I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Giáo dục Việt Nam có bài: Bổ nhiệm Giám đốc Sở Y tế Vĩnh Phúc: Bất chấp pháp luật! Bài báo phản ánh: Không đủ nhiệm kỳ và không đúng chuyên môn, nghiệp vụ nhưng một Phó giám đốc của Sở Y tế Vĩnh Phúc lại “chễm chệ” được ngồi vào vị trí giám đốc.
Từ giám đốc một doanh nghiệp tư nhân là Công ty CP Dược phẩm Vĩnh Phúc, ông Đỗ Văn Doanh không hiểu vì lý do “thần kỳ” nào đó được bổ nhiệm ngay làm Phó giám đốc Sở Y tế Vĩnh Phúc rồi mới đây “leo” lên vị trí Giám đốc đã gây ra nhiều “điều tiếng” trong dư luận.
Từ một doanh nghiệp tư nhân, không phải công chức nhà nước nhưng ngày 24/5/2012, ông Doanh được UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Quyết định số 1168/QĐ-CT về việc “Tuyển dụng và bổ nhiệm có thời hạn cán bộ lãnh đạo”. Điều 1 quyết định này nêu rõ: Tuyển dụng và bổ nhiệm có thời hạn ông Đỗ Văn Doanh, Chủ tịch HĐQT – Giám đốc Công ty Cổ phần Dược phẩm Vĩnh Phúc đến nhận công tác và giữ chức Phó Giám đốc Sở Y tế; Lương của ông Doanh được xếp vào ngạch chuyên viên chính (mã số 01.002), bậc 7, hệ 6,44. Thời gian nâng bậc lương lần sau tính từ ngày 01/5/2012.
Đến ngày 08/4/2014, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Quyết định số 999/QĐ-CT về việc giao ông Đỗ Văn Doanh phụ trách Sở Y tế. Quyết định nêu rõ: Điều ông Đỗ Văn Doanh, Phó Giám đốc Sở Y tế phụ trách Sở Y tế từ ngày 10/4/2014; Ông Doanh được hưởng chế độ phụ cấp chức vụ lãnh đạo theo quy định hiện hành.
Từ việc tuyển dụng, bổ nhiệm ông Đỗ Văn Doanh của UBND tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều điểm không rõ ràng, khiến dư luận hoài nghi. Bởi, ông Doanh chỉ là người đứng đầu doanh nghiệp tư nhân, không phải công chức nhà nước vì sao lại dễ dàng được bổ nhiệm làm lãnh đạo Sở Y tế? Quy trình tuyển dụng như vậy đã đúng với Luật Cán bộ, Công chức chưa?
Đặc biệt, việc UBND tỉnh bổ nhiệm ông Doanh giữ chức vụ Giám đốc Sở Y tế Vĩnh Phúc lại thêm một lần nữa khiến nhiều người “bất ngờ” và đặt nhiều câu hỏi cho sự việc này. Bởi, hiện ông Doanh chỉ còn 03 năm nữa sẽ về hưu và không còn đủ 01 nhiệm kỳ, theo các quy định pháp luật hiện hành thì ông Doanh chắc chắn không đủ điều kiện để được bổ nhiệm Giám đốc Sở lần đầu.
Ngoài ra, theo Quyết định số 587/BYT – QĐ, ngày 23/7/1994, của Bộ Y tế V/v ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ của Giám đốc Sở Y tế cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hiện vẫn đang áp dụng, trong đó điểm a Mục 3 quy định rất rõ về trình độ: “Là chuyên viên chính trở lên thuộc lĩnh vực y, phải biết sâu một trong lĩnh vực (dự phòng hoặc chữa bệnh) do sở quản lý đã qua chức vụ: Phó giám đốc sở, Trưởng phòng của sở, Giám đốc bệnh viện đa khoa, Giám đốc Trung tâm các đơn vị dự phòng của tỉnh và Giám đốc Trung tâm y tế huyện, thị, quận ít nhất là 03 năm”.
Theo lý lịch trích ngang, ông Đỗ Văn Doanh sinh tháng 08/1957, Dược sĩ chuyên khoa 1, làm Giám đốc Công ty Dược phẩm Vĩnh Phúc từ năm 1997-2012. Nếu căn cứ vào Quyết định số 587/BYT – QĐ của Bộ Y tế, rõ ràng ông Doanh chưa hề làm công tác chuyên môn về lĩnh vực y như khám - chữa bệnh, chưa kinh qua công tác quản lý ở bệnh viện các tuyến và đặc biệt, chưa từng được đào tạo về lĩnh vực Y học.
