I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Phụ nữ có bài: Sẽ trực tiếp tháo gỡ từng trường hợp trẻ không giấy khai sinh. Bài báo phản ánh: Ngôi làng với hơn 400 đứa trẻ không được làm khai sinh ở ấp Tà Dơ, xã Tân Thành, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh, ông Hoàng Kim Chiến - Phó cục trưởng Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp bất ngờ:
"Đúng là từ vài năm nay, việc bà con Việt kiều từ Campuchia trở về theo con đường không chính thức đã diễn ra khá nhiều tại các địa phương giáp biên giới. Chúng tôi đã đi thực tế nhiều nơi như Tịnh Biên (tỉnh An Giang), làng nuôi cá bè ở La Ngà (tỉnh Đồng Nai)… để ghi nhận và hướng dẫn việc giúp dân về thủ tục tư pháp. Thế nhưng, Cục Công tác phía Nam chưa nắm được thông tin về làng Việt kiều ở ấp Tà Dơ này".
- Ông Hoàng Kim Chiến: Về việc đăng ký khai sinh, nguyên tắc chung là mọi trẻ em sinh ra đều được đăng ký khai sinh. Khoản 2, điều 5, Nghị định 158/NĐ-CP về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định:“Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha, mẹ, con phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó”.
Như vậy, để làm được các giấy tờ tùy thân khác như CMND, hộ khẩu… thì điều kiện là phải có giấy khai sinh, đồng thời phải xác định được nơi cư trú hợp pháp theo quy định của Luật Cư trú. Việc quản lý và đăng ký hộ khẩu do cơ quan công an thực hiện. Đối với các trường hợp di cư về Việt Nam sinh sống theo con đường không chính thức, chính quyền có trách nhiệm giải quyết, trong đó việc vận động trở lại nơi người ta đã rời đi cũng là một trong những giải pháp để ổn định, nhất là ở một số khu vực biên giới.
* Được biết, hơn bốn năm trước, xã Tân Hòa, cùng huyện Tân Châu nơi ông Trần Quang Ghi từng làm lãnh đạo cũng có hơn 80 hộ Việt kiều Campuchia kéo về. Ông Ghi là người đi xin ý kiến chỉ đạo, chỉ đạo lại các ban ngành ở xã giúp dân kê khai, ổn định cuộc sống. Sau 5 năm, một số hộ dân đầu tiên ở Tân Hòa đã có hộ khẩu. Vậy tại sao ở Tân Thành chưa có hướng ra?
- Ông Hoàng Kim Chiến: Nhận được thông tin từ Báo Phụ Nữ, chúng tôi vừa liên hệ với ngành tư pháp Tây Ninh, được biết cơ quan công an và tư pháp địa phương đang rất nỗ lực giải quyết, ví dụ như hướng dẫn hồ sơ nhập quốc tịch đối với các trường hợp có giấy tờ và những trường hợp không có giấy tờ tùy thân đã cư trú tại Việt Nam trong thời gian từ 5-20 năm theo quy định tại các điều 19, 20, 21, 22 Luật Quốc tịch 2008. Thật ra, theo đúng luật, ông Ghi và lãnh đạo ở Tân Hòa cũng chỉ cấp được giấy tờ cho người dân sau khi họ về sống ở đó trên 5-10 năm.
- Ông Hoàng Kim Chiến: Quy định là như thế. Khoảng thời gian 5-10 năm đối với một đời người không ngắn, nếu có quyền nhân thân, chắc hẳn đứa trẻ ấy sẽ có được nhiều thứ khác chứ không riêng chuyện được đến trường. Trong tháng Tư này, Cục Công tác phía Nam, Bộ Tư pháp sẽ về Tân Thành, Tân Châu để trực tiếp tháo gỡ cho từng trường hợp để các trẻ ở đây có thể có giấy khai sinh.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài: Vụ Văn phòng luật sư bị tố “bắt cá hai tay”. Bài báo phản ánh: Nguyên đơn được hoàn trả 40 triệu đồng. Bài báo phản ánh: Ngày 8-4, TAND TP.HCM đã tuyên án vụ tranh chấp hợp đồng tư vấn pháp luật giữa Văn phòng Luật sư ĐVT (gọi tắt là VPLS) với ông Lai Vĩnh K. (huyện Hóc Môn).
