I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Giáo dục Việt Nam có bài: Vụ dân kiện Chủ tịch Hà Nội: Cục kiểm tra văn bản nói gì? Bài báo phản ánh: Không chỉ đâm đơn kiện đích danh Chủ tịch TP Hà Nội, gia đình ông Nguyễn Khắc Lượng còn có đơn khiếu nại gửi tới Bộ Tư pháp.
Ngày 23/4 vừa qua, Báo Giáo dục Việt Nam đã đăng tải trong bài viết “Một người dân ở làng hoa Tây Tựu kiện Chủ tịch TP Hà Nội”, phản ánh sự việc ông Nguyễn Khắc Lượng (ở đội 12 thôn Hạ, xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm) đã đâm đơn kiện đích danh Chủ tịch TP Hà Nội ra TAND TP Hà Nội sau khi TP có quyết định số 1818 ngày 21/2/2013 do ông Vũ Hồng Khanh – Phó Chủ tịch TP ký, trả lời về việc giải quyết chính sách đền bù của UBND huyện Từ Liêm là đúng.
Đặc biệt, văn bản của TP Hà Nội còn nói rõ tại thời điểm GPMB, UBND TP Hà Nội chưa ban hành chính sách hỗ trợ đất dịch vụ cho những trường hợp bị thu hồi trên 30% đất nông nghiệp quy định tại khoản 4, Điều 4, Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 4 của Nghị định 17: Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định sau đây: “Được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp; mức đất được giao do UBND cấp tỉnh căn cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu hồi của từng hộ gia đình, cá nhân để quy định; giá đất được giao bằng giá đất nông nghiệp tương ứng cộng với chi phí đầu tư hạ tầng trên đất nhưng không cao hơn giá đất tại thời điểm thu hồi đất đã được UBND cấp tỉnh quy định và công bố”.
Gia đình ông Nguyễn Khắc Lượng (do con trai là Nguyễn Khắc Kiên đại diện) cũng đã có đơn khiếu nại gửi tới Bộ Tư pháp, yêu cầu làm rõ việc TP Hà Nội chậm chễ ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 17 đã gây thiệt hại cho gia đình người nông dân này. Cụ thể, tới ngày 30/11/2007, UBND TP Hà Nội mới ban hành Quyết định số 137/2007/QĐ-UBND quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn TP Hà Nội và thực hiện tử 1/1/2008. Việc ban hành văn bản chậm chễ gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của gia đình ông Nguyễn Khắc Lượng.
Ngày 23/4 vừa qua, bà Mạc Thị Hoa – Phó Cục trưởng Cục kiểm tra VBQPPL (Bộ Tư pháp) đã ký văn bản số 84/KtrVB, kết luận: Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản theo thẩm quyền quy định tại Nghị định số 40/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật, Cục Kiểm tra văn bản đã tiến hành kiểm tra, đồng thời để có thêm cơ sở, Cục đã chủ trì, tổ chức cuộc họp với đại diện cơ quan liên quan như: Tổng Cục quản lý đất đai – Bộ Tài nguyên và Môi trường; Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội; Sở Tư pháp TP Hà Nội. Bước đầu nhận thấy rằng, ý kiến phản ánh nêu trên của ông Kiên về quyết định số 137 là có cơ sở.
Cục kiểm tra văn bản đã có văn bản kiến nghị UBND TP Hà Nội chỉ đạo việc tự kiểm tra, xử lý nội dung không phù hợp của Quyết định số 137 và thông báo kết quả xử lý cho Cục Kiểm tra văn bản theo quy định của Chính phủ.
Trong quá trình tìm hiểu vụ khiếu kiện của gia đình anh Nguyễn Khắc Kiên, PV đã có dịp tiếp xúc với một số hộ dân cũng bị thu hồi đất phục vụ cho dự án đề-pô xe điện tại xã Tây Tựu. Thật bất ngờ là không chỉ riêng gia đình anh Nguyễn Khắc Kiên, mà có tổng cộng 41 hộ gia đình ở đội 12 thôn Hạ bị thu hồi từ 30% diện tích đất nông nghiệp trở lên, nhưng vẫn không được áp dụng Nghị định 17 của Chính phủ. Điển hình là trường hợp của gia đình ông Nguyễn Hữu Cường bị thu hồi 960m2 (chỉ còn lại khoảng 400m2). Diện tích đất thu hồi lớn lên tới trên 50% nhưng chỉ được đền bù 280 triệu đồng, chính quyền huyện Từ Liêm đã “quên” áp dụng khoản 4 Điều 4 Nghị định 17 của Chính phủ.
Trường hợp thứ hai là hộ gia đình ông Nguyễn Khắc Hợp và Nguyễn Khắc Tiếp đều bị thu hồi trên 50% diện tích đất nông nghiệp nhưng cũng không được áp dụng khoản 4 Điều 4 Nghị định 17.
“Năm 2011, chính quyền xã đo đạc lập biên bản xác minh diện tích đất nhà tôi sử dụng, nhưng đến năm 2013 khi thu hồi đất và đền bù thì cắt gọt hết. Tôi đã đến hỏi cả Chủ tịch xã và cán bộ địa chính thì không ai trả lời được, nên bây giờ chỉ còn chờ đợi vào sự công minh ở cấp thành phố”, ông Tiếp nói.
Thậm chí một số hộ dân còn bị thu hồi 100% diện tích đất nông nghiệp để phục vụ dự án này. Có thể kể tới là gia đình của ông Nguyễn Hữu Gia bị thu 100% diện tích đất nông nghiệp thể hiện trên giấy tờ sử dụng là 744m2. Tổng số tiền đền bù chưa tới 230 triệu đồng và cũng bị “bỏ quên” không áp dụng Nghị định 17 của Chính phủ.
Ông Gia cho biết: “Xã gọi tôi lên trả tiền, từ đó tới nay tôi không được giao quyết định thu hồi đất. Tôi đã rất nhiều lần yêu cầu chính quyền xã phải giao quyết định thu hồi đất để tôi nắm được chính xác việc thu hồi nhưng xã lẩn tránh. Nếu làm ăn đàng hoàng thì tại sao phải giấu quyết định thu hồi đất? Tôi được biết là nhiều hộ khác bị thu hồi đất nhưng cũng chỉ được gọi lên nhận tiền chứ không được giao quyết định thu hồi”.
Một gia đình khác cũng bị thu hồi 100% diện tích đất nông nghiệp là trường hợp của bà Chu Viết Thao. Tổng diện tích bị thu hồi của gia đình bà Thao lên tới 1394m2 nhưng chỉ được đền hơn 400 triệu đồng, cũng không được áp dụng Nghị định 17 của Chính phủ.