Dư luận khó hiểu, khi cả 02 tiêu chí về việc bổ nhiệm Giám đốc Sở Y tế ông Doanh đều không đạt nhưng UBND tỉnh Vĩnh Phúc vẫn quyết bất chấp tất cả. Như vậy, sự việc ở đây là UBND tỉnh sai hay các quy định của pháp luật đã lỗi thời? Bộ Y tế và Bộ Nội vụ có nên tiếp tục đứng ngoài cuộc trong vụ việc bổ nhiệm gây điều tiếng này?
2. Báo Tuổi trẻ online có bài: Cán bộ “hành dân” tự nhận hình thức kỷ luật. Bài báo phản ánh: Ngày 20-5-2014, tôi và vợ (người Mỹ) nộp hồ sơ làm giấy khai sinh cho con tại Sở Tư pháp TP.HCM.
Nhân viên tiếp nhận hồ sơ của tôi không lắng nghe tôi trình bày, thường xuyên nghe điện thoại và nói chuyện với người khác.
Đến ngày 22-5, nhân viên này điện thoại cho tôi thông báo hồ sơ còn thiếu văn bản thỏa thuận của hai vợ chồng tôi về quốc tịch của con và yêu cầu vợ chồng tôi phải làm biên bản này và ký trước mặt nhân viên tiếp nhận.
Đến ngày 23-5, nhân viên trên báo tiếp rằng tôi phải làm thủ tục xử phạt hành chính do khai sinh cho con trễ hạn. Tôi thắc mắc không hiểu tại sao nhân viên tiếp nhận hồ sơ không xem kỹ hồ sơ để hướng dẫn vợ chồng tôi bổ sung ngay từ đầu?
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Vụ “Nhậu xong đi tè bị quy tội cướp”: Tòa tuyên án an toàn? Bài báo phản ánh: Cho rằng hai bị cáo cướp chưa đạt vì chưa gây hậu quả và không thu được hung khí, tòa tuyên phạt mức án bằng đúng ngày tạm giam.
Sáng 15-7, sau nhiều lần hoãn xử và trả hồ sơ điều tra bổ sung, TAND huyện Bình Chánh (TP.HCM) đã đưa ra xét xử vụ Trần Văn Uống và Khưu Khánh Sỹ bị cáo buộc dùng hung khí nguy hiểm chặn đường cướp xe. Tòa đã tuyên phạt Uống và Sỹ một năm bảy tháng chín ngày tù về tội cướp tài sản.
Do thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam nên Uống và Sỹ được trả tự do tại tòa. Tuy vậy, cả hai vẫn bị đưa vào phòng cách ly, không được tiếp xúc ngay với người thân. Trò chuyện ngay sau khi tòa tuyên án, Uống và Sỹ vẫn khẳng định mình không phạm tội, tuy nhiên hiện tại “được tự do đoàn tụ gia đình là mừng hết lớn rồi”.
Theo cáo trạng, đêm 5-12-2012, Uống và Sỹ nhậu với Đen và Sệt (tất cả cùng quê Sóc Trăng). Sau đó cả nhóm bàn nhau chặn đường cướp xe. Uống, Đen, Sệt mỗi người cầm cây tầm vông dài khoảng 50 cm cùng Sỹ đi bộ ra đường, chia hai bên đứng đợi. Lát sau, anh Phan Thanh Quyền chở bạn gái đến gần, nhìn thấy nên hoảng sợ quay đầu xe. Đen và Sệt xông ra. Đen cầm cây đánh nhưng không trúng. Cả nhóm đuổi theo và ném cây về phía xe nhưng anh Quyền tránh được và chạy đến chốt dân phòng Khu công nghiệp Lê Minh Xuân báo tin. Công an truy đuổi thì bắt được Sỹ và Uống tại khu vực cách chỗ vừa đứng không xa. Riêng hung khí gây án thì không thu được.
Cáo trạng xác định Đen và Sệt là đồng phạm, khi nào tìm được sẽ xử lý sau. Uống và Sỹ bị truy tố dùng hung khí nguy hiểm (ba cây tầm vông) cướp xe theo điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS.
Tại phiên tòa ngày 19-11-2013, Uống và Sỹ được cách ly và khai rất thống nhất, rằng hai bị cáo mới xa quê vào làm thuê cho cơ sở sản xuất thức ăn gia súc khoảng ba tháng. Đêm đó họ tổ chức nhậu trong xưởng, xong thì Uống và hai người kia ra ngoài hóng mát. Đến giờ ra lò (làm việc), Sỹ ra gọi thì đúng lúc này có đám đông người lao đến hô vang: “Bắt nó, bắt nó” nên cả hai buộc phải chạy đi. Sau khi bị bắt, do bị đánh đau quá (Sỹ còn bị treo lên để đánh) nên họ buộc phải ký tên vào bản ghi lời khai có sẵn và viết bản tự khai nhận tội theo ý cán bộ.
