Điểm tin báo chí các ngày 30 tháng 4, 01 - 04 tháng 5 và sáng ngày 05 tháng 5 năm 2014

05/05/2014
Trong các ngày 30/4, 01-04/5 và đầu giờ sáng ngày 05/5/2014, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Thanh niên Online có bài 'Ông thi hành án' cũng không chấp hành án. Bài báo phản ánh: Bản án buộc Chi cục Thi hành án dân sự Trảng Bom (Đồng Nai) phải bồi thường cho người dân trên 2,5 tỉ đồng, nhưng gần một năm vẫn chưa được thi hành.

Theo đơn khởi kiện của ông Vũ Đức Liêm (ngụ xã Bắc Sơn, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai), vào năm 1997 Đội Thi hành án huyện Thống Nhất (nay là Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom) tiến hành kê biên, phát mãi tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho vợ ông, nhưng không quan tâm đến quyền lợi của ông trong khối tài sản chung dẫn đến gây thiệt hại nặng nề. Tại bản án hình sự phúc thẩm ngày 19.1.2010 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM kết luận hành vi trái pháp luật của ông Đỗ Ngọc Chất (nguyên Đội trưởng) và ông Phùng Văn San (nguyên Chấp hành viên Đội Thi hành án huyện Thống Nhất) trong quá trình kê biên, bán đấu giá tài sản đã “không xem xét giải quyết khiếu nại của đương sự; không thông báo cho đương sự biết việc định giá tài sản, bán đấu giá tài sản và không định giá tài sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”…

Do 5 lần làm đơn yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự (THADS) H.Trảng Bom bồi thường nhưng không được giải quyết nên ông Liêm khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại 4,7 tỉ đồng cho việc bán đấu giá sai quy định.

Tại bản án sơ thẩm vào ngày 23.7.2012, TAND H.Trảng Bom đã buộc Chi cục THADS H.Trảng Bom phải bồi thường cho ông Liêm số tiền 2,5 tỉ đồng. Phiên tòa phúc thẩm diễn ra vào ngày 6.5.2013 tại TAND tỉnh Đồng Nai cũng đã y án sơ thẩm.

Sau khi bản án có hiệu lực, ông Liêm đã làm đơn yêu cầu thi hành án thì nhận được phản hồi từ Chi cục THADS H.Trảng Bom cho rằng, hồ sơ đã chuyển về Cục THADS tỉnh Đồng Nai để thi hành bản án. Trả lời khiếu nại việc “dây dưa” thi hành bản án vào ngày 22.11.2013, Cục THADS tỉnh Đồng Nai cho rằng: “Để thi hành bản án được khách quan, Chi cục THADS tỉnh Đồng Nai đã rút hồ sơ để tổ chức thi hành. Do bản án xét xử có liên quan đến việc bồi thường trách nhiệm nhà nước nên Chi cục THADS tỉnh Đồng Nai đã có văn bản xin ý kiến chỉ đạo giải quyết vụ việc và được Tổng cục THADS hướng dẫn giải quyết vụ việc”.

Trong khi đó, trả lời khiếu nại vào ngày 25.2.2014, Tổng cục THADS (Bộ Tư pháp) cho biết đã hoàn thiện hồ sơ gửi Vụ Kế hoạch - Tài chính của Bộ Tư pháp để thẩm định và làm thủ tục chuyển hồ sơ sang Bộ Tài chính đề nghị cấp kinh phí. Tuy nhiên, đến nay vụ việc vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

“Sau khi bản án có hiệu lực, tôi làm đơn yêu cầu thi hành án nhưng rồi vụ việc cứ “ném qua, đá lại” hết sức mệt mỏi. Tưởng rằng Cục THADS cho biết đã chuyển hồ sơ, Bộ Tài chính sẽ cấp kinh phí cho Cục THADS tỉnh Đồng Nai thi hành bản án nhưng đến nay tôi vẫn phải chờ, không biết kéo dài đến bao giờ. Trong khi đó, gần 17 năm ròng rã, kể từ ngày Đội THA H.Thống Nhất giao tài sản cho người khác, cả gia đình tôi bị trục xuất ra khỏi nhà đến nay vẫn phải sống nhờ nhà người thân”, ông Liêm bức xúc.