Bà Thao cho biết: “Tôi chỉ là một người phụ nữ quanh năm sống ở làng quê, cũng không biết các chính sách thế nào, chỉ đến khi nhiều gia đình bị thu hồi đất cùng đợt với gia đình tôi tìm hiểu thì mới biết là nông dân làng tôi thiệt thòi quá. Chính phủ ra Nghị định cho phép áp dụng các chế độ tạo điều kiện phát triển đời sống cho người nông dân, nhưng không biết vì sao 1 năm sau TP Hà Nội mới áp dụng, để bây giờ gây ra hậu quả là chúng tôi chưa được hưởng đúng chính sách theo quy định của pháp luật. Vì vậy, tôi đề nghị Chủ tịch TP sớm làm rõ nguyên nhân, xử lý những bộ phận nào làm sai, gây ra hậu quả nghiêm trọng thế này”.
2. Báo Hà Nội mới có bài: Có hay không sự bao che từ chính quyền xã? Bài báo phản ánh: Mặc dù việc ông Lưu Văn Thế, cán bộ tư pháp xã Hoàng Kim chiếm dụng 56,8m2 đất công trên địa bàn xóm 4 đã được UBND huyện Mê Linh khẳng định "là có cơ sở" tại Kết luận số 238/KL-UBND, ngày 26-9-2013. Thế nhưng, hơn nửa năm nay, chính quyền địa phương vẫn chưa ra quyết định cưỡng chế, thu hồi đất. Vậy đâu là lý do?
Theo sổ mục kê 299 và bản đồ địa chính xã Hoàng Kim đo năm 2006, trên địa bàn xóm 4 có một lối đi chung, nối từ đường làng ra phía ao thôn Hoàng Xá. Trước những năm 80 của thế kỷ trước, lối đi này thường vẫn được người dân dùng để qua lại giặt giũ, lấy nước phục vụ sinh hoạt. Sau này ao bị ô nhiễm, dân làng bỏ không sử dụng nên ông Lưu Văn Chừ (bố đẻ ông Lưu Văn Thế, cán bộ tư pháp xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh) đã tự ý chiếm dụng 56,8m2 đất ở khu vực dốc ao để trồng tre và chuối. Năm 2005, ông Chừ qua đời, ông Lưu Văn Thế tiếp tục sử dụng phần diện tích nêu trên. Đến năm 2012, không biết bằng cách nào ông Thế đã kê khai, đứng tên nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp cho diện tích này. Lẽ tất nhiên, hành vi của ông Thế không được các hộ gia đình sống liền kề ủng hộ. Thậm chí, một số người còn cho rằng ông Thế đã lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt, nhằm "biến" đất tập thể quản lý thành tài sản cá nhân.
Ngày 28-9-2012, người dân xóm 4 đã có đơn tố cáo hành vi chiếm dụng đất tập thể của ông Thế đến UBND xã Hoàng Kim. Và có lẽ vấn đề sẽ không trở nên phức tạp nếu UBND xã Hoàng Kim sớm làm rõ và xử lý sai phạm theo quy định pháp luật. Cụ thể ở đây là sau khi tiếp nhận đơn thư tố cáo của công dân, UBND xã Hoàng Kim đã "ngâm" vụ việc đến 8 tháng mà không có một dòng hồi âm đến với người đứng đơn. Chỉ đến khi UBND huyện Mê Linh ban hành văn bản số 1503/UBND-VP vào ngày 17-4-2013, yêu cầu UBND xã Hoàng Kim phải giải quyết dứt điểm vụ việc trước ngày 30-4-2013 thì đến ngày 31-5-2013, chính quyền địa phương mới ban hành Kết luận số 01/KL-UBND, trả lời đơn tố cáo của người dân. Điều đáng quan tâm ở đây là nội dung trong Kết luận số 01/KL-UBND đã nêu rõ: "Việc tố cáo ông Lưu Văn Thế lấn đất của tập thể là có cơ sở", nhưng tại buổi làm việc với chính quyền xã vào ngày 13-6-2013, không hiểu vì lý do gì Thanh tra huyện Mê Linh lại yêu cầu UBND xã Hoàng Kim phải kiểm tra lại nội dung của Kết luận số 01/KL-UBND, ngày 31-5-2013. Thực hiện yêu cầu của Thanh tra huyện, ngày 18-6-2013, UBND xã Hoàng Kim tiếp tục ban hành Kết luận số 02/KL-UBND để thay thế cho Kết luận số 01/KL-UBND ngày 31-5-2013. Theo một số nội dung trong kết luận này thì "Hiện tại hộ ông Lưu Văn Thế vẫn đang trồng tre và chuối trên thửa đất phần cuối của ngõ ra dốc ao" và "Việc tố cáo ông Thế lấn đất của tập thể là có cơ sở". Tuy nhiên, việc giải quyết vụ việc vẫn chỉ dừng lại ở mức độ lý giải và chỉ ra vi phạm, sau kết luận kiểm tra nguồn gốc và quá trình sử dụng 56,8m2 đất ở khu vực dốc ao của ông Lưu Văn Thế, UBND xã Hoàng Kim vẫn chưa đề ra được các biện pháp xử lý. Thậm chí, ngay cả khi UBND huyện Mê Linh có Kết luận số 238/KL-UBND, ngày 26-9-2013, thêm một lần nữa khẳng định việc lấn chiếm đất của ông Lưu Văn Thế là có cơ sở, nhưng UBND xã Hoàng Kim vẫn "án binh bất động". Chính vì nguyên nhân này, một số người dân xóm 4 có ý kiến cho rằng chính quyền đã bao che cho vi phạm, từ đó dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài, vượt cấp.
Ông Nguyễn Khắc Hòa, Chủ tịch UBND xã Hoàng Kim lại khẳng định: "Để xử lý vi phạm chiếm dụng đất tập thể của ông Lưu Văn Thế, tôi đã giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Văn Hùng, Phó Chủ tịch UBND xã qua Kết luận số 03/KL-UBND, ngày 3-11-2013". Còn ông Nguyễn Văn Hùng, Phó Chủ tịch UBND xã Hoàng Kim lại cho biết lý do không ra quyết định cưỡng chế vi phạm là bởi trong Kết luận số 03/KL-UBND, Chủ tịch UBND xã Hoàng Kim đã hủy nội dung thứ hai của Kết luận số 02/KL-UBND, ngày 18-6-2013. Nghĩa là sau khi Kết luận số 03/KL-UBND, ngày 3-11-2013 của UBND xã Hoàng Kim có hiệu lực, ông Lưu Văn Thế không còn là đối tượng vi phạm mà chỉ là người sở hữu, thu lợi hoa màu trên đất do bố ông chiếm dụng của tập thể. Với kết luận này, ông Hùng không biết "nhắm" vào ai để xử lý, chẳng nhẽ lại tống đạt quyết định cưỡng chế vi phạm đối với người đã mất.