Qua nhiều lần xử rồi hoãn, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn chưa thể buộc tội được do có nhiều mâu thuẫn giữa kết luận điều tra, các bút lục và cáo trạng. Đó là VKS nhận định bị cáo cầm cây tầm vông làm hung khí đi cướp nhưng không có cây gậy nào như thế được thu giữ. Đèn pha của xe máy chỉ chiếu tối đa khoảng 50 m, làm thế nào ở cự ly 80 m, người bị hại thấy các bị cáo cầm cây và khẳng định họ là cướp? Bị hại khai thấy hai người trong khi cáo trạng và kết luận điều tra là bốn người. Quan trọng hơn, người làm chứng lại là người... không chứng kiến vụ việc.
Tại tòa hôm nay, hai bị cáo không bị cách ly và tiếp tục khẳng định mình không có tội. Tuy nhiên, chủ tọa liên tục ngắt lời khi hai bị cáo trình bày lại những vấn đề đã nêu tại phiên tòa trước.
Bào chữa cho hai bị cáo, ba luật sư cho rằng vụ án có dấu hiệu chỉ là một vụ cướp tưởng tượng. Cơ quan tố tụng không chứng minh được hai bị cáo có hành vi cướp. Các luật sư lập luận: “Yếu tố quan trọng cấu thành tội cướp là phải thực hiện hành vi khách quan là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho nạn nhân lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm cướp xe. Vụ án này chưa chứng minh được hai bị cáo có thực hiện hành vi khách quan nêu trên. Hơn nữa, xét về mặt tâm lý tội phạm, sau khi cướp không thành thì không ai dại gì vẫn tới lui khu vực đó để bị bắt như trường hợp của Uống và Sỹ cả”.
Đặc biệt, sau khi điều tra lại, người bị hại lại khai rằng lúc hai thanh niên cầm cây xông ra chặn hai bên đường thì khoảng cách giữa anh và họ là 15 m. Anh giảm tốc độ, hai thanh niên đó chạy đến thì khoảng cách còn 5 m. Anh quay đầu xe bỏ chạy đi báo tin thì bị quăng cây theo nhưng không trúng. Các luật sư đặt vấn đề: “Chứng cứ buộc tội chỉ là lời khai nhận tội ban đầu của hai bị cáo và lời trình báo của nạn nhân. Người bị hại khai nhìn thấy hai thanh niên thì quay đầu xe và bị chọi cây. Như vậy, nếu thực sự hai bị cáo có ý định cướp xe thì với khoảng cách chỉ 5 m, còn phải cua gấp để quay đầu thì người bị hại có thể thoát được không?”.
Đáng lưu ý, biên bản bắt người phạm tội quả tang lại được lập sau khi bắt người hơn 15 giờ và cũng không ghi nhận được sự việc quả tang gì ngoài lời trình báo của người bị hại, lời khai nhận tội ban đầu của hai bị cáo và lời khai của hai người đi bắt (biên bản ghi vai trò của hai người này là người làm chứng).
Từ đó các luật sư đề nghị: “Không chứng minh được bị cáo có hành vi cướp thì tuyên hai bị cáo không phạm tội”.
Sau cùng, tòa nhận định hành vi của Uống và Sỹ là cướp chưa đạt do chưa gây hậu quả và không thu được hung khí. Từ đó tòa chuyển xuống truy cứu hai bị cáo theo khoản 1 Điều 133 BLHS.
4. Báo Người cao tuổi có bài: Vụ kiện “Luật sư kiện luật sư bắt cá hai tay” ở TP Hồ Chí Minh: Thấy gì từ làm trái chỉ đạo của Thành ủy? Bài báo phản ánh: Nói rằng sẽ mời Đoàn Luật sư và Hội Luật gia TP Hồ Chí Minh tham gia góp ý giải quyết dứt điểm vụ án đúng pháp luật theo sự chỉ đạo của Thành ủy. Nhưng, vụ án đang trở nên phức tạp, bởi thẩm phán “tự tung, tự tác” bằng nhiều trò “ma giáo”…
Báo Người cao tuổi đã có gần 30 bài viết phản ánh nhiều sai phạm có hệ thống của các cơ quan tố tụng trong giải quyết vụ án “Luật sư kiện luật sư bắt cá hai tay”; có âm mưu đen tối làm sai lệch hồ sơ vụ án, hàm oan cho nguyên đơn, che giấu hành vi tội phạm. Trong hệ thống sai phạm, Thẩm phán Trần Thị Kim Quy đã làm những gì?
