I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Thanh niên online có bài: Án oan và xin lỗi. Bài báo phản ánh: Vừa qua, trong chưa đầy tuần lễ, các cơ quan tư pháp tổ chức một loạt cuộc xin lỗi công khai đối với những người bị kết án oan. Cụ thể, ngày 28.3, Tòa án nhân dân (TAND) TP.Hải Phòng xin lỗi ông Nguyễn Hồng Cầu (ở H.Tiên Lãng) vì đã kết án oan ông 3 tháng tù từ... hơn 17 năm trước.
Cùng ngày, TAND TP.Cà Mau tuyên buộc cấp cao hơn là TAND tỉnh Cà Mau phải bồi thường và tổ chức xin lỗi công khai bà Nguyễn Ánh Minh (P.5, TP.Cà Mau) do đã kết án oan, giam giữ oan sai 562 ngày. Sau đó, ngày 4.4 TAND TP.Hà Nội tổ chức xin lỗi công khai ông Phạm Đức Bình (P.Lý Thái Tổ, Q.Hoàn Kiếm) bởi từng kết án oan 30 tháng tù với ông cách nay… 14 năm. Không thể nói những vụ xin lỗi là những điểm son của ngành tư pháp bởi đã để xảy ra oan sai thì có gì đáng khen nhưng dẫu sao thốt ra được lời xin lỗi người trước kia từng bị đưa ra vành móng ngựa thì kể ra cũng đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cũng có những điều cần xem lại.
Khi hứng chịu án oan, đâu chỉ một cá nhân đau khổ mà còn có khi còn kéo theo gia đình, dòng họ bị chê cười; vợ (chồng) con cái bị hắt hủi, thậm chí gia đình tan nát, tài sản khánh kiệt, danh dự bị chà đạp. Không ai có thể đo đếm, tính toán được những thiệt hại về vật chất và tinh thần của người và gia đình họ bị oan sai. Bởi thế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có hẳn Nghị quyết 388/2003 về bồi thường oan sai, trong đó nêu rõ “Việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong các trường hợp bị oan phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: Kịp thời, công khai và đúng pháp luật (điều 3); Người bị oan được khôi phục danh dự. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải xin lỗi, cải chính công khai cho người bị oan (điều 4); được bồi thường những thiệt hại về vật chất và tinh thần (điều 5)...
Giá như các cơ quan gây oan sai cứ căn đúng đó mà thực hiện thì người bị oan sai cũng nhẹ lòng phần nào, đằng này nhiều nơi nhiều cấp không những không làm thế mà còn cố tình dây dưa, kéo dài, đồng nghĩa với việc kéo dài chuỗi tủi nhục, chỉ biết kêu trời của những người bất hạnh. Ví dụ như trường hợp ông Nguyễn Hồng Cầu (Hải Phòng) được TAND tối cao xử giám đốc thẩm tuyên vô tội từ tháng 10.1998 nhưng mãi 17 năm sau mới chính thức được xin lỗi, thế gì khác gì chịu tù thêm 17 năm. Ông Phạm Đức Bình (Hà Nội) thì oan ức khổ sở đằng đẵng chờ suốt 14 năm mới có buổi xin lỗi công khai. Không những thế, có cơ quan công quyền dường như chỉ cốt làm cho xong chứ chẳng thành tâm nhận lỗi. Người bạn tôi tham dự buổi xin lỗi “công khai” do TAND TP.Hải Phòng tổ chức ngày 28.3 đã bực bội rằng họ nói công khai nhưng tổ chức rất kín đáo, trong phòng nhỏ, rất chóng vánh, không cho dân vào chứng kiến, thậm chí phóng viên báo chí đến đưa tin cũng bị đuổi ra ngoài. Xin lỗi kiểu đó, không xuất phát từ tấm lòng thành, đến mức người được xin lỗi cũng bất bình, than thở “đây là buổi xin lỗi công khai... trong buồng”.
2. Báo Pháp luật và Xã hội có bài: Dịch thuật công chứng sẽ là nghề kinh doanh có điều kiện? Bài báo phản ánh: Nhu cầu lớn về chứng thực chữ ký người dịch thời gian qua đã tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh chóng của đội ngũ người dịch trên địa bàn TP Hà Nội.
Tuy nhiên, do quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, điều kiện của người dịch còn đơn giản nên Hà Nội hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý người dịch, đặc biệt là chất lượng bản dịch.