Từ những căn cứ trên có thể khẳng định vi phạm chiếm dụng đất công tại khu dốc ao, xóm 4 của ông Lưu Văn Thế đã được chính quyền làm rõ. Nhưng để vi phạm kéo dài, không có biện pháp giải quyết dứt điểm, trách nhiệm này trước tiên thuộc về chính quyền xã Hoàng Kim. Đề nghị UBND huyện Mê Linh sớm kiểm tra và xử lý nghiêm vi phạm, tránh tình trạng kéo dài gây mất ANTT trên địa bàn.
3. Báo Sài Gòn giải phóng online có bài: Phép vua thua “quan” huyện? Bài báo phản ánh: Tranh chấp chỉ 250m² đất nông nghiệp nhưng lại kéo dài đến… 25 năm. Nguyên nhân do sự trì hoãn, làm sai luật của một số cán bộ công chức. Sau 25 năm khiếu nại, thắng qua các cấp rồi đến tòa, nhưng cuối cùng ông Huỳnh Văn Hiền cũng không được huyện thi hành án. Rõ ràng, phép vua không qua được “cửa” quan huyện! Chuyện thật như đùa này xảy ra ở xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Ông Huỳnh Văn Hiền được cha ông cho 5.400m² đất gia tộc từ trước giải phóng. Đến năm 1989, chị ông (sống độc thân, ở cùng ông) đã tự tiện bán cho ông Mươi 250m² đất trong khu đất của ông. Ông Hiền biết được yêu cầu chuộc thì ông Mươi vội sang tay cho bà Vân. Trong quá trình xử lý, từ UBND xã đến huyện đều xác định “việc sang nhượng đất vào thời điểm năm 1989 là không hợp pháp vì nhà nước nghiêm cấm việc mua bán đất”. Vụ việc chưa được giải quyết xong, bỗng dưng chủ tịch UBND huyện Chợ Gạo ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất đang tranh chấp cho bà Vân (bên bị kiện). Ông Hiền bức xúc gởi đơn kiện. UBND huyện lấy lý do đất có sổ đỏ nên không xử lý bằng đường hành chính và hướng dẫn ông kiện ra tòa bằng vụ án tranh chấp dân sự giữa ông và bà Vân (chờ tòa giải quyết, nếu ông thắng sẽ cấp sổ đỏ cho ông). Để hợp pháp hóa việc cấp sổ đỏ sai của mình, huyện ngụy tạo bằng hợp đồng do mẹ ông Hiền bán đất cho bà Vân, nhưng hợp đồng viết sai tên người bán, không có chữ ký người bán, đã vậy hợp đồng còn lập sau thời điểm huyện cấp sổ đỏ cho bà Vân đến 9 tháng.
Năm 2006, TAND tỉnh Tiền Giang mới có bản phúc thẩm tuyên ông Hiền thắng, với nhận định các hợp đồng sang nhượng đất đều bị vô hiệu ngay từ đầu (vì thời điểm Luật Đất đai cấm sang nhượng đất). Tưởng vụ việc đã kết thúc, nhưng ngay thời điểm tòa phúc thẩm xử, UBND huyện “nhanh tay” ban hành quyết định thu hồi lại giấy chứng nhận đã cấp cho bà Vân. Thế là bà Vân khiếu nại chính quyền về hành vi thu hồi giấy chứng nhận của bà. Theo trình tự thủ tục, UBND bác đơn khiếu nại của bà, bà kiện lên tỉnh, tỉnh cũng bác đơn. Còn cơ quan thi hành án vẫn… để đó, không thi hành. Quá bức xúc, ông Hiền viết đơn tố cáo lên Tỉnh ủy. Ngày 7-9-2011, Bí thư Tỉnh ủy Trần Thế Ngọc ký tên, đóng dấu ghi rõ “bản án sau 5 năm không được thi hành, yêu cầu UBND huyện Chợ Gạo giải quyết và báo cáo sau 1 tháng”. UBND huyện báo cáo vụ việc đang được TAND thụ lý giải quyết nên chờ quyết định của tòa mới cho thi hành. Thật ra, vụ án tòa thụ lý là vụ án hành chính, do bà Vân kiện UBND huyện vì đã cấp và thu hồi giấy chứng nhận sai, gây thiệt hại cho bà. Đó là vụ án hành chính riêng, còn việc tranh chấp đất giữa ông Hiền và bà Vân đã được tòa phúc thẩm xử lý, bản án đã có hiệu lực pháp luật, đáng ra phải được thi hành ngay.
Vậy là theo UBND huyện Chợ Gạo, ông Hiền thắng kiện nhưng phải chờ tòa xử vụ án hành chính bà Vân kiện UBND huyện rồi mới thi hành. Hết sơ thẩm rồi đến phúc thẩm đều bác yêu cầu của bà Vân, tức việc UBND huyện thu hồi sổ đỏ đã cấp cho bà Vân là đúng. Ông Hiền vui mừng vì giờ chẳng còn lý do gì để huyện trì hoãn việc cấp giấy chứng nhận cho ông. Vậy mà chờ mãi vẫn không thấy thi hành án. Ông lại viết đơn khiếu nại thì ngày 31-10-2013 Chủ tịch UBND xã Trần Văn Đâu gởi văn bản số 03/UBND trả lời: bộ phận 1 cửa UBND xã Bình Ninh đã cùng cán bộ văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện đến đo đạc xác định ranh giới thửa đất số 229, tờ bản đồ số 6, diện tích 250m², loại đất ở nông thôn, tọa lạc tại ấp Bình Phú, xã Bình Ninh, nay theo bản đồ mới là thửa 14, tờ bản đồ số 30, diện tích 199,7m². Ngày 31-10-2013 hội đồng tư vấn đất đai xã thống nhất cấp giấy cho ông Hiền, đồng thời niêm yết 15 ngày.
Thế nhưng, chờ mãi hơn nửa năm vẫn không thấy động tĩnh gì thì ngày 17-4-2014, ông Lê Văn Mỹ, Phó Chủ tịch UBND huyện Chợ Gạo gửi công văn số 444/UBND trả lời ngưng việc cấp giấy chứng nhận cho ông Hiền mà cũng không nêu rõ lý do. “Tôi đến gặp chủ tịch xã hỏi thì được trả lời miệng là do huyện căn cứ vào sổ mục kê năm 1984, trong sổ đó ghi tên người kê khai thửa đất là chị tôi (bà Huỳnh Thị Cúc), vì vậy huyện nhận định thửa đất tranh chấp trên là của chị tôi và chị tôi đã bán cho ông Mươi, ông Mươi bán cho bà Vân nên giờ huyện sẽ cấp sổ đỏ cho bà Vân (!?). Tôi yêu cầu xem tờ mục kê thì đó là tờ giấy khảo sát do cán bộ tự kê khai, chẳng có chữ ký của tôi và chị tôi. Sổ này cũng không đúng với hiện trạng thực tế. Vì nhà tôi xây cất và sinh sống ở đây từ trước giải phóng đến giờ không thay đổi gì”, ông Huỳnh Văn Hiền nói.
