng.
Kết luận nêu rõ, qua 10 năm thực hiện Quy định của Bộ Chính trị (khóa VIII), việc học tập lý luận chính trị trong Ðảng đã đạt được một số thành tựu quan trọng, nhưng cũng còn những yếu kém cần tập trung khắc phục. Theo đó, Ban Bí thư yêu cầu cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm: Tiếp tục quán triệt Quy định 54-QÐ/T.Ư của Bộ Chính trị (khóa VIII), nâng cao nhận thức của cấp ủy các cấp và của mỗi cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí của công tác giáo dục lý luận chính trị; phối hợp chặt chẽ công tác tuyên truyền, công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng để thực hiện nghiêm túc chế độ học tập và chất lượng học tập lý luận trong Ðảng, khắc phục những hạn chế, nhất là tình trạng chạy theo bằng cấp trong học tập lý luận chính trị. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, giảm thời lượng, chú trọng tính hiệu quả, cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy, nghiên cứu, học tập.
...Ðẩy mạnh công tác kiểm tra, đôn đốc, công tác khảo sát, đánh giá việc giảng dạy, nghiên cứu, học tập lý luận chính trị; tăng cường vai trò chủ động của các ngành, địa phương, đơn vị trong việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường đầu tư xây dựng, trang bị cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện giảng dạy, nghiên cứu, học tập, sinh hoạt và kinh phí mở lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, đặc biệt là ở các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Ðiều chỉnh bổ sung chế độ, chính sách đối với người dạy và người học phù hợp với điều kiện hiện nay, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa và đối tượng đảng viên đi học không phải công chức, viên chức, không được hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Kết luận của Ban Bí thư cũng nêu rõ nhiệm vụ của các ban Ðảng ở Trung ương, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tiếp tục phối hợp thực hiện Quy định của Bộ Chính trị (khóa VIII) về chế độ học tập lý luận chính trị trong Ðảng.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Ngày 19-4, tin từ cơ quan Công an quận Hoàn Kiếm (Hà Nội) cho biết vừa khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại hai ngôi nhà 88 Cầu Gỗ và 29 Hàng Vôi (quận Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Theo cơ quan công an, Hà Thùy Linh (ngụ quận Hai Bà Trưng) mạo danh là giám đốc Công ty luật Sài Gòn bàn với chủ hộ 29 phố Hàng Vôi thế chấp giấy đỏ để vay vốn ngân hàng. Sau khi chủ nhà này giao giấy đỏ, Linh đã làm giả giấy đỏ để chuyển nhượng ngôi nhà này cho mình (có chứng thực của Văn phòng công chứng Việt Tín) rồi bán cho người khác với giá 11,5 tỉ đồng. Cũng với thủ đoạn trên, Linh chuyển nhượng trót lọt ngôi nhà 88 Cầu Gỗ lấy 3,5 tỉ đồng. Đến nay cơ quan công an đã nhận được trên 10 đơn tố cáo Linh lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn tương tự. Hầu hết các giấy tờ giả mà Linh sử dụng để lừa đảo đều liên quan đến Văn phòng công chứng Việt Tín. Hiện Linh đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú.
2. Báo Đầu tư và chứng khoán có bài Hệ lụy từ những văn bản “phạm quy”. Bài báo phản ánh: Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của Bộ Tư pháp vừa có công văn gửi Bộ Xây dựng thông báo kiểm tra Công văn số 03/BXD-PTĐT ngày 26/3/2010 vì không đảm bảo tính hợp pháp. Một chuyên viên của Bộ Xây dựng nhận định, khả năng công văn này bị thu hồi là rất cao và hệ lụy mà nó gây ra cho DN rất phức tạp.
Sự việc bắt đầu từ ngày 26/3/2010 vừa qua, khi Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) có Công văn số 03 hướng dẫn cho Công ty TNHH Gamuda Land Việt Nam thực hiện Thông tư số 04/2006/TT-BXD ngày 18/8/2006 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện Quy chế khu đô thị mới ban hành kèm theo Nghị định số 02/2006/NĐ-CP ngày 5/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế khu đô thị mới. Tại công văn này, Cục Phát triển đô thị hướng dẫn: “Thời điểm đầu tiên chủ đầu tư được phép huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở trong dự án khu đô thị mới nêu trên thông qua hợp đồng giữa bên bán và bên mua là sau khi dự án đã được UBND TP. Hà Nội cho phép đầu tư và chủ đầu tư đã giải phóng mặt bằng, bắt đầu triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật theo giai đoạn đầu tư được xác định trong giấy phép đầu tư”.