Theo trình bày của VPLS thì vào tháng 7-2011, hai bên có ký hợp đồng tư vấn pháp luật với các nội dung chính là VPLS sẽ bảo vệ quyền lợi cho ông K. một vụ tranh chấp nhà tại các cấp tòa. Thù lao là 5% tính trên giá trị ông K. hưởng trong hai bất động sản theo quyết định của tòa. Ông K. tạm ứng trước cho VPLS 20 triệu đồng, còn lại sẽ thanh toán đủ khi quyết định, bản án của tòa có hiệu lực pháp luật...
Đến đầu năm 2012, TAND TP.HCM đã ra quyết định công nhận hòa giải thành giữa các đương sự. Sau đó, ông K. né tránh việc thanh toán tiền công cho VPLS. Khi thi hành án, ông K. đã nhận được khoảng 534 lượng vàng SJC. Theo hợp đồng, ông K. phải thanh toán cho VPLS 26 lượng vàng nhưng VPLS khởi kiện yêu cầu ông K. chỉ thanh toán 800 triệu đồng mà thôi.
Ngược lại, ông K. khẳng định bên nguyên đơn nói không đúng. Sau khi ký hợp đồng và nhận cọc, phía VPLS đã không hề tư vấn bảo vệ quyền lợi cho ông tại tòa cũng như trong giai đoạn thi hành án.
Xử sơ thẩm tháng 10-2013, TAND huyện Hóc Môn tuyên VPLS thắng kiện. Ông K. kháng cáo và VKS cũng kháng nghị. Tại phiên phúc thẩm ngày 4-4, phía VPLS nói chỉ tư vấn cho bên ông K. bằng miệng thông qua điện thoại hay trao đổi trực tiếp và có soạn đơn, không có giấy chứng nhận tham gia vụ kiện bảo vệ cho thân chủ mà tòa cấp...
Đáng chú ý, phía VPLS thừa nhận trước khi ký hợp đồng tư vấn pháp luật với ông K., VPLS có nhận bảo vệ quyền lợi cho anh ông K. (nguyên đơn trong vụ tranh chấp hai bất động sản với ông K.). Dù vậy VPLS vẫn cho rằng chuyện này không có gì sai bởi sau khi anh ông K. chết thì VPLS mới ký hợp đồng tư vấn pháp luật với ông K.
3. Báo Người cao tuổi có bài: Huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre: Vì sao bản án có hiệu lực pháp luật sau 10 năm không được thi hành? Bài báo phản ánh: Khi còn nghèo, hai vợ chồng thuê đất làm vườn kiếm sống, khá lên thì tìm mọi thủ đoạn chiếm đoạt tài sản của chủ đất. Đó là hành vi “trả ơn” cho người giúp đỡ mình của vợ chồng ông Nguyễn Văn Bòn và bà Nguyễn Thị Mật. Cả hai bản án sơ, phúc thẩm đã tuyên có hiệu lực pháp luật 10 năm nay, nhưng Cơ quan Thi hành án tỉnh Bến Tre vẫn “nơm nớp sợ hãi” bởi có sự can thiệp thô bạo từ nhiều phía. Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án huyện Giồng Trôm cho rằng: “Do có sự can thiệp của Tỉnh ủy Bến Tre, nên đang tạm ngưng!” buộc chủ đất là con liệt sĩ phải đội đơn đi kêu oan suốt 10 năm nay, ôm nỗi đau trong cô đơn và vô vọng!…
Năm 1989, vợ chồng bà Nguyễn Thị Mãng ở ấp 3, xã Bình Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre li hôn. Bà Mãng được chia 3.032m2 đất vườn để có nguồn nuôi các con nhỏ. Do quá khó khăn, bà làm hợp đồng thỏa thuận cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Bòn và bà Nguyễn Thị Mật thuê toàn bộ diện tích đất này với giá 25 chỉ vàng 24k để lấy vốn sản xuất, ít năm sau các con lớn, bà sẽ chuộc lại đất theo cam kết. Vừa thuê một thời gian ngắn, thấy bà Mãng đi làm ăn xa, vợ chồng ông Bòn, bà Mật âm thầm bán 3.032m2 đất của bà Mãng cho bà Châu Thị Yến ngụ cùng ấp với bà Mãng giá 115,5 chỉ vàng 24k. Trong khi khu đất này bà Mãng đang là người đứng tên chủ sở hữu đã được UBND huyện Giồng Trôm cấp GCNQSDĐ vào ngày 22/8/2000. Vì không được sự đồng ý của bà Mãng nên hai bên mua bán giữa vợ chồng ông Bòn, bà Mật và bà Yến không sang tên đổi chủ được. Chờ đợi mãi, buộc lòng bà Yến gửi đơn khởi kiện ra tòa yêu cầu vợ chồng ông Bòn, bà Mật thực hiện hợp đồng mua bán về chuyển đổi chủ sở hữu.