Người dịch không bắt buộc phải là cộng tác viên dịch thuật mà chỉ cần là người thông thạo tiếng nước ngoài cần dịch và có bằng cử nhân ngoại ngữ. Điều này tuy tạo thuận lợi cho người dân trong việc lựa chọn người dịch song chất lượng bản dịch cũng như lợi ích của người yêu cầu dịch thuật không được đảm bảo.
Trong khi đó khoản 2, Điều 18, Nghị định 79/2007/NĐ-CP dù đã quy định người dịch phải cam đoan và chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản dịch nhưng lại chưa có chế tài ràng buộc. Cộng thêm trong việc chứng thực chữ ký người dịch của cán bộ chứng thực mới dừng lại ở chứng thực chữ ký người dịch đã dẫn đến chất lượng bản dịch còn nhiều bất cập.
Tình trạng dịch sai, nhầm lẫn, không thống nhất, không đầy đủ, không chính xác, sai về ngữ pháp xảy ra khá nhiều trong các bản dịch. Thậm chí có trường hợp nội dung bản dịch trái với bản gốc. Hoặc người dịch khi dịch do không đối chiếu với bản gốc nên dịch cả những bằng cấp giả mạo, dịch những giấy tờ không đúng với quy định của pháp luật.
Những bất cập kể trên không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích của người yêu cầu dịch thuật mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến các cơ quan Nhà nước liên quan, trong đó có hệ thống cơ quan ngoại giao, lãnh sự, xuất nhập cảnh khi tiếp nhận, xử lý bản dịch theo chức năng, nhiệm vụ và không ít lần các cơ quan này đã có ý kiến phản hồi về chất lượng bản dịch.
Đại diện Sở Tư pháp Hà Nội cho hay, mặc dù thời gian qua các cơ quan chức năng của Hà Nội đã thực hiện nhiều biện pháp siết chặt quản lý đối với cộng tác viên cũng như các doanh nghiệp dịch thuật nhưng với số lượng hàng trăm doanh nghiệp đang hoạt động về lĩnh vực dịch thuật trên địa bàn thì việc quản lý các doanh nghiệp này là không đơn giản. Hiện thủ tục cấp phép cho một doanh nghiệp với ngành nghề kinh doanh là dịch thuật khá dễ dàng do dịch thuật không phải là ngành nghề kinh doanh có điều kiện nên chủ doanh nghiệp không cần có chứng chỉ hành nghề.
Do vậy, hiện nay đang tồn tại thực trạng là người dịch và Cty dịch thuật không có ai quản lý, hoạt động chủ yếu trên sự thỏa thuận với người có nhu cầu dịch thuật. Thù lao dịch thuật cũng tùy theo sự thỏa thuận của người dịch và người có nhu cầu dịch thuật nên không tránh khỏi việc người có nhu cầu dịch thuật có thể phải trả khoản phí dịch thuật cao hơn mặt bằng chung.
Để khắc phục tình trạng kể trên, Hà Nội đề xuất, việc sửa đổi Luật Công chứng cần có các quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện của người dịch; trách nhiệm của tổ chức hành nghề dịch thuật, người dịch thuật. Theo bà Nguyễn Thị Ánh Hồng, Phó Trưởng phòng Tư pháp quận Ba Đình, “cán bộ Tư pháp rất khó khăn trong việc kiểm tra tiêu chuẩn người dịch do chưa có quy định hướng dẫn cụ thể.
Việc kiểm tra khả năng “thông thạo tiếng nước ngoài” của người dịch hiện chỉ được xem xét căn cứ trên bằng cử nhân ngoại ngữ của họ trong khi nhiều trường hợp người dịch chỉ có các chứng chỉ ngoại ngữ như TOEFL, IELTS. Dù thực tế đây là những chứng chỉ quốc tế có giá trị, có độ tin cậy cao chứng minh được khả năng “đọc thông viết thạo” của người dịch, cán bộ Tư pháp vẫn phải từ chối việc chứng thực”. Việc có một Hội đồng kiểm tra trình độ dịch thuật (do Bộ Tư pháp thành lập) để kiểm tra trình độ dịch thuật người dịch vì vậy hết sức cần thiết. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, Bộ Tư pháp lập và công bố danh sách, thông báo công khai cho các cơ quan, tổ chức và người dân biết.