17 ngày sau (12/4/2010), Cục Kiểm tra VBQPPL đã có công văn yêu cầu Bộ Xây dựng xem xét lại tính hợp pháp của công văn này. Theo ông Lê Hồng Sơn, Cục trưởng Cục Kiểm tra VBQPPL: “Do công văn số 03 sử dụng Thông tư 04 làm căn cứ pháp lý, Cục đã xem xét nội dung Thông tư 04 và thấy rằng, Thông tư 04 ban hành ngày 18/8/2006 là thời điểm mà Luật Nhà ở đã có hiệu lực. Điều 39 Luật Nhà ở năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2006) quy định: ‘Trường hợp chủ đầu tư huy động vốn từ tiền ứng trước của người có nhu cầu mua hoặc thuê nhà ở thì chỉ được áp dụng trong trường hợp thiết kế nhà ở đã được phê duyệt và đã xây dựng xong phần móng’. Trong khi đó, Thông tư 04 đã cho phép chủ đầu tư được huy động vốn từ khi ‘chủ đầu tư đã giải phóng mặt bằng và bắt đầu triển khai xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật theo giai đoạn đầu tư’ là không đảm bảo tính hợp pháp”. ũng theo ông Sơn, việc đưa ra một số quy định, quy phạm hướng dẫn tại Công văn số 03 nhưng lại được thể hiện bằng công văn của Bộ Xây dựng do Phó cục trưởng Cục Phát triển đô thị ký thừa lệnh Bộ trưởng cũng không phù hợp với quy định của Luật Ban hành VBQPPL.
Ngay sau khi Công văn số 03 được công bố, giới đầu tư bất động sản đã hồ hởi đón nhận như một sự cởi mở của chính sách. Trao đổi với phóng viên Báo ĐTCK, một chuyên viên Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản (Bộ Xây dựng) cũng cho biết, DN liên tục gọi điện đến hỏi xem có áp dụng được nội dung của Công văn số 03 ở đơn vị mình hay không. Trong khi đó, Cục cũng không biết rằng Bộ Xây dựng có một công văn hướng dẫn như thế. “Thật là ‘tréo ngoe’ khi đơn vị được giao quản lý nhà nước trong lĩnh vực bất động sản lại không được hỏi ý kiến về vấn đề này”, vị chuyên viên bức xúc.Không bình luận về việc đúng hay sai của Công văn số 03, lãnh đạo Cục Phát triển đô thị chỉ giải thích rằng, vì DN có công văn yêu cầu hướng dẫn việc huy động vốn xây dựng khu đô thị mới, nên Cục đã căn cứ vào Nghị định số 02 là văn bản pháp luật hiện hành cao nhất về hướng dẫn thực hiện Quy chế khu đô thị mới, cũng như Thông tư số 04 để trả lời.
Để giải quyết vụ việc này theo yêu cầu của Bộ Tư pháp, Chánh văn phòng Bộ Xây dựng, ông Vũ Văn Phấn cho biết, lãnh đạo Bộ đã giao cho Vụ Pháp chế chủ trì, phối hợp với Cục Phát triển đô thị, Cục Quản lý nhà và thị trường bất động sản, Vụ Kinh tế xây dựng... nghiên cứu và tìm hiểu về tính hợp pháp của Công văn số 03 cũng như Thông tư số 04 và Nghị định số 02, để đưa ra hướng giải quyết sớm nhất.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, Cục Phát triển đô thị không chỉ ban hành duy nhất Công văn số 03 mà ngày 3/4/2010, cơ quan này còn có Công văn số 02/BXD-PTĐT gửi Công ty TNHH Capital Land - Hoàng Thành về việc huy động vốn để đầu tư xây dựng nhà ở tại Khu đô thị mới Mỗ Lao, phường Mộ Lao, Hà Đông, TP. Hà Nội với nội dung tương tự Công văn số 03. Điều lạ ở chỗ Công văn số 03 được ban hành ngày 26/3/2010 nhưng Công văn số 02 thì lại được ký ban hành ngày 3/4/2010??? Tại công văn này, Cục Phát triển đô thị hướng dẫn: “Công ty TNHH Capital Land - Hoàng Thành được phép áp dụng theo đúng điều 1 Mục VIII nêu trên và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật (giống Công văn số 03 - PV). Việc huy động vốn tại dự án nêu trên chỉ được áp dụng trong trường hợp thiết kế nhà ở đã được phê duyệt và công ty chứng minh được khả năng về tài chính để xây dựng xong phần móng của công trình và thực hiện khởi công công trình. Công ty cần thực hiện đúng theo quy định về quản lý đầu tư xây dựng khu đô thị mới, khu nhà ở đối với các dự án sử dụng nguồn vốn nước ngoài”.