Trước hai phiên tòa, bà Mật khai báo gian dối cho rằng, diện tích đất này bà Mãng đã bán cho vợ chồng bà từ năm 1991. Tòa hỏi chứng cứ thì bà Mật không cung cấp được loại giấy tờ nào thể hiện việc chuyển nhượng. Trong nội dung Tờ trình của UBND xã Bình Hòa ngày 22/4/2001 và Biên bản giải quyết tại xã Bình Hòa ngày 5/7/2001, biên bản hòa giải của TAND huyện Giồng Trôm ngày 30/8/2002 đều thể hiện lời khai của ông Bòn (chồng bà Mật) là 3.032m2 đất này do vợ chồng ông Bòn trực tiếp thuê của bà Mãng. Tòa sơ thẩm xác định, việc vợ chồng ông Bòn, bà Mật bán đất của bà Mãng cho bà Yến vào thời điểm 1996 là gây thiệt hại và xâm phạm đến quyền lợi của bà Mãng, vi phạm Điều 30 Luật Đất đai 1993, vi phạm khoản 1, Điều 693 Bộ luật Dân sự. Tại Quyết định Bản án dân sự sơ thẩm số 62/DS-ST của TAND huyện Giồng Trôm xét xử ngày 4/8/2014 tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Nguyễn Văn Bòn, bà Nguyễn Thị Mật với bà Châu Thị Yến. Vì ông Bòn đã chết, nên Tòa buộc bà Nguyễn Thị Mật giao trả lại cho bà Nguyễn Thị Mãng 3.032m2 đất vườn và hoa màu trên đất.
Không tuân thủ án sơ thẩm, bà Châu Thị Yến và bà Nguyễn Thị Mật có đơn kháng cáo lên Tòa phúc thẩm. Tại Quyết định Bản án phúc thẩm số 122/DS-PT ngày 31/12/2004, Tòa phúc thẩm TAND tỉnh Bến Tre tuyên “Y án sơ thẩm”. Cả hai bản án sơ, phúc thẩm nêu trên xét xử hợp tình hợp lí, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, được dư luận xã hội tại địa phương đồng tình ủng hộ triệt để. Vậy mà bản án đã có hiệu lực thi hành từ cuối năm 2004, đến nay đã 10 năm trôi qua mà Cơ quan Thi hành án tỉnh Bến Tre vẫn án binh bất động. Bà Yến, bà Mật tiếp tục có đơn khiếu nại lên TAND Tối cao.
Ngày 25/5/2005, TAND Tối cao có Văn bản số 1073/CV-DS trả lời đơn khiếu nại “không có cơ sở để chấp nhận các yêu cầu khiếu nại của các bà”. Tuy vậy, Cơ quan Thi hành án huyện Giồng Trôm vẫn cố tình “ngâm” hồ sơ và không tổ chức thi hành bản án. Mãi tới gần một năm sau, ngày 22/3/2006, chấp hành viên Trần Thanh Bình mới kí Quyết định cưỡng chế giao quyền sử dụng đất số 03/QĐ-CC-THA, buộc bà Châu Thị Yến phải tháo dỡ toàn bộ căn lều tạm di dời đi nơi khác giao trả 3.032m2 đất vườn và hoa màu trên đất cho bà Nguyễn Thị Mãng. Thời gian thực hiện cưỡng chế vào lúc 13 giờ 30 ngày 28/3/2006. Bà Yến không những không chấp hành mà còn chạy chọt nhờ người có thân thế địa vị ngăn cản. Ngày 8/5/2006, ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Bến Tre thừa lệnh Ban Thường vụ Tỉnh ủy kí Công văn số 245/CV-TU gửi Thường trực Huyện ủy Giồng Trôm đề nghị mời giúp Chủ tịch UBND huyện, Chủ tịch Ủy ban MTTQ huyện, cựu Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Hòa và các đương sự là bà Yến, bà Mãng để cho ông Nguyễn Thế Hiệp, chuyên viên Ban Nội chính Trung ương (bộ phận phía Nam) tiếp xúc vì lí do bà Yến có đơn khiếu nại các bản án nêu trên. Đây là hành vi can thiệp, quá thô bạo đối với công tác xét xử độc lập của ngành Tòa án và Thi hành án. Bà Mãng tiếp tục gửi đơn yêu cầu thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Ngày 16/10/2006, Tổng Cục thi hành án Dân sự Bộ Tư pháp có Công văn số 891/ BTP-THA gửi Thi hành án Dân sự tỉnh Bến Tre nêu rõ: “Thực hiện ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Tư pháp, báo cáo Văn phòng Trung ương Đảng về kết quả giải quyết đơn khiếu nại của bà Mãng. Cục Thi hành án Dân sự yêu cầu Trưởng Thi hành án Dân sự tỉnh Bến Tre chỉ đạo Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm có biện pháp tổ chức thi hành bản án theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án Dân sự năm 2004, báo cáo kết quả về Cục Thi hành án Dân sự”. Ngày 