2. Báo Tầm nhìn có bài Quận Hoàng Mai có chây ì thực thi pháp luật?. Bài báo phản ánh: Nội dung của bản án Hành chính số 12/2011/HCPT, ngày 29/9/2011 của TAND TP. Hà Nội về “việc xét xử lại vụ án hành chính đã thụ lý số 07/2011/TLPT – HC ngày 23/5/2011, do bản án hành chính sơ thẩm số 01/2011/HCST ngày 14/4/2011 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai bị kháng cáo” thể hiện: gia đình bà Nguyễn Thị Thủy (tức Nguyễn Thị Thanh Thủy), sinh năm 1964, trú số 89, đường Giải Phóng, tổ 10, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội, bị thu hồi đất để thực hiện 03 dự án trên địa bàn quận với diện tích 167,6m2/518 m2, tương đương 32,36% của tổng diện tích đất nông nghiệp được Nhà nước giao.

Vì vậy, theo Điều 48 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ và Điều 40 bản Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 18/2008/QĐ-UBND ngày 29/9/2008 của UBND Thành phố Hà Nội (Quyết định 18/2008/QĐ-UBND) thì bà Thủy bị thu hồi trên 30% đất nông nghiệp nên được hưởng quyền mua nhà chung cư hoặc bồi thường bằng tiền bằng giá trị nhà chung cư. 

Thế nhưng, khi ra Quyết định phê duyệt phương án bồi thường số 1322/QĐ-UBND ngày 25/6/2009, UBND quận đã cắt tiêu chuẩn tái định cư của bà Thủy vì cho rằng, theo sổ quy chủ mà UBND quận thu thập thì diện tích đất nông nghiệp bà Thủy được giao là 711m2, bị thu hồi cả 03 dự án là 115,6m2, bằng 16,19% nên không được hưởng suất tái định cư. 

Sở dĩ có số liệu này là vì UBND quận đã cộng cả 180m2 đất nông nghiệp bà Thủy được thừa kế từ ông nội và cha đẻ cho, cũng như 53m2 đất vườn đã mua đi bán lại cho người khác vào năm 1993. Đồng thời diện tích thu hồi bị giảm đi 52m2 ở dự án Trung tâm hành chính quận. Vì ở dự án này diện tích 52m2 đất lưu không do mẹ bà Thủy đứng tên ký nhận tiền bồi thường. 

Tòa án nhận định, UBND quận cho rằng tại thời điểm thực hiện khoán 10, bà Thủy sử dụng bao nhiêu đất nông nghiệp thì được giao lại bấy nhiêu, không cần xác định nguồn gốc, thủ tục sang tên, tách thửa khi có biện động về tặng cho, nhận chuyển nhượng như trên là không đúng với khoản 2, Điều 40 Quyết định 18/2008/QĐ-UBND. Vì khi xác định đất nông nghiêp của bà Thủy được giao phải trừ đi diện tích đất nhận chuyển nhượng, được tặng cho hoặc được thừa kế mà chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật mới đúng.  

Mặt khác, UBND quận căn cứ sổ quy chủ để xác định tại dự án Trung tâm hành chính quận thì, bà Thủy không bị thu hồi 52m2 đất lưu không mà mẹ đẻ của bà Thủy đã ký tên nhận tiền là không đúng. Vì các nhân chứng là người giao đất nông nghiệp trong khoán 10 đều xác nhận diện tích đất trên là của bà Thủy chứ không phải là của riêng mẹ bà Thủy. Trong quá trình giải khiếu nại, UBND phường cũng thừa nhận điều này.

Không những vậy, nếu căn cứ vào sổ quy chủ thì diện tích bà Thủy bị thu hồi ở cả ba dự án không phải là 115,6m2/711m2, bằng 16,19% mà phải là 265,2m2/714m2, bằng 37%. Bởi tại sổ quy chủ, hộ bà Nguyễn Thị Thủy ở số thứ tự số 21, tại cột đất bị thu hồi xác định 187,2m2 tại thửa số 310 (được xác định là thửa 226 sau này) tờ bản đồ 41B3. Cộng 187,2m2 này với 78m2 bị thu hồi ở dự án xây dựng tuyến đường phía Bắc trung tâm hành chính quận thì bà Thủy bị thu hồi 265,2m2/714m2 bằng 37%. 