Có “cây gậy pháp lý” trong tay, chỉ hơn 10 ngày sau, Công ty TNHH Capital Land - Hoàng Thành đã công bố kế hoạch bán căn hộ tại các blook A, B thuộc Dự án Mulberry Lane (Khu đô thị mới Mỗ Lao, Hà Đông, Hà Nội). Một chuyên viên Bộ Xây dựng nhận định, nếu Công văn số 03 bị thu hồi thì DN sẽ phải ngừng hoạt động huy động vốn, đồng thời rất khó khăn để giải quyết những trường hợp đã lỡ thu tiền rồi. Đồng thời, nếu Công văn 03 bị thu hồi thì số phận của Công văn số 02 sẽ ra sao?
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài “Bí ẩn” từ một vụ đấu giá tài sản. Bài báo phản ánh: Thời gian qua, bà Phạm Thị Hồng (chủ doanh nghiệp tư nhân Hồng Hưng, địa chỉ 357 Phan Đình Phùng, phường 2, TP. Đà Lạt, Lâm Đồng) nhiều lần gửi đơn cầu cứu cơ quan báo chí và các cơ quan chức năng phản ánh về việc: Cơ quan thi hành án dân sự Đà Lạt, Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản Lâm Đồng trong quá trình định giá, kê biên, bán đấu giá khối tài sản (nhà, đất, cây xăng...) tại địa chỉ trên của bà Hồng đã cố tình làm trái các quy định pháp luật gây thiệt hại lớn về tài sản cho gia đình bà. Cụ thể, theo bà Hồng, toàn bộ khối tài sản trên đất và diện tích đất (theo GCNQSDĐ) là trên 4.000m2 chỉ được định giá và bán đấu giá 37 tỷ đồng, trong khi giá trị thực là cả trăm tỷ đồng. Ngoài ra, việc người đấu giá trúng khối tài sản đó có quan hệ thân thích với một số người là lãnh đạo trong các cơ quan bảo vệ pháp luật tại địa phương, khiến bà Hồng càng bức xúc, cho rằng, có sự câu kết để chiếm đoạt tài sản trái phép của bà. Trước việc này, PV đã tiến hành xác minh, điều tra, tìm hiểu sự thật.
Sở dĩ khối tài sản của bà Hồng bị đem bán đấu giá là bởi trước đó bà Hồng có làm hợp đồng vay mượn, cầm cố khối tài sản trên với chị L.T.T và vay mượn bà Nguyễn Thị M. một số tiền lớn. Mặc dù bà Hồng tố cáo, cho rằng chị T. và bà M. có hành vi cho vay nặng lãi với bà, nhưng cơ quan chức năng khẳng định tố cáo này không có cơ sở để xem xét. Bà Hồng trở thành bị đơn trong các vụ kiện đòi nợ, bị TAND TP. Đà Lạt tuyên buộc phải trả cho chị T. số tiền 15 tỷ đồng, bà M. trên 33 tỷ đồng cùng khoản nợ trên 30 tỷ đồng của nhiều người khác. Sau khi có đơn yêu cầu thi hành án của các đương sự thắng kiện, để đảm bảo việc thi hành án, cơ quan thi hành án Đà Lạt đã tiến hành kê biên, phát mãi, bán đấu giá khối tài sản của bà Hồng. Nhưng tiếc thay, vì những động cơ không khách quan của những người thừa hành thực thi pháp luật nhà nước, việc kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản của bà Hồng đã được tiến hành một cách vội vàng, đầy bất thường; có hành vi làm trái quy định của pháp luật gây thiệt hại lớn về tài sản của bà Hồng.