Một, không tổ chức đối chất theo yêu cầu của nguyên đơn khi có các lời khai mâu thuẫn theo quy định Điều 88, Bộ luật Tố tụng Dân sự (TTDS). Nguyên đơn có đơn tố cáo (ngày 19/9/2011) nhưng bà Quy vẫn ngang nhiên giải quyết vụ án; thậm chí, có ý kiến của TAND thành phố Hồ Chí Minh ( tại Phiếu chuyển số 3664/TATP-VP ngày 28/12/2011).
Hai, cố ý ém nhẹm các tình tiết về dấu hiệu giả mạo chứng cứ. Ông Vũ Công Thành khai nhận tại “Biên bản đối chất hòa giải” ngày 18/9/2009 của TAND Quận 9 là ông không viết, không biết nội dung gì trong “Tờ tường thuật sự thật” đề ngày 10/8/2005; không nộp “Tờ tường thuật sự thật” này cho Công an Quận 2 và TAND thị xã Bến Tre, nhưng ông xác nhận có kí vào “Tờ tường thuật sự thật” là do nhầm lẫn. Như vậy, “Biên bản đối chất hòa giải” là chứng cứ hợp pháp chứng minh “Tờ tường thuật sự thật” ngày 10/8/2005 là giả mạo. Tuy nhiên, suốt 5 năm nay, bà Quy và ông Vũ Công Thành vẫn không có biện pháp thu hồi “Tờ tường thuật sự thật”, để mặc cho ông Trần Minh Thành tiếp tục sử dụng làm chứng cứ bao biện cho “Tờ tường thuật” không đề ngày tháng có nội dung vu khống gây sự thiệt hại phi vật chất nghiêm trọng kéo dài cho nguyên đơn.
Ba, cố tình tống đạt Thông báo về phiên hòa giải trái luật. Đại diện nguyên đơn, ông Nguyễn Anh Hoàng tố cáo: “Bà Quy giải thích tống đạt Thông báo về phiên hòa giải đề ngày 9/5/2014 (lần một) cho tôi bằng thư thông qua đường bưu điện, nhưng không chứng minh được là trái quy định Điều 151, 152 Bộ luật TTDS. Bà Quy tống đạt Thông báo đề ngày 20/5/2014 (lần 2) qua Thừa phát lại, nhưng không tống đạt trực tiếp cho tôi mà tống đạt cho bà Tuyết đã ủy quyền cho tôi tham gia tố tụng. Bà Quy còn dùng thủ đoạn cho Thừa phát lại tống đạt cho bà Tuyết tại địa chỉ mà bà Quy biết rõ bà Tuyết không còn ở để tạo cớ lập “Biên bản sự việc” tống đạt không thành, kết hợp với phường Phú Hữu lập ngay biên bản niêm yết công khai (vi phạm Điều 154, Bộ luật TTDS), coi chúng tôi như những “phần tử thất tung”, xúc phạm danh dự, uy tín, làm nhục chúng tôi nơi công cộng. Thủ đoạn thâm độc là làm cho chúng tôi không nhận được thông báo về phiên hòa giải, tạo cớ chúng tôi vắng mặt lần 2 để ra quyết định đình chỉ vụ án, dìm vụ án cùng nỗi oan khuất của chúng tôi vĩnh viễn vào bóng tối, cứu bọn tội phạm thoát tội”.
Bà Tuyết bức xúc: “Hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án còn thể hiện bà Quy không tống đạt Thông báo về phiên hòa giải đề ngày 9/5/2014 cho ông Hoàng, mà lập Biên bản ông Hoàng vắng mặt tại phiên hòa giải ngày 19/5/2014 (hòa giải lần thứ nhất). Bà Quy biết, ngày 19/5 là sinh nhật Bác Hồ. Ngày này hết thảy mọi người từ già đến trẻ đều thi đua làm nhiều việc tốt để làm “Quà tháng Năm” dâng Bác. Thế mà, bà Quy đã làm điều ngược lại với đạo lí, pháp lí và thậm chí làm trái với bản chất của một đảng viên Cộng sản chân chính bằng việc kí Biên bản ông Hoàng vắng mặt tại phiên hòa giải ngày 19/5/2014 để thực hiện âm mưu đen tối trên. May mắn cho chúng tôi là âm mưu đen tối của bà Quy đã không thể thực hiện”.