11/6/2007, Trưởng Thi hành án Dân sự huyện Giồng Trôm Trần Thanh Bình kí tiếp Thông báo số 90/TB-THA về việc tiếp tục thực hiện Quyết định cưỡng chế số 03/QĐ-CC-THA ngày 22/03/2006 cũng do ông Bình kí trước đó gần một năm. Khi thông báo này vừa mới tống đạt đến tay bà Yến thì có sự “chỉ đạo miệng” buộc ngưng cưỡng chế thi hành án. Cũng trong ngày 11/6/2007, ông Trần Thanh Bình, Trưởng Thi hành án Dân sự huyện Giồng Trôm buộc phải kí tiếp Thông báo số 91/TB-THA về việc tạm dừng tổ chức cưỡng chế, lí do: “Theo yêu cầu của lãnh đạo cấp trên chỉ đạo tạm dừng tổ chức cưỡng chế đối với vụ án Châu Thị Yến”.
Quá phẫn nộ với sự bảo kê cho kẻ cố tình mua bán tài sản bất hợp pháp, bà Nguyễn Thị Mãng tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương. Ngày 6/11/2008, Trưởng Thi hành án Dân sự huyện Giồng Trôm Trần Thanh Bình kí Thông báo số 215/TB-THA về việc tiếp tục thực hiện Quyết định cưỡng chế số 03/QĐ-CC-THA ngày 22/3/2006. Thời gian tiến hành vào lúc 8 giờ, ngày 8/12/2008. Lần này thì UBND tỉnh đã lộ rõ sự “can thiệp thô bạo” vào một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Trước cưỡng chế 3 ngày, ông Trần Thanh Bình, Trưởng Thi hành án Dân sự huyện Giồng Trôm lại phải kí tiếp Thông báo số 232/TB-THA về việc tạm dừng cưỡng chế thi hành án đối với vụ bà Châu Thị Yến, lí do ngày 4/12/2008, UBND tỉnh Bến Tre có Công văn số 4909/UBND-NC chỉ đạo với nội dung: “Do ảnh hưởng tình hình an ninh chính trị, trật tự xã hội tại địa phương nên không thể thi hành bản án dân sự này được”. Sự can thiệp thô bạo, bất chấp luật pháp và đạo lí của UBND tỉnh Bến Tre dẫn đến hậu quả gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho gia đình bà Nguyễn Thị Mãng, con gái của liệt sĩ Nguyễn Văn Ngựa hi sinh năm 1968. Hành vi này thể hiện sự vô đạo đức đối với một gia đình liệt sĩ. Vụ án tiếp tục bị ngâm suốt 10 năm đến nay vẫn không được thi hành. Ngày 26/8/2010, Văn phòng Chủ tịch nước có Công văn số 994/VPCTN-PL gửi Tổng cục Thi hành án Dân sự Bộ Tư Pháp truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch nước về việc giải quyết theo thẩm quyền đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Mãng, báo cáo kết quả lên Chủ tịch nước. Ngày 16/12/2010 Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre có Công văn số 133/KN-ĐĐBQH gửi Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Giồng Trôm yêu cầu Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Giồng Trôm sớm tổ chức thi hành Bản án dân sự phúc thẩm số 122/DS-PT ngày 3/12/2004 của TAND tỉnh Bến Tre để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. Trước đó, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre đã kí hàng loạt văn bản gửi Chi cục Thi hành án huyện Giồng Trôm và Viện trưởng Viện KSND Tối cao, Chánh án TAND Tối cao nhưng tất cả các văn bản của của Đoàn và của các cơ quan ở Trung ương đều bị vô hiệu hóa? Ngày 30/11/2012, Tổng cục Thi hành án Dân sự Bộ Tư pháp kí tiếp Văn bản số 2600/TCTHADS-GQKNTC gửi Cục trưởng Cục Thi hành án tỉnh Bến Tre. Tổng cục Thi hành án Dân sự yêu cầu Cục trưởng Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bến Tre chỉ đạo giải quyết đúng quy định pháp luật và báo cáo kết quả thực hiện về Tổng cục trước ngày 7/12/2012. Cấp trên chỉ đạo như vậy nhưng Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bến Tre vẫn không thực hiện được. Trao đổi với phóng viên Báo Người cao tuổi, ông Nguyễn Văn Thảo, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Giồng Trôm cho biết, vụ án có hiệu lực pháp luật đã 10 năm rồi, nhưng vì có sự can thiệp trực tiếp của Tỉnh ủy và UBND tỉnh nên chưa thi hành được.