Bên cạnh việc kiểm tra trình độ người dịch, nhiều ý kiến cũng đề nghị Luật Công chứng sửa đổi cần quy định cụ thể, rõ ràng về những loại văn bản, giấy tờ nào không được dịch và không được chứng thực chữ ký người dịch; quy định rõ thẩm quyền và trình tự thủ tục thu hồi, hủy bỏ các bản dịch đã được chứng thực chữ ký người dịch nhưng phát hiện có sai sót về nội dung dịch thuật hoặc các bản dịch có bản gốc là các giấy tờ giả mạo mà người dịch và người chứng thực chữ ký không phát hiện ra.
3. Báo VN Express có bài: Cục trưởng Thi hành án tự ý kê biên tài sản bị xét xử. Bài báo phản ánh: Ngoài việc tự ý kê biên 12 ôtô không được tuyên trong bản án, Cục trưởng Thi hành án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu còn can thiệp kết quả đấu giá để trục lợi, gây thiệt hại cho nhà nước.
Sau hai lần hoãn tòa vì nhiều lý do, chiều 10/4, TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đưa ra xét xử vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với 3 bị cáo: Trần Văn Mười (nguyên cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh), Lê Minh Huy Hoàng (nguyên phó cục trưởng, khi bị bắt là chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự TP Vũng Tàu) và Hoàng Anh Linh (nguyên chuyên viên Nội chính Văn phòng Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu).
Theo cáo trạng, năm 1999 TAND Tối cao tại TP HCM xét xử phúc thẩm ông Trịnh Vĩnh Bình (Việt kiều Hà Lan) và những người liên quan với cáo buộc vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai. Bản án phúc thẩm kiến nghị UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xem xét xử lý theo thẩm quyền 2 nhà xưởng rộng 40.000 m2 cùng 9 ngôi nhà và đất do ông Bình "mua bán trái phép trên địa bàn tỉnh".
|
Tài sản này sau đó được Phòng Thi hành án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (nay là Cục thi hành án) kê biên. Lúc này, Hoàng và Linh phát hiện tại kho trên đường Võ Thị Sáu có 12 ôtô không thuộc phần tài sản được tuyên trong bản án. Thay vì xác minh rõ nguồn gốc và chủ sở hữu, Mười chỉ đạo Hoàng và Linh cưỡng chế kê biên luôn cả lô xe này. Họ bán 12 ôtô mà không thông qua Trung tâm bán đấu giá tài sản tỉnh, gây thiệt hại cho ông Bình hàng trăm triệu đồng. |
Tháng 7/2000, ông Hoàng ký quyết định cưỡng chế thi hành án, kê biên căn nhà 86 m2 trên diện tích đất hơn 2.000 m2 ở đường Trần Phú (phường 5, TP Vũng Tàu). Còn ông Mười bị cáo buộc chỉ đạo thuộc cấp bán đấu giá không thông qua trung tâm để em ruột có cơ hội mua ngôi nhà và mảnh đất này. Ông Mười đã nhờ người đứng tên đăng ký tham gia đấu thầu và gửi công văn tới Sở Xây dựng tỉnh đề nghị cung cấp thông tin quy hoạch tại bất động sản bán đấu giá.
Nhận được công văn thông báo "không xây dựng nhà ở" tại khu vực này, bị cáo Hoàng và Linh đã báo nội dung này cho những người đăng ký tham gia đấu giá biết, nhằm loại bớt số người muốn mua nhà để em ruột trúng đấu giá 500 triệu đồng.
Hành vi này bị cáo buộc đã gây thiệt hại tài sản của Nhà nước hơn 600 triệu đồng; gây thiệt hại cho ông Bình và một cá nhân liên quan khác gần 270 triệu đồng. Hiện, gia đình các bị cáo khắc phục hậu quả được hơn 700 triệu đồng.
Tại phiên phúc thẩm mở chiều nay, chủ tọa phiên tòa đề nghị bị cáo Mười trả lời vì sao ra quyết định phát mại 12 ôtô trong khi chưa được đồng tình của cấp trên. Bị cáo Mười khai trong quá trình thi hành án, các loại tài sản đã xác định chính chủ thì cơ quan thi hành án có quyền kê biên để đảm bảo lợi ích cho nhà nước. Những tài sản của ông Bình nêu trong cáo trạng sau khi phát mại vẫn không đáp ứng đủ số tiền cần thi hành án.