Bà Phạm Thị Hồng từng là người giàu có nổi tiếng tại Đà Lạt. Khối tài sản của bà gồm mảnh đất rộng gần 4.000m2, 4 khối nhà, 5 trụ bơm xăng, bồn chứa đều nằm trên trục đường Phan Đình Phùng - một trong các con đường trung tâm của TP. Đà Lạt. Ngày 14-10-2008, Chi cục thi hành án Đà Lạt đã áp dụng quyết định số 45 ra ngày 18-12-2007 của UBND tỉnh Lâm Đồng để xác định giá trị đất và tài sản trên đất của bà Hồng, sau đó ký hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản với Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh Lâm Đồng. Theo quy định, việc định giá này phải được thông báo công khai. Đặc biệt phải báo cho chủ tài sản là bà Phạm Thị Hồng cùng người được thi hành án (đối tượng ưu tiên mua tài sản) biết, nhưng cơ quan thi hành án đã bất chấp. Sau đó, thi hành án Đà Lạt lập biên bản “về việc không có người đăng ký đấu giá tài sản” để lấy cớ đó tiến hành định giá lại tài sản theo hướng giảm 10% khối tài sản này; trong khi luật quy định chỉ được phép giảm 10% giá trị tài sản đem đấu giá khi mỗi lần tổ chức đấu giá không thành. Ngày 2-1-2009, thời điểm này Quyết định số 45 của UBND tỉnh Lâm Đồng quy định về giá đất trong nội thành Đà Lạt đã được thay thế bằng Quyết định số 58 ban hành ngày 22-12-2008, nhưng thi hành án Đà Lạt vẫn căn cứ vào việc tính giảm 10% tài sản của bà Hồng từ việc vận dụng quyết định số 45 đã hết hiệu lực và cách tính giá trị đất không đúng với quy định hiện hành để định giá khối tài sản của bà Hồng chỉ có 37 tỷ đồng (làm tròn số).
Trong khi đó, nếu tính đúng theo giá quy định của nhà nước thời điểm này, toàn bộ khối tài sản của bà Hồng sẽ là trên 55 tỷ đồng (còn nếu nhân hệ số với giá thị trường cho phép sẽ là trên 90 tỷ đồng). Đây sẽ là giá khởi điểm được sử dụng làm giá sàn khi mang ra bán đấu giá tài sản và theo quy định, việc bán đấu giá không được thấp hơn giá sàn. Vì vậy, người bị thi hành án đã bị thiệt hại ít nhất là 18 tỷ đồng. Kết quả thẩm định của Công ty cổ phần định giá miền Nam do Cơ quan CSĐTCA Lâm Đồng yêu cầu định giá tài sản của bà Hồng là 61 tỷ đồng. Chị L.T.T nói rằng, nếu khối tài sản đó được bán từ 50 đến 60 tỷ đồng sẽ có người mua ngay. Còn theo giá thị trường chúng tôi tham khảo, nhiều người định giá toàn bộ khối tài sản này khoảng 80 - 90 tỷ đồng.
Theo Điều 98 Luật thi hành án dân sự, khi định giá và phát mãi tài sản, cơ quan thi hành án phải thông báo cho chủ tài sản biết về mức giá sàn của khối tài sản này. Thế nhưng, vào các ngày 25-11, 30-12-2008, chấp hành viên (CHV) của cơ quan thi hành án Đà Lạt ra các quyết định thành lập Hội đồng định giá tài sản, nhưng chỉ 1 - 2 ngày sau đó đã vội lập biên bản định giá tài sản của bà Hồng mà không hề có mặt của bà, vì các quyết định được tống đạt cho bà Hồng không đảm bảo về thời gian theo quy định tại Điều 18, Nghị định 164 của Chính phủ. Cũng bằng sự vội vàng đó, ngày 29-12-2008, thi hành án tiến hành kê biên trạm xăng của bà Hồng thì ngay ngày hôm sau đã ra quyết định thành lập Hội đồng đấu giá tài sản, không để người được thi hành án và người phải thi hành án thỏa thuận về giá. Việc làm này của thi hành án Đà Lạt đã vi phạm Điều 43 Pháp lệnh thi hành án dân sự.