Ngày 4/4/2014, ông Trần Thế Lưu, Trưởng ban Nội chính Thành ủy TP Hồ Chí Minh chủ trì buổi làm việc với nguyên đơn (bà Tuyết) có ông Hoàng làm đại diện, có Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi và đại diện các cơ quan tố tụng của thành phố đã thống nhất ghi nhận luật sư Trần Minh Thành và ông Vũ Công Thành có hành vi vu khống đối với bà Tuyết; cần hủy bỏ Văn bản số 470/VKSTP-1A ngày 23/3/2006 của Viện KSND thành phố Hồ Chí Minh để phục hồi điều tra, sớm chấm dứt vụ án đúng pháp luật. Ngày 17/4/2014, ông Hoàng, bà Tuyết trình bày, kiến nghị trực tiếp và được đồng chí Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh ghi nhận chỉ đạo sớm giải quyết dứt điểm vụ án đúng pháp luật.
Tuy nhiên, đây là vụ án dân sự có dấu hiệu tội phạm hình sự (giả mạo chứng cứ), buộc phải chuyển vụ án cho Cơ quan Điều tra có thẩm quyền giải quyết theo quy định khoản 2, Điều 91, Bộ luật TTDS. Nhưng bà Quy “tự tung, tự tác”, làm trái Điều 151, 152 (tống đạt thông báo); Điều 154, Bộ luật TTDS (lập Biên bản niêm yết công khai) nêu trên. Điều đáng nói là bà Quy đang bị nguyên đơn tố cáo chưa giải quyết (Báo Người cao tuổi đăng số 96 (1413) ra ngày 17/6/2014); và, tại sao sau cuộc họp ngày 4/4/2014, Ban Nội chính Thành ủy không mời Đoàn Luật sư và Hội Luật gia TP Hồ Chí Minh tham gia góp ý giải quyết vụ án? không đề cập gì đến việc xử lí Văn bản 470/VKSTP-1A ngày 23/3/2006 của Viện KSND thành phố Hồ Chí Minh (có nội dung sai trái)?
Rõ ràng, vụ việc đang bị đẩy đi ngày càng xa hơn một kết quả giải quyết vụ án đúng pháp luật, là nguyên nhân của việc làm trái chỉ đạo của Thành ủy; Ban Nội chính Thành ủy TP Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì trong việc này? Và, việc xem xét tư cách thẩm phán và tư cách đảng viên của bà Quy đang là vấn đề cấp thiết đặt ra
5. Báo Lao động có bài: Quản lý, sử dụng giấy tờ cá nhân ở Việt Nam: Lạc hậu và lạc điệu với thế giới. Bài báo phản ánh: Việc đưa ra loại thẻ căn cước mới cho hàng chục triệu công dân, tốn hàng ngàn tỉ đồng, nhưng nếu không làm giảm bớt giấy tờ đính kèm trong các thủ tục hành chính, thì đó là thất bại, chưa kể đến lo ngại lớn về bí mật thông tin cá nhân được quản lý thế nào và tổ chức nào được độc quyền nắm giữ những bí mật đó, cũng dễ khiến cho thẻ căn cước công dân (CCCD) rơi vào tình trạng không được xã hội chấp nhận...” - đó là ý kiến của nhiều chuyên gia khi bàn luận về triển khai thực hiện thẻ CCCD.
Trên thế giới có lẽ không còn nhiều nơi như ở VN, mỗi một công dân luôn phải “mang vác” theo người, hoặc cất giữ trong nhà suốt đời rất nhiều các loại giấy tờ cá nhân. Những giấy tờ tùy thân được cất trong ví luôn để bên người, từ CMND, thẻ nghề nghiệp, thẻ ATM..., đến giấy phép lái xe, giấy tờ sở hữu xe, thẻ bảo hiểm y tế, hộ chiếu... Ngoài ra, còn một tá giấy tờ quan trọng khác phải cất giữ ở nhà - trong két sắt, mà nếu để mất là rất nguy hại và vô cùng phức tạp, như giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn, các loại quyết định, bằng cấp, chứng chỉ,... giấy chứng nhận sở hữu nhà đất, hồ sơ cấp bằng lái xe, giấy mua bán, sang nhượng, hợp đồng thuê - cho thuê...
Nói phải cất giữ hoặc mang bên mình suốt đời là hoàn toàn không ngoa, bởi những thứ giấy tờ này luôn cần phải được trưng ra, xuất trình để giải quyết công việc bất cứ lúc nào. Đơn cử một ví dụ, theo quy định hiện nay thì dù người già tuổi cao đến đâu, thì khi đi làm giấy tờ nhà đất cũng đều bị yêu cầu xuất trình giấy đăng ký kết hôn. “Một nền hành chính quá chú trọng đến giấy tờ, văn bản ký kết, xác nhận... khiến cho mỗi cá nhân phải ôm giữ một đống giấy tờ tùy thân ngày một dày thêm trong quá trình tồn tại, phát triển mà không cái giấy nào thay thế được cái nào!” – TS xã hội học Trịnh Hòa Bình bày tỏ bực dọc khi nói về vấn đề giấy tờ tùy thân mà ông có lần không may bị mất cắp chiếc ví mất hết cả, phải cất công làm lại, hằng năm trời mới xong.