Sự can thiệp thô bạo, trái pháp luật của một số quan chức thuộc Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bến Tre với một gia đình liệt sĩ là thiếu chuẩn mực đạo đức, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Cơ quan Thi hành án, làm tổn thương tới sự tồn vong của hệ thống pháp luật. Đừng vì một sự bao che dung túng cho những hành vi tiêu cực mà biến ngành Tòa án và ngành Thi hành án thành “ô-sin” trong những khu tự trị đầy quyền lực áp đặt.
4. Báo VTC News có bài: Vụ trưởng về hưu vẫn được 'giữ lại': Bộ Tư pháp giải thích thế nào?. Bài báo phản ánh: Người phát ngôn Bộ Tư pháp khẳng định việc kéo dài thời gian công tác đối với một Vụ trưởng thêm 6 tháng là đúng với quy định pháp luật hiện hành và điều này xuất phát từ nhu cầu của Bộ Tư pháp.
Sáng 8/4, tại cuộc họp báo quý II/2014, Ông Trần Tiến Dũng, Chánh văn phòng Bộ Tư pháp đã trả lời báo chí một số câu hỏi liên quan về một số trường hợp cán bộ quá tuổi nghỉ hưu nhưng vẫn được kéo dài thời gian công tác.
Liên quan đến trường hợp của ông Trần Văn Quảng, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ Tư pháp), nếu theo đúng tuổi sẽ nghỉ hưu từ ngày 1/3/2014 nhưng sau đó đã được Ban cán sự Đảng ủy Bộ Tư pháp đồng ý kéo dài thời gian công tác thêm 6 tháng đến tháng 9/2014.
Trường hợp của TS Dương Thị Thanh Mai, được hưởng phụ cấp của viện trưởng dù đã nghỉ hưu và không còn giữ chức Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý.
Về 2 trường hợp trên, người phát ngôn Bộ Tư pháp khẳng định, việc kéo dài thời gian làm việc với 2 ông bà này là đúng với quy định pháp luật hiện hành và điều này trước hết xuất phát từ nhu cầu của Bộ Tư pháp.
Về việc kéo dài tuổi nghỉ hưu 6 tháng đối với ông Quảng, Chánh Văn phòng Bộ Tư pháp cho biết, theo Điều 187 khoản 3 Bộ Luật lao động có quy định người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có trình độ quản lý có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 5 năm quy định.
Đồng thời điều này cũng giao cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành. Chính phủ đã thảo luận và cho ý kiến và đang trình cơ quan có thẩm quyền cho ý kiến, xem xét quyết định. Trong thời gian Chính phủ chưa ban hành thì Bộ Tư pháp vận dụng quy định của điều luật để quyết định kéo dài 6 tháng với ông Quảng vì xuất phát từ nhu cầu của Bộ Tư pháp.
“Thời điểm ông Quảng nghỉ hưu Bộ Tư pháp có sự biến động lớn về lãnh đạo bộ, có 2 thứ trưởng luân chuyển, từ 1/5 thứ trưởng Hoàng Thế Liên nghỉ hưu, sắp tới chỉ còn 2 thứ trưởng.
Hơn nữa 2 thủ trưởng đơn vị cũng được Ban bí thư xem xét luân chuyển về địa phương. Lần đầu tiên, Bộ thí điểm thi tuyển lãnh đạo cấp vụ. Ông Quảng có năng lực, học ở nước ngoài, sức khỏe vẫn đáp ứng yêu cầu công tác” – Ông Dũng lý giải.
Theo ông Dũng, Ban cán sự Bộ Tư pháp đã tổ chức cuộc họp, mời đại diện Ban tổ chức trung ương và Ban nội chính và ban cán sự đảng Bộ Tư pháp đã thống nhất kéo dài tuổi nghỉ hưu của ông Trần Văn Quảng và có thông báo của Ban cán sự gửi các cơ quan trung ương, công bố công khai tại giao ban các đơn vị thuộc Bộ.