Trả lời việc tại sao bán đấu giá các tài sản mà không thông qua Trung tâm bán đấu giá tài sản, bị cáo Mười viện dẫn Thông tư liên tịch 06 cho phép cơ quan thi hành án tổ chức bán đấu giá theo quy định tại Điều 34 và Điều 36 của Pháp lệnh thi hành án dân sự và các quy định tại Quy chế bán đấu giá tài sản. Ngoài ra còn có bút phê thể hiện đồng ý của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh và Giám đốc trung tâm bán đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, thẩm phán Trần Minh Bắc cho rằng Thông tư 06 chỉ cho phép được bán nhưng phải bán đấu giá thông qua trung tâm bán đấu giá tài sản, đồng thời phải tuân thủ theo quy chế bán đấu giá tài sản của Nghị định 86 của Chính phủ có tính pháp lý cao hơn. Chủ tọa kết luận, bị cáo đã áp dụng không nhất quán về pháp luật trong quá trình thực thi công vụ.
4. Báo Người lao động có bài: Đòi hối lộ 3 triệu đồng, cán bộ thi hành án được 2 năm tù. Bài báo phản ánh: Phát hiện người phải thi hành án (THA) không có điều kiện THA, một cán bộ của Chi cục THA dân sự TP Vĩnh Long đòi hối lộ 3 triệu đồng mới chịu “xếp hồ sơ”. Nhưng tiền vừa trao tay thì công an xuất hiện và truy tố ra tòa tội “Nhận hối lộ”.
Lê Quốc Việt (SN 1978, thường trú ấp Tân Hưng, xã Tân Hạnh, Long Hồ, Vĩnh Long) là chấp hành viên Chi cục THA dân sự TP Vĩnh Long. Tháng 6-2013, Việt được lãnh đạo phân công thụ lý giải quyết việc THA dân sự đối với bà Trần Thị Thanh cùng con là Nguyễn Việt Trinh ở Phường 1 (TP Vĩnh Long).
Theo Quyết định THA số 632 và 633 ngày 14-6-2013 của Chi cục THA dân sự TP Vĩnh Long, trong thời hạn 15 ngày, bà Thanh và con gái phải thi hành khoản tiền bồi thường cho ông Đoàn Văn Phụng và Đoàn Trường Giang tổng cộng 80 triệu đồng.
Theo luật quy định, nếu quá hạn 15 ngày mà người phải THA không tự nguyện thi hành và người được THA có đơn yêu cầu xác minh điều kiện THA thì chấp hành viên mới tiến hành các bước kế tiếp theo quy định của Luật THA dân sự. Bản thân Việt hiểu rõ điều này nhưng lại cố tình làm sai để trục lợi.
Cụ thể, sau khi được phân công giải quyết vụ bà Thanh, Việt chưa thông báo hoặc tống đạt 2 quyết định THA số 632 và 633 cho bà Thanh và chị Trinh, phía người được THA cũng chưa có yêu cầu gì nhưng ngày 20-6-2013, Việt lại âm thầm đến nhà bà Thanh xác minh điều kiện THA, không mời chính quyền địa phương tham gia như luật định.
Qua xác minh, xác định bà Thanh và chị Trinh không có điều kiện THA, thuộc trường hợp phải trả đơn và kết thúc THA theo Điều 51, 52 của Luật THA dân sự, Việt yêu cầu bà Thanh “đưa 3 triệu đồng sẽ xếp hồ sơ lại”, bà Thanh không phải THA nữa.
Việt hẹn 5 ngày sau quay lại lấy tiền và bà Thanh đã đồng ý. Nhưng do nghi ngờ Việt lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên bà Thanh đã báo sự việc với Tổ trưởng tổ dân phố là bà Nguyễn Thị Ngọc Mai rồi cùng bà Mai đến trình báo Công an Phường 1.
Khoảng 14 giờ ngày 3-7-2013, trước khi đến nhà bà Thanh lấy tiền như đã hẹn, Việt mang biên bản xác minh điều kiện THA lập ngày 20-6-2013 đến UBND Phường 1 xin chữ ký, đóng dấu xác nhận rồi mang đến nhà bà Thanh.
Tại đây, bà Thanh bảo không có tiền nên gọi điện bảo bà Mai đến hỏi mượn 3 triệu đồng. Bà Mai bảo Việt ngồi chờ để về nhà lấy tiền đồng thời điện báo công an. Khi bà Mai quay lại nhà bà Thanh đưa 3 triệu đồng cho Việt thì Công an Phường 1 xuất hiện bắt quả tang và thu hồi vật chứng.