Nhìn ra các nước tiên tiến, mới thấy công dân của họ thật nhàn hạ, cả xã hội thông suốt và minh bạch nhờ nền hành chính đã được thẻ hóa, mã hóa. Một tiến sĩ người Việt nhập cư vào Australia kể rằng, khi anh đến ngân hàng vay tiền mua nhà trả góp, anh thông báo cho ngân hàng mã số thẻ công dân của mình, ngồi chờ ít phút, sau đó anh được nhân viên ngân hàng ra thông báo hạn mức được vay tiền “tối đa là 550.000 đôla”. Anh cho biết, việc nhanh chóng như vậy là bởi sau khi có mã số cá nhân thì chỉ cần một vài thao tác trên máy tính, ngân hàng lập tức biết được đầy đủ tình trạng của người vay tiền: Từ thu nhập hằng tháng của gia đình, số tài sản hiện có, nghề nghiệp, gia cảnh thế nào: Phải nuôi dưỡng những ai, đang nợ, phải trả góp những món nào?... Và dựa vào dữ liệu tình trạng đó, ngân hàng đã tính toán đưa ra con số đáp ứng khách hàng, như kể trên.
Rõ ràng “cung cách giấy tờ tùy thân ” của ta không chỉ lạc hậu, chậm tiến mà đã trở nên lỗi nhịp, lạc điệu với các nước tiên tiến trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề càng trở nên phức tạp vì như vậy khó có thể “khớp nối”, khó “đi cùng” với thế giới.
Trước thực tế phiền hà vì giấy tờ cá nhân đã trở thành nỗi bức xúc trong xã hội, vấn đề về dự án Luật CCCD, trong đó việc triển khai cấp thẻ CCCD được xã hội đồng thuận với đề nghị cần phải bắt tay ngay vào thực hiện. Thực tế, vấn đề này đang chi phối nhiều lĩnh vực khác trong quá trình phát triển đất nước; từ việc chống lãng phí, tới minh bạch xã hội, văn minh xã hội, hơn nữa là cho công cuộc phòng, chống tham nhũng và sự nghiệp hội nhập quốc tế... Ủng hộ vấn đề này, Chủ nhiệm Uỷ ban các vấn đề xã hội của QH - bà Trương Thị Mai - đã đề nghị, ban soạn thảo cần phải nói rõ để cả xã hội biết đây là “một cuộc cách mạng, một sự thay đổi lớn”.
Mặc dù rất cần thiết phải triển khai xét về mặt khách quan và quyết tâm cũng đã rõ, nhưng còn rất nhiều vấn đề hóc búa khiến cho việc triển khai thực hiện thẻ CCCD rơi vào tình trạng lo ngại, băn khoăn về tính chất hữu hiệu. Theo các nhà phân tích, với “hạ tầng” giấy tờ cá nhân mênh mông bể sở như thế này, cùng với sự thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất trong quản lý, giám sát, thiếu minh bạch trong nhiều lĩnh vực của mỗi cá nhân (tài sản, sức khỏe, thu nhập...), thì công việc rất khó khả thi. Một vấn đề nữa nổi lên trong quá trình bàn thảo hiện nay là mỗi ngành (liên quan đến công việc này) đều đang có những áp đặt, đấu tranh cho chủ quan riêng của ngành mình khiến cho “tư lệnh” của khâu “đột phá cải cách ” này là QH vẫn cân nhắc, bởi chưa biết như thế nào cho phải, cho đúng, cho đầy đủ.
Việc tung ra loại thẻ căn cước mới cho hàng chục triệu công dân, tốn hàng ngàn tỷ đồng, nhưng nếu không làm giảm bớt giấy tờ đính kèm trong các thủ tục hành chính, thì đó là thất bại, chưa kể đến lo ngại lớn về bí mật thông tin cá nhân được quản lý thế nào, và tổ chức nào được nắm giữ độc quyền đó cũng khiến cho thẻ CCCD không được xã hội chấp nhận... Dự án Luật Căn cước sẽ có hiệu lực từ tháng 7.2015 nếu được thông qua. Tuy nhiên, hiện UBTVQH vẫn còn nhiều băn khoăn, nhất là khi câu hỏi lớn nhất là: Làm xong luật này sẽ loại bỏ được bao nhiêu giấy tờ và còn tồn tại mấy loại giấy tờ, thì vẫn chưa có câu trả lời.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Thời báo Kinh tế Sài Gòn online có bài: Luật Đất đai mới: Vẫn chưa thoát vòng kim cô. Bài báo phản ánh: Các doanh nghiệp địa ốc đang chờ xem thông tư hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đất đai 2013 với nhiều điều khoản được bổ sung, sửa đổi sắp tới sẽ ra sao kể từ khi bộ luật này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1-7 vừa qua. Song, không ít doanh nghiệp lại cho rằng những thay đổi này thực chất mới chỉ gọt đi một chút “râu ria” của vấn đề, chứ chưa chạm tới những khúc mắc bấy lâu nay...