“Và đến thời điểm này chưa nhận được phản ứng nào của cán bộ công chức viên chức Bộ Tư pháp” – người phát ngôn Bộ Tư pháp khẳng định.
Đối với TS Dương Thị Thanh Mai, ông Trần Tiến Dũng cho biết, việc kéo dài thời gian công tác được tuân theo Nghị định 71/2010 về thời gian công tác đến độ tuổi nghỉ hưu.
“Kéo dài cũng xuất phát từ nhu cầu công tác của bộ ngành, cần người có chuyên môn cao, nghiên cứu khoa học, xây dựng chiến lược. Thời gian qua bà Mai đã tham gia vào nhiều dự án luật quan trọng cũng như chính sách quan trọng của Bộ Tư pháp. Bà Mai có đầy đủ năng lực chuyên môn, sức khỏe và năng lực chuyên môn. Lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý cũng hết sức quan trọng” – ông Dũng lý giải.
Chế độ công tác của bà Mai được quy định tại Điều 7 Nghị định 71, đó là cán bộ công chức kéo dài thời gian công tác được hưởng lương và chế độ theo nguyên tắc, được đảm nhận tiền lương và các chế độ không thấp hơn tiền lương, trước khi kéo dài thời gian công tác. Thông tư 02/2005 của Bộ Nội vụ, hướng dẫn phụ cấp cán bộ lãnh đạo công chức viên chức: được bảo lưu mức phụ hưởng.
“Thực tế đã chứng minh, quyết định đúng đắn của Ban cán sự Đảng bộ Bộ Tư pháp. Ngày 15/1/2014, Bộ trưởng đã ký quyết định cho TS Dương Thị Thanh Mai được nghỉ hưu sau 5 năm để hưởng chế độ bảo hiểm” – Ông Dũng nói.
II. THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Người cao tuổi có bài: Tỉnh Hà Tĩnh: Lập tờ trình lừa Thủ tướng xin vốn ODA dùng sai mục đích. Bài báo phản ánh: Theo tờ trình xin vốn ODA của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh (ông Võ Kim Cự) gửi Thủ tướng Chính phủ thì: Dự án tái định cư, di dời khẩn cấp dân ra khỏi vùng lũ lụt ở phường Trung Lương, thị xã Hồng Lĩnh có vốn đầu tư 89,4 tỉ đồng, vì “hoàn cảnh kinh tế tỉnh khó khăn” nên phải nhờ Chính phủ hỗ trợ. Sau khi hoàn thành là phải di dời khẩn cấp 66 hộ dân nằm trong vùng lũ lụt ngoài đê La Giang vào khu tái định cư này. Nhưng, khi công trình hoàn thành, chính quyền địa phương chỉ cấp cho 5 hộ không đúng đối tượng vào khu tái định cư, diện tích còn lại UBND thị xã Hồng Lĩnh thông báo bán. Danh sách 66 hộ dân cho đến thời điểm này vẫn là con số “bí ẩn”. Có thể khẳng định, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh lập tờ trình “lừa” Thủ tướng Chính phủ xin vốn ODA xây dựng khu dân cư để bán.
Theo đơn của bà Nguyễn Thị Bông ở khối 8, phường Trung Lương tố cáo lãnh đạo phường này không cấp đất tái định cư cho bà theo diện phải di dời khẩn cấp những hộ dân nằm trong vùng lũ lụt ngoài đê La Giang mà lại cấp cho 5 hộ khác không nằm trong diện tái định cư.
Hồ sơ cho thấy: Dự án tái định cư di dời khẩn cấp, khắc phục lụt bão (giai đoạn 1) trên diện tích 2ha trong số 10,5ha đất bị thu hồi, được đầu tư 30 tỉ đồng trong số 89,4 tỉ đồng mà Chính phủ cấp cho phường Trung Lương bằng vốn ODA. Tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ xin vốn số 2371/UBND-GT do Chủ tịch UBND tỉnh kí ngày 18/7/2011. Cùng ngày 18/7/2011, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Nguyễn Nhật kí Quyết định số 2359/QĐ-UBND về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng khu tái định cư ở phường Trung Lương theo Tờ trình số 85 ngày 7/7/2011 của UBND thị xã Hồng Lĩnh. Các thủ tục được hoàn tất vào tháng 2/2012. UBND thị xã Hồng Lĩnh là chủ đầu tư, Công ty TNHH Như Nam (Hồng Lĩnh) là nhà thầu được chỉ định. Đất bị thu hồi làm dự án là đất hai vụ loại một, thường xuyên trồng lúa giống. Dự án tái định cư được khởi công đầu năm 2012 và hoàn thành giữa năm 2013.