Ông Hiền bức xúc: “Tôi được ba mẹ cho đất có giấy tờ của chính quyền xác nhận rõ ràng, bao nhiêu cấp xét xử đều đến khảo sát, xác nhận tôi là đương sự trong các vụ án, các cấp cũng xử xong. Trong các bản án đều xác định hợp đồng sang nhượng đất tại thời điểm nhà nước cấm là hợp đồng vô hiệu. Ngay cả việc làm giả hồ sơ mua bán đất giữa mẹ tôi và bà Vân đến giờ cũng không xử lý cán bộ làm giả hồ sơ. Sau 25 năm, qua bao nhiêu cấp xét xử, nay sự việc bị lật ngược, trắng thành đen, thử hỏi người dân chúng tôi biết kêu ai?”, ông Hiền nói.
4. Báo Người lao động có bài: Đòi bồi thường vì bị giam oan. Bài báo phản ánh: Sau hơn 20 năm kiện vì bị oan sai, nay bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng đương sự vẫn chưa được bồi thường. “Bản án phúc thẩm của TAND Tối cao đã có hiệu lực từ ngày 24-10-2013 nhưng đến nay, VKSND quận 1 vẫn chưa bồi thường cho tôi. Gia đình tôi rất khốn khổ, còn cơ quan thi hành án (THA) thì lúc nào cũng hứa hẹn”. Đây là bức xúc của bà Đỗ Thị Lộc (ngụ quận 1, TP HCM) trong đơn gửi đến các cơ quan chức năng TP mới đây.
Tháng 6-1992, Công an quận 1 có quyết định khởi tố bị can đối với bà Đỗ Thị Lộc về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa. Tháng 7-1992, bà Lộc bị bắt tạm giam theo lệnh của Công an quận 1 và phê chuẩn của VKSND cùng cấp. Tháng 9-1992, VKSND quận 1 hủy bỏ lệnh tạm giam đối với bà Lộc. Tháng 12-1992, VKSND quận 1 có quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra đối với bà Lộc do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Tháng 6-2006, bà Lộc làm đơn yêu cầu VKSND quận 1 bồi thường hơn 127 triệu đồng. Tháng 8-2006, VKSND quận 1 chỉ đồng ý bồi thường cho bà Lộc 8,8 triệu đồng. Do việc thương lượng bồi thường không thành nên cũng trong tháng 8-2006, bà Lộc khởi kiện VKSND quận 1.
Tháng 5-2007, bản án sơ thẩm của TAND quận 1 tuyên buộc VKSND quận 1 bồi thường cho bà Lộc hơn 8,4 triệu đồng. Đồng thời, buộc VKSND quận 1 xin lỗi bà Lộc tại nơi cư trú và đăng cải chính trên báo. Ngoài ra, bản án còn có phần quyết định trách nhiệm chịu lãi do chậm THA. Không đồng ý bản án sơ thẩm, bà Lộc kháng cáo. Tháng 9-2007, Tòa Phúc thẩm TAND TP HCM đã bác đơn kháng cáo của bà Lộc và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau bản án này, bà Lộc liên tục gửi đơn khiếu nại bản án và việc cơ quan chức năng tính chưa đúng số ngày bị tạm giam, nếu đúng phải là 170 ngày.
Ngày 19-4-2011, Tòa Dân sự TAND Tối cao đã có quyết định giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm để xét xử lại với lý do cần làm rõ bà Lộc được trả tự do ngày nào. Ngày 31-7-2013, bản án sơ thẩm của TAND TP HCM tuyên buộc VKSND quận 1 bồi thường hơn 14,8 triệu đồng ngoài số tiền hơn 8,4 triệu đồng bà Lộc đã nhận trước đó. Bà Lộc không đồng ý nên kháng cáo. Ngày 24-10-2013, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP HCM đã tuyên buộc VKSND quận 1 bồi thường cho bà Lộc hơn 28 triệu đồng.
Tuy bản án phúc thẩm của TAND Tối cao tại TP HCM đã tuyên buộc như trên, đồng thời Cục THA dân sự TP HCM cũng đã ban hành quyết định THA theo yêu cầu của bà Lộc nhưng đến nay, VKSND quận 1 vẫn chưa bồi thường. Sốt ruột, bà Lộc gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan chức năng TP nhờ can thiệp. Ngày 11-4-2014, tại Cục THA dân sự TP HCM, đơn vị này chỉ lập biên bản ghi nhận ý kiến bà Lộc đề nghị VKSND quận 1 sớm bồi thường và hứa sẽ xem xét xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đến nay vụ việc vẫn chưa được đơn vị có liên quan thực hiện.
“Tôi bị giam oan nên kiện đòi bồi thường. Và để được bồi thường, tôi phải nhiều lần lên xuống, trải qua bao phiên xét xử từ sơ thẩm, phúc thẩm rồi đến giám đốc thẩm… Tôi bị giam oan nên ngoài việc đối phó với cái nhìn ác cảm từ phía hàng xóm láng giềng, còn bị mất công ăn việc làm. Gia đình lâm cảnh khó khăn khi tôi rơi vào vòng tù tội. Nay được minh oan, việc làm thì không có, còn bệnh tật triền miên không tiền chữa trị” - bà Lộc bức xúc. Tiếp nhận phản ánh của bà Lộc, chúng tôi tìm hiểu vụ việc tại Cục THA dân sự TP HCM. Nơi đây tiếp nhận yêu cầu nhưng đến nay cũng chưa có phản hồi.
6. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Chưa thi hành án được vì vận động không xong (!). Bài báo phản ánh: Án tuyên giao trả nhà nhưng cơ quan thi hành án viện nhiều lý do để chưa cưỡng chế.
Đầu năm 2011, vợ chồng ông T. làm thủ tục mua căn nhà 421/25/9C Bến Phú Lâm, phường 9, quận 6 (TP.HCM) của ông H. và được UBND quận cấp đổi giấy hồng mới. Sau đó ông T. ký hợp đồng cho ông H. thuê lại với giá 2 triệu đồng/tháng. Do hai tháng liên tục ông H. không trả tiền thuê nhà nên ông T. đến tìm thì gặp mẹ con bà A. đang sinh sống trong căn nhà.