Tòa tuyên: Hủy quyết định số 1322/QĐ-UBND ngày 25/6/2009 của UBND quận Hoàng Mai phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với hộ bà Thủy khi thực hiện dự án xây dựng tuyến đường phía Bắc trung tâm hành chính quận Hoàng Mai. Buộc UBND quận Hoàng Mai phải thực hiện hỗ trợ bằng bán nhà chung cư hoặc bồi thường bằng tiền mặt cho hộ bà Thủy theo quy định pháp luật. 

Án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 29/9/2011, bà Thủy có đơn đề nghị yêu cầu thi hành án, ngày 28/5/2012, Chủ tịch UBND quận có công văn số 250/TB-UBND giao nhiệm vụ cho Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận thực hiện việc thi hành án bản án phúc thẩm, hoàn thành trong quý III năm 2012.

Tuy nhiên, sau đó Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận lại không thực hiện mà có ý kiến ngược lại đề nghị UBND thành phố cho ý kiến để kiến nghị giám đốc thẩm bản án và không thực hiện việc thi hành án.

Tại công văn số 851/UBND-BBT ngày 31/7/2012, Ban Bồi thường quận cho rằng, phần quyết định của bản án về việc “buộc UBND quận Hoàng Mai phải thực hiện hỗ trợ bằng bán nhà chung cư hoặc bồi thường bằng tiền cho hộ bà Nguyễn ThịThủy theo quy định pháp luật” là vượt quá thẩm quyền xét xử của tòa án, nên đề nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm.

Nhận xét về bản kiến nghị số 851/UBND-BBT, Luật sư Hoa Hoàng Nhật – Văn phòng Luật sư Huỳnh Nam – Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho rằng: Việc Ban bồi thường cho rằng, tòa tuyên như trên là vượt quá thẩm quyền xét xử của tòa án, mang tính áp đặt chủ quan, quyết định một việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước vi phạm khoản 2, Điều 163 Luật Tố tụng Hành chính là đã không hiểu đúng pháp luật.

Vì khoản 2 của Điều luật này quy định về “Thẩm quyền của Hội đồng xét xử” nêu rất rõ “Hội đồng xét xử có quyền quyết định: ... Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật”, nên việc tòa tuyên buộc UBND quận phải thực hiện việc bồi thường đúng pháp luật cho người dân là đúng luật.

Thế nhưng, không hiểu vì sao căn cứ vào văn bản kiến nghị giám đốc thẩm của Ban Bồi thường giải phóng mặt bằng quận chưa được cấp có thẩm quyền chấp thuận này, UBND TP. Hà Nội có văn bản số 1425/UBND-TNMT ngày 22/2/2013 chỉ đạo: tạm dừng việc xem xét chính sách cho bà Thủy theo bản án hành chính phúc thẩm để chờ kết quả trả lời đơn kiến nghị giám đốc thẩm của cấp có thẩm quyền thì mới tổ chức thực hiện sau.

Luật sư Nhật cho rằng, việc UBND thành phố chỉ đạo UBND quận dừng thi hành án như trên là trái quy định pháp luật. Vì theo quy định tại Điều 241 Luật Tố tụng hành chính về “Những bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính được thi hành” thì bản án, quyết định của tòa án cấp phúc thẩm phải được thi hành ngay. 

Việc UBND quận Hoàng Mai có ý kiến gửi Tòa án nhân dân tối cao đề nghị xem xét lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, hay tái thẩm không phải là lý do để dừng thi hành án. Muốn dừng thi hành án thì phải có ý kiến bằng văn bản của Chánh án tòa án nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Vì theo quy định tại Điều 212 và 213 Luật Tố tụng Hành chính về “Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm” và “Hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật” thì chỉ có hai người trên là có quyền tạm hoãn thi hành án hành chính, song cũng chỉ trong thời hạn không quá 03 tháng. Chính vì vậy, việc làm của Phó Chủ tịch UBND TP.Hà Nội như trên là có dấu hiệu lộng quyền.