Theo hồ sơ dự án thì sau khi xây dựng xong phải di dời khẩn cấp 66 hộ dân vào khu tái định cư. Nhưng khi dự án xây dựng xong, chính quyền địa phương chỉ cấp đất cho 5 hộ không thuộc đối tượng được xét. Số diện tích còn lại UBND thị xã Hồng Lĩnh thường xuyên rao bán với giá 2,2 triệu đồng/m2.Vì bức xúc với kiểu làm việc “trên trời, dưới đất” của chính quyền, bà Bông đã làm đơn tố cáo gửi nhiều nơi, trong đó có Báo Người cao tuổi.
Trong hồ sơ thể hiện mức độ khẩn cấp của dự án là để bảo vệ tính mạng cho những người dân nằm trong vùng lũ lụt đặc biệt, nhưng sau khi hoàn thành dự án thì lại thông báo bán các lô đất. Nghi ngờ danh sách 66 hộ dân thuộc diện di dời mà UBND phường Trung Lương lập là danh sách “ma”, Phóng viên đề nghị UBND phường Trung Lương cung cấp bản danh sách nhưng Chủ tịch UBND phường trả lời là lập xong chuyển lên thị xã nên phường không giữ. Tên những hộ dân thuộc diện di dời phường cũng không nhớ, còn 5 hộ không đúng đối tượng mà lại được cấp đất thì chủ tịch trả lời là do cán bộ địa chính cũ khi nghỉ “không bàn giao hồ sơ” nên việc họ đã được cấp đất để di dời những năm trước nhưng đã bán cho người khác phường không biết. Phường chỉ giúp thị xã lập danh sách thôi, ngoài ra phường chẳng biết gì.
Làm việc với UBND thị xã Hồng Lĩnh thì được cung cấp hồ sơ dự án còn bản danh sách 66 hộ dân phải di dời khẩn cấp thì… không có?
Nơi cuối cùng có thể có bản danh sách đó là Chi cục Phát triển Nông thôn. Nhưng ông Ngô Văn Oánh, cán bộ Chi cục (Sở NN&PTNT), người theo dõi, giám sát chi trả việc di dời dự án này khẳng định: Tôi chỉ được giao danh sách 5 hộ, còn danh sách ở đâu tôi không biết. Nhà nước đầu tư tiền để di dời dân lụt bão khẩn cấp mà UBND thị xã Hồng Lĩnh lại xây dựng dự án rồi thông báo bán đất là sai lầm nghiêm trọng, đầu tư không đúng mục đích là “tự thắt cổ mình”.
Dự án di dời khẩn cấp dân trong vùng lũ lụt ở Trung Lương có vốn đầu tư 89,4 tỉ đồng, nhưng chỉ đầu tư xây dựng giai đoạn một 30 tỉ đồng, số tiền 59,4 tỉ đồng còn lại có người cho rằng chính quyền địa phương dùng vào thi công một số tuyến đường nội đồng được đổ bê-tông theo tiêu chuẩn đường giao thông nông thôn nhưng chủ yếu là để trâu, bò đi nên chất lượng kém và rất lãng phí, trong khi Nhà nước đang ngừng cấp vốn đối với các công trình không trọng điểm vì điều kiện kinh tế khó khăn theo Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Chúng tôi đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ NN&PTNT, Bộ Tài chính và các cơ quan chức năng khác rà soát, kiểm tra lại các dự án này, xử lí nghiêm các dự án đầu tư kém hiệu quả, kém chất lượng và sai mục đích, đây là vốn vay của nước ngoài (ODA), tiền thì có thể vào túi một số “quan tham”, còn nợ thì nhân dân Việt Nam phải gánh.