Cho rằng phía người thuê không trả tiền thuê nhà, lại tự ý cho người khác vào nhà ở là vi phạm hợp đồng nên vào tháng 7-2011, ông T. khởi kiện yêu cầu ông H. phải giao trả nhà trong vòng một tháng. Tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà A. cho biết: Căn nhà trên có nguồn gốc là của gia đình bà nhưng bà đã làm hợp đồng sang nhượng cho ông H. do trước đó bà thiếu nợ ông H. Nay bà xin trả dần số tiền nợ cho ông H. và không đồng ý giao trả nhà cho vợ chồng ông T. Phía ông H. thì cho rằng trước khi mua bán ông có nói rõ tình trạng của căn nhà cho ông T. biết, việc ông hỏi thuê lại nhà là để gia đình bà A. có thời gian chuyển đi. Nay ông chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T. và cũng mong muốn ông T. sớm được nhận nhà vì việc mua bán giữa ông với ông T. đã được thực hiện hợp pháp.
Cuối năm 2011, TAND quận 6 (TP.HCM) xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông T., tuyên thanh lý hợp đồng thuê nhà giữa ông T. và ông H. do vi phạm hợp đồng. Tòa còn tuyên buộc bà A. và những người đang ở trong nhà phải giao trả nhà trong vòng một tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Tòa cũng ghi nhận ý kiến của ông T. không đòi hai tháng tiền thuê nhà, đồng thời hỗ trợ thêm cho gia đình bà A. 20 triệu đồng chi phí chuyển nhà và thuê nhà khác để ở. Phía bà A. đã kháng cáo theo hướng không trả nhà.
Tháng 4-2012, xử phúc thẩm TAND TP.HCM tuyên y án sơ thẩm. Tại tòa, phía ông T. tự nguyện tăng tiền hỗ trợ cho gia đình bà A. từ 20 triệu đồng lên 50 triệu đồng để gia đình bà tìm chỗ ở mới và được tòa ghi nhận.
Vì phía bà A. không tự nguyện thi hành án (THA) nên Chi cục THA dân sự quận 6 đã ra quyết định THA theo yêu cầu của ông T. Tuy nhiên, từ tháng 5-2012 đến nay vụ việc vẫn giậm chân tại chỗ do Chi cục THA quận không kiên quyết tổ chức thi hành bản án.
Ông T. trình bày: Ông đã nhiều lần yêu cầu Chi cục THA quận tổ chức cưỡng chế việc giao nhà theo Điều 115 Luật THA dân sự nhưng chấp hành viên chỉ ghi nhận ý kiến rồi để đó trong khi bản án của tòa tuyên rõ ràng và chức năng của cơ quan THA là phải bằng mọi cách thi hành bản án của tòa trong thời gian sớm nhất. Ông T. đã liên tục gửi đơn khiếu nại đến Cục THA dân sự TP.HCM, UBND quận và các cơ quan này đều có thông báo đã chuyển đơn cho Chi cục THA quận thi hành theo thẩm quyền.
Ông Nguyễn Văn Minh, Chi cục trưởng Chi cục THA dân sự quận 6, lý giải: Nguyên nhân của sự chậm trễ trên là do cơ quan THA gặp khó khăn trong việc yêu cầu gia đình bà A. giao nhà. Sau khi ra quyết định THA, chấp hành viên đã tống đạt công văn yêu cầu bà A. cùng các con bà phải giao nhà cho vợ chồng ông T. Thế nhưng khi chấp hành viên đến vận động thì phía bà A. nhất quyết không giao nhà vì cho rằng trước kia họ chỉ mượn tiền của ông H. chứ không bán nhà. Chấp hành viên liên hệ với chính quyền địa phương trực tiếp đến gặp phía bà A. để giải thích, vận động, yêu cầu giao nhà cũng không được vì bà không hợp tác.
Cũng theo ông Minh, trong thời gian này phía bà A. gửi hồ sơ vụ án đề nghị TAND Tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm vì cho là hai cấp tòa xét xử vi phạm pháp luật. Do bà A. có đơn đề nghị dừng việc THA nên Chi cục THA quận phải chờ ý kiến của TAND Tối cao. Ngày 7-8-2013, TAND Tối cao có thông báo trả lời cho bà A. là “không có cơ sở để kháng nghị như yêu cầu” vì theo hồ sơ thì việc sở hữu căn nhà của ông T. là hợp pháp. Lúc đó Chi cục THA quận mới tiếp tục THA. Đến cuối năm 2013, bà A. chết, việc THA tiếp tục bị ngưng lại để xác định đối tượng phải thi hành tiếp bản án.
“Hiện Chi cục THA quận đã lên kế hoạch làm việc với ban chỉ đạo cưỡng chế gồm các đại diện ban, ngành có liên quan để thống nhất thời gian và lực lượng để cưỡng chế giao nhà cho vợ chồng ông T. Thời gian cưỡng chế dự kiến vào khoảng tháng 7 tới. Bấy giờ, Chi cục THA quận sẽ kiên quyết giải quyết dứt điểm việc cưỡng chế giao nhà chứ không trì hoãn nữa” - ông Minh nói.
7. Báo Dân trí có bài: “Chi cục thi hành án TP Việt Trì vừa thiếu trách nhiệm vừa vi phạm pháp luật”. Bài báo phản ánh: "Chi cục thi hành án TP Việt Trì (Phú Thọ) cưỡng chế THA phần đất của gia đình bà Nguyễn Thị Minh Phương với tốc độ "chóng mặt", bất chấp hàng loạt sai phạm. Đây là việc làm thiếu trách nhiệm và vi phạm pháp luật nghiêm trọng", luật sư Trương Quốc Hòe phân tích.
Bà Nguyễn Thị Minh Phương (SN 1963), trú tại tổ 57, khu 14, phường Thanh Miếu - TP Việt Trì (Phú Thọ) phản ảnh việc cưỡng chế thi hành án có dấu hiệu vi phạm pháp luật của Chi cục THA dân sự TP Việt Trì với mảnh đất của gia đình bà kéo dài trong suốt hơn 4 năm qua.
Trong Đơn kêu cứu, bà Phương cho biết do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng bà Phương chưa có điều kiện để chấp hành Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 69/2010/QĐST - DS ngày 12/04/2010 của TAND TP Việt Trì (sau đây xin gọi tắt là Quyết định số 69/2010/QĐST-DS), theo đó vợ chồng bà là người có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị Thu Hoàn số tiền gốc và lãi là 393.600.000 đồng.