Điều mà các doanh nghiệp địa ốc quan tâm nhất hiện nay là liệu luật mới có giải quyết được vấn đề tiền sử dụng đất cho họ hay không. Quy định cũ cho phép áp dụng bốn phương pháp định giá đất, bao gồm phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp chiết trừ, phương pháp thu nhập và phương pháp thặng dư. Luật Đất đai sửa đổi đưa thêm cách tính thứ năm, đó là phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất. Theo đó, tiền sử dụng đất được xác định bằng cách lấy bảng giá đất do UBND tỉnh, thành phố ban hành nhân (x) cho hệ số điều chỉnh, hay còn gọi là hệ số k, k bằng bao nhiêu tùy vào quyết định của chính quyền địa phương. Với nhiều doanh nghiệp, cách tính này đơn giản và khả thi hơn các phương pháp cũ.
Tuy nhiên, xem kỹ Nghị định 44 thì thấy phương pháp này chỉ được áp dụng để tính tiền đất cho các hộ gia đình, cho các “thửa đất của dự án có giá trị (tính theo giá đất trong bảng giá đất) dưới 30 tỉ đồng đối với thành phố trực thuộc trung ương; dưới 10 tỉ đồng đối với các tỉnh miền núi, vùng cao; dưới 20 tỉ đồng đối với các tỉnh còn lại”. Điều này có nghĩa các doanh nghiệp địa ốc sẽ chẳng có hy vọng gì, bởi trên thực tế có mấy dự án có quy mô nhỏ như thế.
Câu chuyện tiền sử dụng đất được nói đến nhiều kể từ năm 2009 đến nay. Vấn đề nằm ở chỗ số tiền doanh nghiệp bỏ ra đền bù giải phóng mặt bằng được cấn trừ lại theo đơn giá Nhà nước, vốn thấp hơn nhiều so với số tiền sử dụng đất phải nộp. Để được cấn trừ, các doanh nghiệp địa ốc phải có phương án đền bù được phê duyệt, song trên thực tế chẳng dự án nào có, họ phải tự thương lượng đền bù với dân “tới mét vuông cuối cùng” theo tinh thần Nghị định 84. Đó là lý do các doanh nghiệp địa ốc luôn miệng kêu họ đang phải mua đất hai lần.
Dưới góc nhìn của các doanh nghiệp, cách tính tiền sử dụng đất như hiện nay đầy cảm tính, phức tạp, mất thời gian, và nhất là phải có bộ máy cồng kềnh với đơn vị tư vấn thẩm định giá và hội đồng phê duyệt. Hơn nữa, với cách tính này, họ không biết số tiền sử dụng đất của mình là bao nhiêu, nên không thể tính toán phương án đầu tư cho dự án của mình.
Có ý kiến cho rằng tiền sử dụng đất thuộc ngân sách địa phương nên để địa phương quyết định mức thu tiền sử dụng đất, cần khuyến khích đầu tư tiền sử dụng đất sẽ hạ xuống, cần siết lại sẽ tăng mức thu khoản này lên. Hơn nữa, việc Chính phủ ban hành khung giá đất vùng thực tế chẳng có ý nghĩa gì nhiều khi xác định giá thị trường, theo đó bảng giá đất của địa phương sẽ được phép điều chỉnh khi giá thị trường biến động 20%. Nếu áp dụng theo khung này, giá đất tại hai thành phố lớn như Hà Nội và TPHCM không vượt quá 81 triệu đồng/mét vuông. Thế nhưng trên thực tế gần đây, một dự án trung tâm thương mại trên trục đường Đồng Khởi, TPHCM đã có giá đền bù đến 275 triệu đồng/mét vuông.
Thật ra, chính quyền TPHCM cũng đã thấy những bất cập trong việc thu tiền sử dụng đất. Khoảng trung tuần tháng 11 năm ngoái, UBND TPHCM đã có văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu bỏ hẳn khái niệm “tiền sử dụng đất” mà thay thế bằng sắc thuế với thuế suất khoảng 10-15% bảng giá đất. Như vậy, vừa minh bạch, vừa dễ tính toán và loại trừ được cơ chế xin - cho.