2. Báo Hà Nội mới online có bài: Dự thảo Pháp lệnh xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng tại tòa án: Quá nhiều “sạn”! Bài báo phản ánh: Mặc dù đã được Ủy ban Tư pháp của Quốc hội góp ý từ ngày 7-8-2013, nhưng đến tháng 3-2014, nghĩa là sau 7 tháng, Dự thảo Pháp lệnh Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng tại tòa án do TAND tối cao xây dựng và công bố vẫn chưa thay đổi. Trong khi đó, nhiều nội dung của dự thảo được cho là không bảo đảm tính hợp hiến và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Văn Hiện cho biết, thời gian qua, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã cùng một số cơ quan liên quan tổ chức phiên họp toàn thể để thẩm tra Dự thảo Pháp lệnh Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng tại tòa án. Sau đó, TAND tối cao có công văn đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội lùi thời gian xem xét, cho ý kiến để nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm tra của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội và chuẩn bị kỹ hơn. Thế nhưng, dự thảo lần 2 mà cơ quan này nhận được vẫn là dự thảo cũ, không chỉnh sửa bất kỳ nội dung nào và TAND tối cao cũng không có báo cáo giải trình lý do giữ nguyên dự thảo đã trình lần 1.
Đáng chú ý, dự thảo có một số quy định chưa bảo đảm tính hợp hiến và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Ngay cả nội dung đặc biệt quan trọng là thể chế hóa quyền con người cũng được yêu cầu xem xét lại. Đơn cử, Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 1-1-2014 quy định, "quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật", song, quy định về hành vi bị xử lý, người bị xử lý… của dự thảo đã mở rộng hơn so với quy định của các đạo luật tố tụng hiện hành, nếu triển khai sẽ làm hạn chế các quyền cơ bản của công dân. Cụ thể, theo Điều 26 dự thảo thì chánh án TAND tối cao, chánh án Tòa án Quân sự TƯ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả; tuy nhiên, theo Điều 48 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì chánh án TAND tối cao, chánh án Tòa án Quân sự TƯ không được giao thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Trong khi đó, chánh án Tòa án Quân sự khu vực, chánh án Tòa án Quân khu được giao thẩm quyền xử phạt tại Điều 48 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì lại chưa được ghi nhận trong dự thảo pháp lệnh.
Để xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của tòa án, dự thảo nêu "người có thẩm quyền xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của tòa án có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ người". Đề xuất này vừa mâu thuẫn với Luật Xử lý vi phạm hành chính, vừa trái Bộ luật Tố tụng Dân sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự. Theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Văn Hiện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần giao cơ quan chủ trì soạn thảo chuẩn bị lại dự thảo và phải sửa từ tên gọi, vì Nghị quyết của Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành "Pháp lệnh xử lý hành chính các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân". Thế nhưng, cơ quan soạn thảo đã sửa lại là "Pháp lệnh xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của tòa án". Việc sửa lại tên Pháp lệnh đã làm "thay đổi bản chất" hành vi bị xử lý, hình thức trách nhiệm, phạm vi điều chỉnh của pháp lệnh và trình tự, thủ tục cũng như các chế tài xử lý không đúng với yêu cầu Nghị quyết của Quốc hội.
Một vấn đề khác đang trở thành tâm điểm của dư luận hiện nay, đó là xử lý hành vi đưa tin sai sự thật, TAND tối cao cũng có những đề xuất lệch chuẩn. Như Báo Hànộimới đã có bài phản ánh, hiện nay đang có mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với báo chí đưa tin sai sự thật. Trước thực tế này, Chính phủ đã yêu cầu Bộ Tư pháp cùng Bộ Thông tin và Truyền thông làm rõ. Sau khi nghiên cứu, 2 cơ quan trên chung quan điểm phải có công văn kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng thống nhất quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi đưa tin và cung cấp sai sự thật của báo chí và các cơ quan chức năng. Theo đó, thanh tra các ngành khác khi phát hiện báo chí sai phạm chỉ có quyền đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông xem xét ra quyết định xử phạt. Song, không hiểu lý do gì, TAND tối cao vẫn chưa cập nhật thông tin này, để rồi tự cho mình thẩm quyền phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến 5 triệu đồng…
Không chỉ ban hành dự thảo lệch chuẩn, dự thảo có 58 điều thì có đến 26 điều, khoản trùng lặp với quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính, trái với quy định tại khoản 2 Điều 8 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trước sự đa dạng, phức tạp của đời sống hiện nay, bất kỳ một dự thảo luật nào ra đời cũng luôn chứa đựng những rủi ro về khả năng thiếu khả thi khi áp dụng. Nhưng để đến mức nhiều sạn ngay trong quá trình xây dựng dự thảo là chuyện không bình thường, khiến không ít người có cảm tưởng các nhà soạn dự thảo cứ ngồi trong phòng rồi vẽ ra các quy định "trên trời", vô cảm với các đối tượng chịu tác động.