Bà Phương cho biết hiện nay tài sản duy nhất của vợ chồng bà là quyền sử dụng 370,8m2 đất và tài sản gắn liền trên đất tại thửa đất số 22, tờ bản đồ số 13 theo GCNQSDD số AK 038 429 do UBND TP Việt Trì cấp 26/3/2008, tại địa chỉ: Đội 5, Khu 14, Phường Thanh Miếu, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Khối tài sản này đã được vợ chồng bà thế chấp cho ngân hàng vào năm 2009 để vay 250 triệu đồng cho đến nay vẫn chưa thanh toán xong số tiền vay này.
Bà Phương có nguyện vọng được tự bán tài sản đi để trả nợ cho Ngân hàng và các chủ nợ, trong đó có bà Nguyễn Thị Thu Hoàn (theo Quyết định số 69/2010/QĐST-DS), vì giá trị thực tế của khối tài sản là ngôi nhà của vợ chồng bà lớn hơn nhiều giá trị mà các cơ quan chức năng đã định giá, nhưng nguyện vọng này chưa bao giờ được chấp thuận và tạo điều kiện. Ngược lại, theo bà Phương thì Chi cục THA dân sự TP Việt Trì đã cố đẩy nhanh tiến độ một cách quyết liệt để hoàn tất việc thi hành Quyết định thi hành án số 169/QĐ-THA.
Theo luật sư Hòe: Có thể thấy, trong vụ việc này, quá trình hoàn tất thủ tục thi hành án: từ thông báo thi hành án, đến việc tiến hành xác minh tài sản, cho đương sự một khoảng thời gian tự nguyện thi hành án theo luật định, rồi Quyết định cưỡng chế thi hành án gồm các bước kê biên tài sản, ký kết Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản và Bán đấu giá thành, trải qua rất nhiều công đoạn, liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, đặc biệt liên quan đến công tác niêm yết công khai và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng (đài, báo...) đã được Chi cục THA dân sự TP Việt Trì và các tổ chức liên quan hoàn tất trong vòng hơn hai tháng (từ ngày 27/4/2010 đến ngày 16/7/2010) với một tốc độ quá nhanh chóng nên rất khó có thể đảm bảo tính khách quan và chính xác.
Mỗi quyết định, mỗi văn bản được ban hành chỉ cách nhau có vài ngày, thậm chí là trong cùng một ngày, trong khi vụ việc thì rất phức tạp do: tài sản thi hành án cho bà Nguyễn Thị Thu Hoàn lại đang được thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, diện tích đất kê biên lại lấn sang diện tích đất nhà hàng xóm với con số lên đến gần 50m2, quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ gia đình nhưng chưa được xác định sở hữu riêng theo phần... Do vậy, vụ thi hành án này sẽ phải đưa rất nhiều tổ chức, cá nhân khác vào tham gia chứ không chỉ đơn thuần chỉ có người được THA và người phải THA, cũng như phải thực hiện nhiều bước xác minh, giải quyết tranh chấp tại cả cơ quan khác là Ngân hàng, Phòng Tài nguyên và môi trường TP Việt Trì, UBND TP Việt Trì, UBND phường Thanh Miếu, Tòa án...
Cụ thể, tại Quyết định số 69/2010/QĐST-DS do TAND TP Việt Trì ban hành ngày 12/4/2010 có thống nhất về thời hạn bà Phương cùng chồng là ông Kiều Văn Phú phải có nghĩa vụ thanh toán cho bà Hoàn số tiền 393.600.000 đồng (Ba trăm chín mươi ba triệu, sáu trăm ngàn đồng) là ngày 25/4/2010. Thế nhưng trên thực tế vào ngày hôm đó, ông Phú bà Phương vẫn chưa bán được nhà để trả nợ cho bà Hoàn nên thỏa thuận trên chưa thực hiện được.
Chỉ 02 ngày, ngay sau khi bà Phương không thực hiện được thỏa thuận tại Quyết định số 69/2010/QĐST-DS, và cũng ngay lập tức sau khi có Đơn yêu cầu Thi hành án của bà Hoàn, ngày 27/4/2010, Chi cục THA dân sự TP Việt Trì đã ban hành Quyết định thi hành án số 169/QĐ-THA. Đến ngày 21/5/2010, Chi cục thi hành án dân sự TP Việt Trì đã tiến hành kê biên, phát mại tài sản của bà Phương, ông Phú.
Chỉ 04 ngày sau, vào ngày 01/6/2010, Chi cục THA dân sự TP Việt Trì ký Hợp đồng thẩm định với Công ty tư vấn thẩm định và đầu tư công nghệ Gia Lộc (công văn số 238/CV-THA). Ngày 10/6/2010, công ty Gia Lộc có chứng thư gửi Chi cục THA dân sự TP Việt Trì định giá tài sản trị giá 459.500.000 VND (Bốn trăm năm mươi chín triệu năm trăm ngàn đồng).
Có một điều đáng lưu ý là trong cùng một ngày 21/6/2010, Chấp hành viên Chi cục THA dân sự TP Việt Trì vừa có thông báo số 477/TB-THA về việc chuộc lại tài sản đã kê biên định giá và vừa có công văn số 477/CV-THA gửi Doanh nghiệp tư nhân bán đấu giá tài sản Quảng Uy (sau đây xin gọi tắt là Doanh nghiệp Quảng Uy) về việc ủy quyền bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên từ trước đến nay bà Phương luôn khẳng định gia đình bà chưa hề nhận được bất cứ thông báo chuộc tài sản nào của Chi cục THA dân sự TP Việt Trì nên gia đình bà đã không có cơ hội để thực hiện được quyền này.
Theo hồ sơ thì quyền sử dụng 370,8m2 đất và tài sản gắn liền trên đất, tại thửa đất số 22, tờ bản đồ số 13 tại địa chỉ: Đội 5, Khu 14, Phường Thanh Miếu, TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ được cấp cho Hộ gia đình ông Phú và bà Phương. Mà theo quy định tại Điều 108 Bộ luật Dân sự thì “Tài sản chung của hộ gia đình gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng rừng, rừng trồng của hộ gia đình, tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên hoặc được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài sản chung của hộ”. Và theo Điều 109 thì “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý”.
Vậy theo Khoản 1 Điều 74, Điều 75 Luật THA dân sự năm 2008 quy định về cưỡng chế đối với tài sản chung thì “Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế.
Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án”
Trong vụ việc này, do thời gian tiến hành các bước của quá trình THA quá ngắn nên Chi cục THA dân sự TP Việt Trì đã bỏ qua giai đoạn xác minh tài sản của ông Phú, bà Phương trong khối tài sản chung của hộ gia đình, do vậy đã không thông báo cho hai người con của ông Phú, bà Phương được biết về việc cưỡng chế THA, cũng như không hướng dẫn các đương sự khởi kiện ra Tòa án và chính Chấp hành viên cũng không có yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu riêng của ông Phú, bà Phương trong khối tài sản chung của hộ gia đình, mà vẫn tiến hành kê biên cả phần tài sản thuộc sở hữu của hai người con của ông bà, từ đó xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ.