Quá trình điều tra, Việt không thừa nhận hành vi nhận hối lộ mà bảo số tiền 3 triệu đồng kẹp trong hồ sơ là tiền bà Thanh THA. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm sáng 8-4-2014, Việt đã thừa nhận toàn bộ hành vi đòi tiền hối lộ và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt. Luật sư bào chữa cho Việt cũng đề nghị HĐXX áp dụng mức hình phạt cải tạo không giam giữ đối với bị cáo do có nhiều tình tiết giảm nhẹ.
Theo HĐXX, bị cáo là cán bộ, công chức Nhà nước được giao nhiệm vụ thụ lý giải quyết việc THA. Khi biết người phải THA không đủ điều kiện thuộc trường hợp phải trả đơn và kết thúc THA, bị cáo lại kêu bà Thanh phải đưa tiền để làm công việc trả đơn cho người được THA.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vừa xâm hại đến sự hoạt động bình thường, đúng đắn vừa gây mất uy tín, lòng tin của nhân dân đối với cơ quan thực thi pháp luật.
Quá trình điều tra mặc dù bị cáo không thừa nhận hành vi nhận hối lộ nhưng trước tòa, bị cáo đã khai báo đầy đủ và thừa nhận tốt nên được xem là đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội gây thiệt hại về vật chất không lớn, được bị hại và những người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan xin giảm nhẹ hình phạt.
Thời gian công tác, bị cáo có nhiều thành tích được tặng nhiều giấy khen,… nên HĐXX xét thấy phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ để răn đe, giáo dục và cũng nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với những người mới phạm tội lần đầu, thật sự biết ăn năn. Do đó, HĐXX của TAND TP Vĩnh Long sáng 8-4-2014 đã tuyên án sơ thẩm phạt bị cáo Việt 2 năm tù giam tội “Nhận hối lộ”.
5. Báo Lao động có bài: “Tiền mất tật mang” vì luật sư hiểu sai…luật . Bài báo phản ánh: Gần một tháng qua, ông V.T.Đ - chủ một phòng khám đa khoa ở Q.10, TPHCM - phải chạy đôn chạy đáo để làm thủ tục truy đóng BHXH từ tháng 3.2006 đến tháng 12.2009 cho bác sĩ N.M.H - người đã làm việc liên tục cho phòng khám từ tháng 3.2006, nhưng chỉ được tham gia BHXH từ ngày 1.1.2010 đến khi nghỉ việc (tháng 9.2013).
Do bác sĩ H khiếu nại, ông Đ đã ủy quyền cho luật sư tham gia các buổi hòa giải. Điều oái oăm là, vị luật sư này khi tham gia buổi hòa giải do Phòng LĐTBXH Q.10 tiến hành đã khẳng định: “Do trước năm 2010, DNTN phòng khám đa khoa chưa tham gia BHXH cho bác sĩ H, nên khoảng thời gian DN chưa tham gia BHXH sẽ được quy ra bằng tiền và thanh toán cho bác sĩ H”.
Qua phản ánh sự việc, phân tích quan điểm của vị luật sư kia là sai, bởi lẽ, theo quy định của Luật BHXH, những người có HĐLĐ từ 3 tháng trở lên thì người sử dụng LĐ có nghĩa vụ phải tham gia BHXH bắt buộc cho NLĐ chứ không được phép “quy ra tiền” trả thẳng cho NLĐ, thì ông Đ mới vỡ lẽ.
Ông Đ đành chấm dứt hợp đồng với vị luật sư kia và đích thân đi làm thủ tục truy đóng BHXH cho bác sĩ H. Thậm chí, để cho “êm chuyện”, ông Đ phải trả luôn phần tiền mà lẽ ra bác sĩ H phải đóng khi tham gia BHXH.
Thế nhưng, sự việc cũng chưa dừng ở đây. Bởi lẽ, ông Đ dù rất thiện chí khắc phục hậu quả, nhưng mới chỉ truy đóng được BHXH cho bác sĩ H từ tháng 7.2008 đến tháng 12.2009, vì HĐLĐ giữa hai bên thời gian này ghi rõ mức lương. Còn khoảng thời gian từ tháng 3.2006 đến tháng 7.2008, do hai bên ký HĐLĐ khoán, không xác định được mức lương làm căn cứ để tham gia BHXH nên vụ việc vẫn bị “treo”.
Trong khi đó, mặc dù đã được phía ông Đ mời nhiều lần, thậm chí nhờ các cơ quan chức năng tác động, nhưng bác sĩ H với lý do “bận công việc” không đến để thỏa thuận mức lương làm căn cứ truy đóng BHXH.