Quyết định thành lập Hội đồng định giá tài sản ngày 30-12-2008 không đủ thành phần (thiếu đại diện Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất TP. Đà Lạt) là vi phạm Nghị định 173 của Chính phủ). CHV Nguyễn Long Vân sau đó đã “hợp thức hóa” bằng cách làm lại quyết định do chính CHV Vân ký, trong đó đưa thêm vào thành phần Hội đồng định giá tài sản là Văn phòng đăng ký QSDĐ TP. Đà Lạt. Việc định giá tài sản ngày 2-1-2009 cũng không đủ thành phần theo quy định. Không có đại diện Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất do không có trong quyết định; không có mặt bà Hồng là người phải thi hành án do không được thông báo hợp lệ. Chiếu theo Khoản 1, Điều 24, Nghị định 173 thì việc định giá tài sản không đủ thành phần như vậy bị coi là vi phạm thủ tục và phải định giá lại tài sản. Thế nhưng, kết quả định giá này vẫn được đưa lên sàn đấu giá một cách thiếu công khai.
Tiếp nối những sai phạm của cơ quan thi hành án, Hội đồng bán đấu giá tài sản mở phiên bán đấu giá tài sản (vắng mặt bà Hồng vì không được tống đạt quyết định bán đấu giá tài sản) với ba khách hàng tham gia đấu giá gồm ông L.P.T - đại diện Cty TNHH Phương Trang - Đà Lạt cùng hai người khác. Do hai người có tên tham gia đấu giá cùng ông L.P.T chỉ là cho có lệ (hay cũng là người trong cuộc) nên sau khi giá khởi điểm 37 tỷ đồng được xướng lên, khách hàng số 1 im lặng, khách hàng số 2 trả cho... có lệ, ông T. đấu giá nhỉnh hơn 20 triệu đồng và trở thành người mua được tài sản đúng như “kịch bản”?! Quy định tại Điều 12, Nghị định 05 của Chính phủ, việc bán đấu giá tài sản này phải được niêm yết, thông báo công khai ít nhất hai lần trên phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương hoặc địa phương, nhưng Hội đồng bán đấu giá tài sản cũng “quên” luôn, sẵn sàng vi phạm Nghị định. Điều đáng nói là khi phát hiện ra tất cả những khuất tất, thiếu trung thực, không khách quan trong quá trình kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản của cán bộ thuộc hai cơ quan trên, bà Hồng đã liên tục có đơn khiếu nại, tố cáo gửi bà chánh án TAND TP. Đà Lạt và ông giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Lâm Đồng - cơ quan chủ quản của Trung tâm bán đấu giá tài sản, nhưng chỉ nhận được quyết định bác đơn của bà chánh án và sự im lặng, không một lời phúc đáp của ông giám đốc sở này. Cất công tìm hiểu bà Hồng mới biết: ông giám đốc sở đó là anh ruột của bà chánh án, cả hai là anh, chị vợ của ông L.P.T - người mua được tài sản.
Làm việc với chúng tôi, ông Trần Hữu Phước - Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự Đà Lạt đề nghị chúng tôi nêu các câu hỏi, thắc mắc bằng văn bản và hẹn rằng chỉ một ngày sau sẽ có văn bản trả lời. Thế nhưng, chúng tôi chờ đợi mãi đến ba tuần sau vẫn không thấy đâu. Được biết, Phòng CSĐT tội phạm về kinh tế và chức vụ CA Lâm Đồng và VKSND cùng cấp sau đó đã tiến hành các hoạt động điều tra, bước đầu khẳng định có dấu hiệu sai phạm và đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan điều tra Hình sự - Cục Điều tra VKSND Tối cao theo thẩm quyền. Cục Điều tra đã vào cuộc điều tra để xử lý. Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin khi có diễn biến mới.