Ngoài ra, khi tiến hành kê biên tài sản, Chi cục THA dân sự TP Việt Trì đã kê biên sang phần đất nhà ông Lê Minh Khôi 47,5m2, do vậy ông Khôi đã có Đơn khiếu nại về việc này và không đồng ý với việc Chi cục tùy tiện kê biên cả phần đất nhà ông để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của nhà hàng xóm. Vậy căn cứ vào Điều 75 Luật THA dân sự năm 2008 về Xử lý đối với tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp thì trong trường hợp này, Chấp hành viên phải “yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Chấp hành viên xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Toà án, cơ quan có thẩm quyền”.
Thế nhưng kể từ thời điểm đó đến nay, ông Khôi hay gia đình bà Phương cũng chưa bao giờ nhận được bất cứ văn bản nào của Chi cục THA dân sự TP Việt Trì liên quan đến vấn đề trên. Đây thực sự là một việc làm không những thiếu trách nhiệm mà còn vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của gia đình ông Khôi. Là cơ quan thực thi pháp luật, Chi cục THA dân sự TP Việt Trì không thể tùy tiện xâm phạm trái pháp luật quyền lợi của một cá nhân để đảm bảo quyền lợi cho một cá nhân, tổ chức khác. Mọt quyết định, mọi hành vi của cơ quan THA đều phải dựa trên cơ sở pháp luật và tuân thủ pháp luật.
Bên cạnh đó, quá trình bán đấu giá tài sản cũng có rất nhiều sai phạm. Ngày 22/6/2010, Chi cục THA dân sự TP Việt Trì đã ký Hợp đồng ủy quyền số 06/2010/HĐUQ với Doanh nghiệp Quảng Uy về việc bán đấu giá tài sản. Và đến ngày 15/7/2010, chị Lê Thị Bích Điệp có ký Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá với doanh nghiệp Quảng Uy. Và chỉ 01 ngày sau, vào ngày 16/7/2010, Doanh nghiệp Quảng Uy đã bán đấu giá thành với giá 459.500.000đ (Bốn trăm năm mươi chín triệu năm trăm ngàn đồng), bằng đúng giá được nêu trong chứng thư định giá ngày 10/6/2010 của công ty Gia Lộc, người trúng đấu giá là chị Điệp.
Như vậy, chỉ trong đúng 26 ngày, tính từ ngày ký Hợp đồng ủy quyền về việc bán đấu giá, Doanh nghiệp Quảng Uy đã tiến hành bán đấu giá xong tài sản thi hành án và trong quá trình này, Doanh nghiệp Quảng Uy đã bỏ qua nhiều bước quan trọng trong thủ tục bán đấu giá, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Theo xác minh của TAND TP Việt Trì thì “Trong quá trình thực hiện trình tự thủ tục bán đấu giá tài sản, cụ thể là việc niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá tài sản của DNTN bán đấu giá tài sản Quảng Uy có hành vi vi phạm là không niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá tại nơi có bất động sản...” (Bản án số 99/2012/DS-ST ngày 30/7/2012). Do vậy, không thể công nhận kết quả bán đấu giá này được và cần phải tổ chức bán đấu giá lại để đảm bảo sự công bằng cho các đương sự cũng như bảo vệ tính tôn nghiêm của pháp luật.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Dân trí có bài: Thủ tướng sẽ dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 24. Bài báo phản ánh: Nhận lời mời của Tổng thống Cộng hòa Liên bang Myanmar Thein Sein, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng sẽ dẫn đầu Đoàn Đại biểu Việt Nam tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 24, được tổ chức tại Thủ đô Nay Pyi Taw (Myanmar) từ ngày 10 đến 11/5.
2. Báo Vietnam.net có bài: Chính khách Việt và hình ảnh trước công chúng. Bài báo phản ánh: Chế độ bầu cử ở nước ta là Đảng cử, dân bầu. Chính khách của ta dễ trúng cử hơn. Nhưng như thế không có nghĩa ta đứng ra ngoài dòng chảy chung.
Dịch sởi bùng phát, hoãn đăng cai ASIAD, lùi đề án giáo dục 34 nghìn tỷ.... là hàng loạt sự việc nóng dồn dập xảy ra thời gian qua. Tác động xã hội của những sự việc trên đã thu hút sự quan tâm của người dân, và đặc biệt là cách hành xử, phát ngôn trước dư luận của những người đứng đầu. Các "chính khách Việt" đang hành xử ra sao trước những điểm nóng dư luận?
Từ đầu năm 2014 đến nay, nhiều quan chức chính phủ đã có những phát ngôn khiến dư luận dậy sóng. Qua đó có thể thấy kỹ năng làm chủ thông tin, tạo dựng hình ảnh đẹp trước truyền thông và công chúng của nhiều chính khách Việt Nam còn thiếu nhất quán. Trong khi lẽ ra việc chính khách tạo dựng hình ảnh, củng cố niềm tin với công chúng là đương nhiên.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Với chính khách phương Tây, các kỹ năng quyết định trực tiếp đến việc người dân có bỏ phiếu cho họ hay không.
Nếu không có hình ảnh công chúng tốt, họ sẽ không bao giờ trúng cử. Họ buộc lòng phải chú ý đến việc xây dựng hình ảnh công chúng: xuất hiện như thế nào, ăn mặc, phong thái ra sao đều phải được cân nhắc kỹ lưỡng.
Các chính khách ở ta không phải chịu kiểu áp lực như vậy. Chế độ bầu cử ở nước ta là Đảng cử, dân bầu. Đảng giới thiệu các ứng cử viên và người dân bày tỏ nguyện vọng của mình trên cơ sở sự giới thiệu đó, nên chính khách của ta dễ trúng cử hơn. Nhưng như thế không có nghĩa ta đứng ra ngoài dòng chảy chung của nhân loại. Chưa bao giờ công luận lại có sức tác động lớn và gây sức ép đến chính trường và hành động của các chính khách như hiện nay.
Ông Lê Quốc Vinh: Có thể đó là do văn hoá. Hầu hết chính khách của ta đều nghĩ rằng mình phải khiêm tốn, phải kín đáo, phải hạn chế việc xuất hiện trước công chúng. Họ không dám thoát ra khỏi mô hình tư duy cũ đó.
Hơn nữa, ở các nước khác, chính khách đều có một thư ký báo chí đặc trách vấn đề truyền thông cho riêng họ, thậm chí với những chính khách có vị trí cao, còn cần cả trợ lý riêng về mặt hình ảnh cá nhân mỗi khi xuất hiện trước công chúng. Người trợ lý có trách nhiệm giúp đỡ chính khách về trang phục, phong thái, trợ giúp họ những thông tin cơ bản về sự kiện và tư vấn cho họ cả trong vấn đề phát ngôn.