Một vụ việc khác cũng đang gây xôn xao dư luận trong giới luật sư ở TPHCM là việc bà Nguyễn Thị Vương Hoa đang khởi kiện đòi Cty luật Kelvin Chia Partnership phải bồi thường hơn 300 triệu đồng vì bị cho nghỉ việc trái luật. Đáng nói, mặc dù là Cty luật chuyên tư vấn pháp luật cho nhiều DN, nhưng phía Cty luật Kelvin Chia Partnership đã không thực hiện đúng trình tự như luật định khi cho nhân viên nghỉ việc.
Chưa hết, khi xem HĐLĐ ký ngày 2.1.2003 của Cty này với bà Hoa, chúng tôi còn phát hiện điều khoản trái luật. Cụ thể, tại điều 4 HĐLĐ này quy định: “HĐLĐ của bà là HĐLĐ không xác định thời hạn; hợp đồng sẽ chấm dứt khi có thông báo bằng văn bản của một trong hai bên trước 45 ngày...”.
Theo quy định của Bộ luật LĐ, khi HĐLĐ không xác định thời hạn thì NLĐ được quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ và chỉ cần báo trước 45 ngày làm việc mà không cần nêu lý do. Còn người sử dụng LĐ muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì cần phải có những lý do theo luật định như:
NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc theo luật định, NLĐ bị ốm đau, tai nạn mà khả năng lao động chưa phục hồi sau khi đã điều trị 6 tháng hoặc 12 tháng... chứ không phải “hợp đồng sẽ chấm dứt khi có thông báo bằng văn bản của một trong hai bên trước 45 ngày” mà Cty luật Kelvin Chia Partnership đã ký với bà Hoa.
II. THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Vietnam.net có bài: Tỉnh Hà Tĩnh: Cạnh tranh khốc liệt và hội nhập sâu: DNNN có ‘run’? Bài báo phản ánh: Với các hiệp định thương mại mà Việt Nam đang tham gia đàm phán, ưu đãi cho khu vực DNNN sẽ chấm hết. Đây là cơ hội để những DN - vốn bị coi là trì trệ, yếu kém hơn khu vực tư nhân - đổi mới, cải cách. Liệu tới đây, các DNNN có trụ nổi trong môi trường cạnh tranh khốc liệt sau nhiều năm được nâng đỡ bởi “ông chủ” Nhà nước? Tập đoàn Dệt may Việt Nam là cái tên được nhắc đến đầu tiên khi nói về tác động của việc Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Á - Thái Bình Dương (TPP). Đây cũng là doanh nghiệp duy nhất tham gia đầy đủ các cuộc đàm phán TPP.
Bởi lẽ, với các cam kết trong TPP hiện nay, ngành dệt may sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất, có cả tốt và xấu. Sẽ có khoảng 1.000 dòng thuế dệt may nhâp khẩu của Mỹ được giảm thuế từ 17,3% xuống 0%. Tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam vào Mỹ dự báo có thể tăng từ 7% lên mức 10-15% mỗi năm, khi TPP có hiệu lực.
Tuy nhiên, trong TPP, Chính phủ Mỹ lại đưa ra quy tắc về xuất xứ hàng hóa từ sợi trở đi. Để được hưởng mức thuế ưu đãi 0%, sản phẩm dệt may sẽ phải làm từ sợi do Việt Nam sản xuất hay các nước thành viên TPP cung ứng. Trong khi đó, có tới 80% sợi ở Việt Nam đều phải nhập từ Trung Quốc -nước không tham gia đàm phán TPP.
Trước thách thức này, ông Lê Tiến Trường, Phó Tổng giám đốc Vinatex chia sẻ, vào TPP, mục đích lớn nhất không phải là được giảm thuế, phát triển thương mại mà lớn hơn nữa, đó là động lực để cải cách, đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Trên thực tế, không phải chỉ vì TPP, với các hiệp định mậu dịch tự do khác như FTA với EU, ngành dệt may đang đứng trước con đường không thể "tụt hậu" hơn được nữa.
Cho đến nay, các doanh nghiệp dệt may vẫn chỉ tham gia chuỗi cung ứng ở khúc thấp. Tới 50% doanh nghiệp may mặc Việt Nam chủ yếu là sản xuất xuất khẩu theo hình thức gia công. Hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu chỉ dừng lại là cắt và may gia công. Chỉ có khoảng 25% theo hình thức FOB (mua nguyên liệu, tự sản xuất và bán hàng trực tiếp không qua trung gian) chỉ định và 25% còn lại đang sản xuất, nhưng có thiết kế tập trung.