Chỉ có điều tiền sử dụng đất không được xem là một khoản thuế, nên đề xuất này đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Cũng còn phải đợi xem thông tư hướng dẫn sắp tới sẽ ra sao. Nói như ông Hiếu của Thuduc House, nếu cứ tư duy theo kiểu cũ, mọi chuyện rồi sẽ quay lại như cũ.
2. Báo Thanh niên online có bài: Liên minh Nghị viện Pháp ngữ ra nghị quyết ủng hộ VN ở biển Đông. Bài báo phản ánh: Trong kỳ họp tại Ottawa (Canada) từ ngày 4 - 8.7, theo đề nghị của Ủy ban Chính trị, Liên minh Nghị viện Pháp ngữ đã ra nghị quyết thể hiện lập trường về tình hình biển Đông, vấn đề đang gây quan ngại trong nghị viện cộng đồng Pháp ngữ.
Tại nghị quyết này, Liên minh Nghị viện Pháp ngữ bày tỏ quan ngại về tình hình rất căng thẳng hiện nay giữa Trung Quốc (TQ) và VN do việc TQ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN; quan ngại tình hình căng thẳng sẽ đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định và an toàn hàng hải, hàng không trên biển Đông. Nghị quyết ủng hộ những cố gắng của VN và các bên liên quan hành động bằng biện pháp hòa bình và ủng hộ tất cả sáng kiến của khối Pháp ngữ vì hòa bình và ổn định trong khu vực; yêu cầu TQ và các nước ASEAN cùng giải quyết tổng thể xung đột, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm ký kết Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC).
3. Trang Biz Live có bài: Trung Quốc đã thả 13 ngư dân Việt Nam và 1 tàu cá. Bài báo phản ánh: Cảnh sát Biển Trung Quốc mới đây đưa ra quyết định xử phạt và tịch thu một tàu cá cũng như ngư cụ và sản phẩm trên hai tàu cá của ngư dân Việt Nam.
Sau khi bắt giữ, cảnh sát Biển Trung Quốc mới đây đưa ra quyết định xử phạt và tịch thu một tàu cá cũng như ngư cụ và sản phẩm trên hai tàu cá nói trên.
Lãnh sự Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu đã đến thăm các ngư dân Việt Nam.
Ngày 15/7, Cảnh sát Biển Trung Quốc đã thả tàu cá mang số hiệu QB93256 TS và 13 ngư dân Việt Nam.
Hiện số ngư dân nói trên đang trên đường về nước trên tàu cá Quảng Bình (QB93256 TS).
4. Báo Dân trí có bài: Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam. Bài báo phản ánh: Tối 15/7 Tân Hoa xã dẫn nguồn công ty TNHH cổ phần dịch vụ mỏ dầu Trung Hải (COSL) của Trung Quốc cho biết, giàn khoan Hải Dương-981 đã “hoàn thành tác nghiệp” ở khu vực gần đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và sẽ rút về Lăng Thủy, Hải Nam, Trung Quốc.
Tối ngày 15/7 Tân Hoa Xã đưa tin, Công ty TNHH cổ phần dịch vụ mỏ dầu Trung Hải (COSL) cho biết, đến ngày 15/7 giàn khoan Hải Dương-981 đã “hoàn thành tác nghiệp” ở khu vực biển gần đảo Tri Tôn (quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam). COSL cũng cho biết Hải Dương-981 đã thực hiện “kế hoạch thuận lợi” và “thu được dữ liệu số liệu địa chất”.
COSL cũng cho biết thêm, giàn khoan Hải Dương-981 sẽ được rút về giếng dầu Lăng Thủy ở đảo Hải Nam.
Tuyên bố rút giàn khoan khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam được đưa ra trong bối cảnh bão Rammasun đang hướng vào Biển Đông và được dự báo là một cơn bão rất mạnh.
Trước đó, vào ngày 15/7, đại diện cục kiểm ngư của Việt Nam cho biết, Trung Quốc đã di chuyển toàn bộ số tàu cá về khu vực đảo Hải Nam, giảm số tàu tham gia bảo vệ giàn khoan Hải Dương-981 xuống chỉ còn hơn 70 tàu, thấp hơn rất nhiều so với con số 120-130 tàu trong thời gian vừa qua.
Giáo sư Carl Thayer, học viện Quốc phòng Úc, một chuyên gia về Biển Đông, cũng dự đoán, tình hình Biển Đông, đặc biệt là căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc do Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển Việt Nam, có thể giảm khi mùa mưa bão tới. Ông cũng cho rằng đây là cách Trung Quốc giảm căng thẳng mà vẫn “giữ được thể diện”.