3. Báo Pháp luật Việt Nam Online có bài "Một cú a lô" hoãn THADS ở “phút 89”?. Bài báo phản ánh: Theo luật, Tòa, Viện là cơ quan được quyền yêu cầu hoãn THA để xem xét lại bản án, nhưng thực tế có rất nhiều cơ quan yêu cầu hoãn với đủ lý do. Nhiều cơ quan đề nghị hoãn bằng văn bản, có dấu đỏ, chữ ký “tươi“, nhưng nhiều cơ quan, thậm chí người có thẩm quyền yêu cầu hoãn bằng… một cú điện thoại. Cơ quan THA “rắn mặt” thì từ chối hoặc đề nghị cung cấp văn bản, có nơi thì đành chấp nhận hủy cuộc cưỡng chế.

Dù Luật Thi hành án dân sự (THADS) đã quy định các trường hợp được hoãn thi hành án (THA), tuy nhiên, thực tế việc hoãn lại “muôn hình vạn trạng”, lý do thì nhiều và cơ quan đề nghị hoãn cũng không biết bao nhiêu. Cá biệt có nhiều vụ hoãn chỉ bằng… một cú a lô.

Ông Nguyễn Minh T. ở quận Cầu Giấy, Hà Nội là người phải THA trong một vụ án chia thừa kế. Do ông T. không tự nguyện thi hành, cơ quan THA phải lên phương án cưỡng chế. Nhận được quyết định này, ông T. đột ngột nhập viện và xuất trình bệnh án với bệnh gan đang ở giai đoạn… nguy cấp. Cơ quan THA phải lùi kế hoạch cưỡng chế lại một thời gian. 

Ba tháng sau ông T. xuất viện, quyết định cưỡng chế được tiếp tục thực hiện. Lại giống như lần trước, lần này gia đình ông T. cũng xuất trình bệnh án với bệnh tiểu đường. Rút kinh nghiệm, cơ quan THA đến tận nơi làm việc với bệnh viện và bác sỹ khẳng định bệnh tiểu đường của ông không nguy hiểm đến tính mạng như ông trình bày.

Những trường hợp giả bệnh như ông T. nói trên giờ không hiếm. Thậm chí nhiều người còn tìm mọi cách... để được ốm nhằm trốn tránh nghĩa vụ THA. Công dân trốn THA đã đành, nhiều cơ quan nhà nước không có chức năng hoãn cũng yêu cầu hoãn một cách rất tràn lan. Còn nhớ cách đây ít năm, cơ quan THA một thành phố đang chuẩn bị cưỡng chế một vụ THA đình đám thì bị UBND tỉnh yêu cầu hoãn vì sắp diễn ra một cuộc thi hoa hậu. 

Theo luật, Tòa, Viện là cơ quan được quyền yêu cầu hoãn THA để xem xét lại bản án, nhưng thực tế có rất nhiều cơ quan yêu cầu hoãn với đủ lý do. Nhiều cơ quan đề nghị hoãn bằng văn bản, có dấu đỏ, chữ ký “tươi“, nhưng nhiều cơ quan, thậm chí người có thẩm quyền yêu cầu hoãn bằng… một cú điện thoại. Cơ quan THA “rắn mặt” thì từ chối hoặc đề nghị cung cấp văn bản, có nơi thì đành chấp nhận hủy cuộc cưỡng chế.

Đó là chưa kể việc hoãn THA vì phải chờ chính các cơ quan có thẩm quyền hoãn (Tòa án, VKS). Nhiều trường hợp THA phải đợi Tòa giải thích, tuy nhiên, nhiều vụ đợi mãi mà Tòa không giải thích, hoặc giải thích vòng vo. Những vụ Tòa, Viện yêu cầu hoãn trong thời hạn 3 tháng để rút hồ sơ lên xem xét để kháng nghị nhưng sau thời gian đó, Tòa, Viện cũng không trả lời. Ngược lại, có những vụ đã trả lời là không có cơ sở xem xét kháng nghị, THA chuẩn bị tiếp tục đưa ra thi hành thì lại có kháng nghị, THA lại hoãn một lần nữa...