Không chỉ là gia công, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn thường phải sử dụng nguyên liệu nhập khẩu hoặc chỉ định theo đơn đặt hàng của nước ngoài, bán sản phẩm dưới thương hiệu của người mua. Do đó, cạnh tranh của các doanh nghiệp này chủ yếu là nhờ vào giá rẻ, chứ không phải chất lượng, hay thiết kế.
Tập đoàn Dệt may cũng e ngại, nếu như không có phát triển sản phẩm và thiết kế riêng, ngành công nghiệp dệt may sẽ bị phong tỏa trong phân khúc nhỏ hẹp là sản xuất may gia công, trong khi đó, chuỗi cung ứng thì không thay đổi. Phân khúc này lại thiếu sự ổn định và bền vững. Khi không có dịch vụ tạo ra giá trị gia tăng, như thiết kế, marketing, hay phát triển thương hiệu, ngành dệt may sẽ chỉ dừng lại ở công đoạn là chấp nhận giá bán mà người mua chi phối, với các sản phẩm giá trị thấp, không tạo ra sự khác biệt.
Lo ngại trước nguy cơ tụt hậu đó, Vinatex đang rốt ráo cho một cuộc cải cách đổi mới toàn diện, từ chiến lược thương hiệu cho đến sản phẩm. Đại diện tập đoàn này khẳng định, từ nay đến năm 2017, Vinatex sẽ nâng cấp mình lên, từ việc cắt, may gia công lên mô hình mới là sản xuất và thiết kế tập trung.
Với TPP, ông Tiến cũng cho biết, các doanh nghiệp dệt may sẽ bắt buộc phải tập trung tăng cường vào chuỗi cung ứng, từ sợi, vải, may mặc... và tạo mối liên hệ tốt giữa các khâu trong sản xuất. Điều này sẽ tạo ra động lực để nâng cấp từ phương thức sản xuất cấp thấp hiện nay lên sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn.
Câu chuyện của ngành dệt may chỉ là một ví dụ điển hình cho áp lực, các DN Việt Nam nói chung, đặc biệt là DNNN, sẽ phải nâng cao năng lực cạnh tranh như một nhu cầu tự thân bức thiết nhất.
Các hiệp định mậu dịch tự do mà Việt Nam đang đàm phán có mức độ tự do hóa cao hơn nhiều so với các hiệp định đã ký kết, mà nội dung sẽ tác động tới 90% thương mại và thu hút đầu tư của Việt Nam. Trong đó, TPP và FTA Việt Nam - EU là những hiệp định chất lượng cao, hay còn gọi là Hiệp định thế hệ mới. Cam kết sâu rộng hơn, lộ trình áp dụng nhanh hơn so với WTO, đặc biệt là yêu cầu minh bạch rất cao, cơ chế giải quyết tranh chấp rất chặt chẽ, việc thực thi, xử phạt rất nghiêm ngặt. Đặc biệt, TPP hay các hiệp định thế hệ mới này đòi hỏi Việt Nam phải cam kết những nội dung không trực tiếp mang tính thương mại, nhưng có liên quan, ví dụ như bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nguồn nhân lực...
Với mức độ tự do hóa sâu rộng sắp tới, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ phải chịu một áp lực cải cách cực kỳ lớn.
Nguyên bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển chia sẻ, khi đàm phán Hiệp định TPP, các cam kết đặt ra là phải tạo lập một môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng giữa các DN. Các nước đều không chấp nhận mô hình DNNN ở Việt Nam.
Ông cho biết, trong các cam kết TPP, FTA với EU, các hiệp định đều yêu cầu Chính phủ phải loại bỏ sự phân biệt đối xử giữa DNNN và DN ngoài Nhà nước cả trên pháp lý và thực tiễn.
Cụ thể, TPP còn yêu cầu Chính phủ phải loại bỏ mọi phân biệt đối xử trong luật pháp và thực hiện về cơ hội tiếp cận nguồn lực đối với các thành phần DN. Chính phủ không được cấp vốn, thậm chí, không được chỉ đạo việc cấp tín dụng hay bảo lãnh, xóa nợ cho DNNN.
Cùng đó, những DNNN độc quyền, hoặc độc quyền chỉ định khi kinh doanh các ngành nghệ không độc quyền sẽ phải chịu sự điều chỉnh trực tiếp của Hiệp định.