Các chính khách và các cơ quan công quyền của ta nhìn chung đều rất coi thường vấn đề này. Khi một chính sách được đưa ra, họ không quan tâm đến việc người dân sẽ phản ứng thế nào, chỉ đến khi sự phản ứng xuất hiện, họ mới tìm cách giải quyết. Cách làm của các cơ quan công quyền của ta hiện nay làm người dân có cảm giác các nhà lãnh đạo muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, không để ý đến ý kiến của số đông dân chúng.
Ông Lê Quốc Vinh: Khi người dân mất niềm tin ở cơ quan công quyền, phản ứng với các chính sách mới, giận dữ với cá nhân các chính khách thực chất chính là khủng hoảng truyền thông; phải được giải quyết, trốn tránh là tối kỵ. Một số bộ ngành vừa qua đã để một cuộc khủng hoảng kéo dài và ngày càng lan rộng. Từ vấn đề viện phí, quá tải bệnh viện, chuyện y đức, đến chất lượng vaccine... Những cuộc khủng hoảng này do không được xử lý rốt ráo đã để lại hậu quả từ chuyện này sang chuyện khác, hiện hữu thành thiệt hại cho cả xã hội.
Trong đợt dịch sởi vừa qua, người dân đã hoang mang không biết tin theo ai. Phản ứng chậm chạp của cơ quan chức năng cùng với việc thông tin đưa ra thiếu định hướng là nguyên nhân của sự hỗn loạn đó.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Sự tổn thất cho cả Bộ Y tế và cho cả người dân. Hơn 100 trẻ thiệt mạng; không khí hoang mang bao trùm. Những ông bố bà mẹ mua tất cả mọi thứ mà họ nghĩ có thể chống được sởi và chữa được sởi và tạo ra sự khan hiếm đột ngột về vaccine. Đó là tổn hại nặng nề nhất.
Lẽ ra trong tình huống này, Bộ Y tế phải họp báo hàng ngày, cung cấp thông tin cần thiết cho báo chí.
Đối với công tác truyền thông
Ông Lê Quốc Vinh: Tôi không dám nói họ không chuyên nghiệp. Chính xác hơn thì là phương pháp luận của họ chưa đúng, hiểu biết của họ về vai trò của người làm tư vấn truyền thông chưa đầy đủ. Có những người chỉ hiểu truyền thông là làm cho mình "sạch sẽ" nhất trên báo chí. Nhưng những người làm truyền thông chuyên nghiệp sẽ cố gắng để báo chí hiểu chính xác những việc mình làm. Tiếp cận truyền thông một cách chủ động hay bị động sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hình ảnh mà chúng ta định xây dựng.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Hiện tại các cơ quan Bộ đều có bộ phận truyền thông riêng. Nhưng sự quan tâm của lãnh đạo các Bộ cho bộ phận này và tính chuyên nghiệp của nó là vấn đề cần phải xem lại.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Thật ra là, nếu ai đó quyết tâm, nếu quyết liệt vì công việc, người dân sẽ dễ cảm nhận được ngay.
Sự cải thiện hình ảnh rất cơ bản của Bộ trưởng Giao thông vận tải Đinh La Thăng cho chúng ta thấy rõ điều này.
Những cá nhân dù là chính khách hay không chính khách, cơ quan, tổ chức… nói không đúng sự thật, che giấu sự thật, bôi đen hay tô hồng, thanh minh, ngụy biện… sẽ phản tác dụng.
Ông Lê Quốc Vinh: Nhân dân luôn có tâm lý hướng theo những luồng dư luận trùng với suy nghĩ và quyền lợi của họ, chống lại những luồng dư luận trái chiều. Khi nhân dân thấy rằng túi tiền của mình bị ảnh hưởng, bị tiêu xài không đúng cách, thì bất cứ một người nào lên tiếng yêu cầu chấm dứt lãng phí tiền của dân đương nhiên sẽ được người ta ủng hộ.
Ở các sự kiện nóng như không đăng cai ASIAD, đối phó với dịch sởi… Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và một số lãnh đạo bộ ngành nói điều mà người dân đang mong chờ - thì sự ủng hộ là tất yếu.
Hoặc, ngay như Bộ trưởng Đinh La Thăng cũng làm được một điều rất hay: khi ông xuất hiện ở điểm nóng nào, thì người dân sẽ cho rằng đó là hành động thật, vì bất cứ chỗ nào có điểm nóng xuất hiện, là sẽ thấy Bộ trưởng Bộ GTVT xuất hiện.
Ông Nguyễn Sĩ Dũng: Dân vận thực chất cũng là truyền thông. Truyền thông ở giai đoạn trước rất khác so với bây giờ. Người lãnh đạo ngày xưa cũng có hình ảnh công chúng rất tốt. Họ cống hiến, hi sinh - tuyệt đối vô tư, vì một mục tiêu cao đẹp. Vì thế thông điệp của người lãnh đạo ngày ấy đến với công chúng rất nhanh. Đó là cái bây giờ nhiều chính khách không có được.
Một lý do thứ hai là thời nay, truyền thông bây giờ khác xưa rất nhiều. Ngoài báo chí còn có sự tham gia của các mạng xã hội, mà ở đó, chúng ta không thể kiểm soát được đạo đức, ý đồ của người truyền tin cũng như tính chủ quan cá nhân của người tiếp nhận thông tin. Đó là lý do các chính khách phải có kỹ năng đối phó với những vấn đề đó.
Ông Lê Quốc Vinh: Ngày đó một người đứng đầu đất nước, ăn mặc như Bác Hồ, cách nói chuyện và phong thái như Bác Hồ là phù hợp và rất cần thiết.
Hơn nữa, Bác Hồ là một nhà trí thức, đã bôn ba học hỏi nhiều từ phương Tây. Phong thái đó sẽ ảnh hưởng đến Bác Hồ và những chính khách - những trí thức Tây học khác. Chắc nhiều người sẽ lật ngược vấn đề tại sao nhiều quan chức bây giờ cũng là trí thức Tây học mà không làm được như vậy, đó là bởi họ không để ý đến điều đó.
Nhiều chính khách có thể có phong thái rất đàng hoàng, rất chuẩn mực ở các cuộc lễ tân, nhưng tại nơi làm việc rất úi xùi. Người ngoài sẽ nghĩ ông lịch lãm. Còn cán bộ dưới quyền ông ấy sẽ không thấy điều đó. Vô hình chung hình ảnh ông ta sẽ trở nên giả dối, nửa vời. Anh chỉ có thể thoải mái ở giữa những người bạn. Còn khi là chính khách, anh sẽ phải hi sinh.