Cục trưởng Cục THADS Hà Nội Lê Quang Tiến phản ánh, trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều vụ sát ngày cưỡng chế mới có văn bản hoãn, gây rất nhiều khó khăn cho công tác THA. “Để đi đến quyết định và tổ chức việc cưỡng chế, nhất là đối với các vụ án phức tạp, cơ quan THA phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc. Vậy mà đùng cái, cuộc cưỡng chế lại bị hoãn, điều này không những gây lãng phí ngân sách mà còn gây bức xúc cho đương sự, khiến họ khiếu kiện kéo dài” - ông Tiến nói.

Báo cáo công tác THADS của Tổng cục THADS cho biết: số việc phải hoãn THA chiếm số lượng lớn (100.152 việc, tương ứng với số tiền gần 6.000 tỷ đồng). Trong nhiều nguyên nhân được chỉ ra có nguyên  nhân “một số cơ quan THA có biểu hiện ngại va chạm”. 

Để THA không hoãn vào “phút 89”, các ngành chức năng cần đề cao trách nhiệm và tinh thần “thượng tôn pháp luật”; không can thiệp vào hoạt động của cơ quan THA nếu không thuộc thẩm quyền; bên cạnh đó, cần xử lý nghiêm những trường hợp can thiệp trái pháp luật. Về phía cơ quan THA cũng cần kiên quyết hơn trong việc cưỡng chế THA để bảo đảm án có hiệu lực phải được thi hành.

4. Báo Tuổi trẻ Online có bài Bình Phước: xem xét kỷ luật 2 phó giám đốc sở. Bài báo phản ánh: UBND tỉnh Bình Phước vừa có văn bản giao Sở Nội vụ tham mưu UBND tỉnh xem xét, thi hành kỷ luật về mặt hành chính đối với ông Trương Văn Phẩm (56 tuổi, phó giám đốc Sở Tài chính), ông Nguyễn Tuấn Cảnh (54 tuổi, phó giám đốc Sở Tư pháp, giám đốc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh) và ông Trần Minh Luân (52 tuổi, giám đốc Quỹ phát triển đất tỉnh, nguyên trưởng phòng giá - quản lý công sản Sở Tài chính) theo quy định hiện hành, đồng thời gửi văn bản tham mưu về UBND tỉnh trước ngày 9-5.

Ngày 21-4-2014, Tỉnh ủy Bình Phước đã ban hành các quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức cách tất cả các chức vụ trong Đảng đối với ba ông trên.

Ông Nguyễn Văn Thành - chánh văn phòng kiêm người phát ngôn UBND tỉnh Bình Phước - xác nhận cơ quan điều tra đã đình chỉ điều tra ba vụ án do các cá nhân sai phạm đã tự thỏa thuận với nhau để khắc phục hậu quả. Ba vụ án nói trên gồm: bán đấu giá vườn cao su tạo quỹ làm đường Lộc Tấn - Bù Đốp, xây dựng nhà liên kế Đài phát thanh - truyền hình Bình Phước và thanh lý rừng giá tỵ tại xã Tân Lập, huyện Đồng Phú. Cả ba vụ án đều liên quan tới những sai phạm của nguyên chủ tịch UBND tỉnh Trương Tấn Thiệu và nhiều cán bộ cao cấp của tỉnh mà Ủy ban Kiểm tra trung ương đã kết luận từ cuối năm 2012.

5. Báo Thanh niên Online có bài Chấn chỉnh tình trạng hôn nhân bất hợp pháp. Bài báo đưa tin: UBND tỉnh Kon Tum vừa có công văn yêu cầu các huyện, ngành trong tỉnh chấn chỉnh tình trạng hôn nhân bất hợp pháp, nhất là đối với người Trung Quốc.

Thống kê của tỉnh Kon Tum cho biết có 6 phụ nữ địa phương đã được giải quyết kết hôn với người Trung Quốc. Gần đây xuất hiện tình trạng phụ nữ ở Kon Tum chung sống như vợ chồng với người Trung Quốc đang làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn, trong đó một số đã sinh con nhưng chưa có thủ tục kết hôn theo quy định. UBND tỉnh Kon Tum cũng chỉ đạo các xã, thị trấn phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp cấp giấy chứng nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài để đăng ký kết hôn với người nước ngoài.

6. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Không nên hủy bỏ giấy khai sinh. Bài báo phản ánh: Nên hay không nên hủy bỏ giấy khai sinh và vấn đề thời điểm nào thì được cấp thẻ căn cước tiếp tục gây nhiều tranh cãi tại phiên họp toàn thể lần thứ 14 của Ủy ban Pháp luật Quốc hội diễn ra ngày 28-4 tại TP Đà Nẵng.

Theo quy định của dự thảo Luật Căn cước công dân (CCCD), thẻ CCCD được cấp từ khi làm thủ tục khai sinh. Như vậy, khi trẻ được sinh ra, người nhà phải vừa đến cơ quan hộ tịch làm thủ tục đăng ký khai sinh (như hiện hành) vừa phải đến cơ quan công an làm thủ tục để cấp thẻ CCCD. Nhiều quan điểm cho rằng đây là vấn đề cần phải xử lý liên quan đến cả Luật Hộ tịch và Luật CCCD, nếu không sẽ phát sinh thêm giấy tờ, thủ tục tốn kém đối với người dân. Điều đó cũng đi ngược với mục tiêu đơn giản hóa giấy tờ, thủ tục hành chính.

Theo đại biểu Lê Minh Trọng (Tây Ninh), chúng ta đang đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thiểu các loại giấy tờ nhưng nếu quy định thế này “một người mới sinh ra đã phải làm đến hai lần giấy tờ, vừa đăng ký khai sinh vừa đi làm thẻ căn cước, rất phức tạp” - ông Trọng nói.

Về việc tiếp tục duy trì việc cấp giấy khai sinh (bản chính) hay chỉ làm thủ tục đăng ký khai sinh rồi trích lục sử dụng khi công dân có yêu cầu, nhiều đại biểu cho rằng không thể hủy bỏ việc cấp giấy khai sinh vì đây là căn cứ đầu tiên đánh dấu sự ra đời của một công dân và là cơ sở nền tảng để làm các giấy tờ liên quan về sau cho công dân. “Giấy khai sinh là căn cứ đầu tiên chứng nhận cái quyền cơ bản nhất của con người” - đại biểu Trọng nói.

Theo đó, một số ý kiến cho rằng khi sinh ra vẫn có thể giữ nguyên đăng ký và cấp giấy khai sinh nhưng trên giấy khai sinh cấp luôn số định danh. Sau này khi đủ 14 tuổi thì chuyển sang thẻ căn cước. Hai loại giấy tờ này thuộc hai giai đoạn khác nhau, giao cho hai cơ quan khác nhau quản lý. Cụ thể, trước 14 tuổi giao cho Bộ Tư pháp, sau 14 tuổi giao cho Bộ Công an.

II- THÔNG TIN KHÁC

Báo Điện tử Chính phủ có bài Phản đối giàn khoan bất hợp pháp của Trung Quốc. Trả lời câu hỏi của phóng viên về thông báo hàng hải ngày 3/5/2014 của Cục Hải sự Trung Quốc nói rằng giàn khoan HD-981 tiến hành khoan và tác nghiệp tại vị trí có tọa độ 15o29’58” vĩ Bắc – 111o12’06” kinh Đông từ ngày 2/5 đến 15/8/2014, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nêu rõ:

"Vị trí tọa độ hoạt động của giàn khoan HD-981 nêu trong thông báo hàng hải của Cục Hải sự Trung Quốc nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý.

Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình được xác định phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.

Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp pháp và vô giá trị, Việt Nam kiên quyết phản đối".

Liên quan đến vấn đề trên, ngày 4/5/2014, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã có thư gửi Chủ tịch và Tổng giám đốc của Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc cực lực phản đối hành động này và kiên quyết yêu cầu Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc dừng ngay lập tức các hoạt động bất hợp pháp và rút giàn khoan HD-981 ra khỏi vùng biển của Việt Nam.

Việc làm nói trên của Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc đi ngược lại tinh thần hợp tác giữa hai Tập đoàn Dầu khí quốc gia, trái với thông lệ của các hoạt động dầu khí quốc tế cũng như phương châm hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Tập đoàn Dầu khí Việt Nam yêu cầu Tổng Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc không để tái diễn những việc làm tương tự.



File đính kèm