TPP cũng cấm việc bù chéo trong hoạt động của DNNN và chế độ thông tin về DN này phải hết sức minh bạch.
Trong khung đàm phán hiệp định FTA với EU, độ phức tạp trong đàm phán không kém gì TPP. Dù là song phương, nhưng Ủy ban châu Âu sẽ phải tập hợp ý kiến của 28 nước thành viên mới xác định được yêu cầu đàm phán.
Diện điều chỉnh về DNNN rộng hơn TPP. Cạnh tranh sẽ rất gay gắt trên cả 3 cấp độ. Trong đó, nghĩa vụ thực thi của DNNN và của cơ quan quản lý sẽ rất nặng nề, nhất là trong giai đoạn đầu.
Tuy nhiên, ông Trương Đình Tuyển cũng nhận định rằng, có nhiều cơ hội lớn có lợi cho Việt Nam không thể bỏ qua. Châu Âu là thị trường xuất khẩu lớn, chiếm tới hơn 50% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, lại thu hút đầu tư chủ yếu của Việt Nam. Riêng các nước trong TPP và EU chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu. Mỗi năm ở 2 thị trường này, Việt Nam xuất khẩu 50 tỷ USD. Các nước TPP là thị trường đầu tư lớn của Việt Nam. Cả 5 hiệp định đang đàm phán thì các nước đều chiếm hơn 90% kim ngạch xuất khẩu, cũng như thu hút trên 90% vốn đầu tư nước ngoài.
Với việc tham gia hiệp định này sẽ tạo ra thị trường xuất khẩu rộng lớn với mức thuế chủ yếu là 0% và thu hút đầu tư. Tác động tích hợp của các hiệp định lớn hơn nhiều. Hơn tất cả, chính cả hiệp định này sẽ thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế.
2. Báo điện tử Chính phủ có bài: Đại biểu gần 100 nước dự Đại lễ Vesak 2014. Bài báo phản ánh: Đại lễ Phật đản (Vesak) Liên Hợp Quốc 2014 diễn ra từ 8-10/5 tại Chùa Bái Đính, Ninh Bình dự kiến sẽ đón 1.500 đại biểu đến từ 95-100 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Theo Ủy ban Tổ chức Vesak 2014, Đại lễ Vesak 2014 dự kiến sẽ tiếp đón khoảng 1500 lãnh đạo các giáo hội, hệ phái Phật giáo, các giáo sư, tiến sĩ, học giả, nhà nghiên cứu Phật học cũng như các Phật tử hành trì thuộc nhiều truyền thống Phật giáo đến từ khoảng 95 quốc gia, vùng lãnh thổ trên khắp thế giới và 10.000 đồng bào Phật tử và nhân dân Việt Nam.
Chủ đề chính của Đại lễ là “Phật giáo góp phần thực hiện thành tựu các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc”.
Tại Đại lễ, sẽ diễn ra 5 diễn đàn hội thảo khoa học, gồm: Hồi ứng của Phật giáo về phát triển bền vững và thay đổi xã hội; Hồi ứng của Phật giáo đối với hâm nóng toàn cầu và bảo vệ môi trường; đóng góp của Phật giáo về lối sống lành mạnh; xây dựng hòa bình và sự bình phục hậu mâu thuẫn; giáo dục Phật giáo và chương trình cấp đại học.
Bên cạnh đó, trong khuôn khổ nội dung Đại lễ Vesak năm nay, sẽ diễn ra những lễ hội tâm linh văn hóa; chương trình trồng cây hưởng ứng bảo vệ môi trường và phát quà từ thiện cho các quỹ khuyến học, hội chợ văn hóa Phật giáo.
Đại lễ Vesak LHQ 2014 do Giáo hội Phật giáo Việt Nam đăng cai chủ trì, với sự phối hợp của Ủy ban Tổ chức Quốc tế (ICDV). Đây là lần thứ 2 Đại lễ Vesak LHQ được tổ chức tại Việt Nam, lần thứ nhất vào tháng 5/2008.
Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc là một trong các hoạt động văn hóa mang tính quốc tế của Liên Hợp Quốc nhằm tôn vinh giá trị nhân văn, hòa bình của nhân loại. Ngày 15/12/1999, tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 54, mục 174 của chương trình nghị sự Liên Hợp Quốc đã chính thức công nhận Đại lễ Tam hợp (kỷ niệm Đức Phật đản sinh, thành đạo và nhập Niết bàn, thời gian tương đương với tháng 5 dương lịch) là Đại lễ Phật đản hay Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc.