I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thừa phát lại: Quyền không quá to như lo ngại. Bài báo phản ánh: Trong trường hợp cần cưỡng chế thi hành án, thừa phát lại sẽ thực thi nhiệm vụ theo kế hoạch cưỡng chế được thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phê duyệt.
Thông tin đại diện TAND Tối cao và Bộ Công an có ý kiến không đồng tình với dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thí điểm chế định thừa phát lại (TPL) ở chỗ cho phép TPL được trực tiếp thi hành án (THA) và cưỡng chế THA (Pháp Luật TP.HCM ngày 13-2 đã đưa tin) làm nhiều người băn khoăn.
Ông Lê Mạnh Hùng, Trưởng Văn phòng TPL quận Bình Thạnh, cho biết: “TPL là người được Nhà nước bổ nhiệm hành nghề trong lĩnh vực tư pháp nói chung và THA dân sự nói riêng. Hoạt động của TPL được đặt dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ từ cơ quan THA dân sự cùng sự kiểm sát chặt chẽ của VKSND. TPL hay chấp hành viên đều có nhiệm vụ thực thi các quy định của pháp luật về THA dân sự. Do vậy, không thể nói giao nhiệm vụ, quyền hạn cho TPL tương tự như chấp hành viên là sai luật, sai đường lối, chủ trương...”.
Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp - Sở Tư pháp TP.HCM, lưu ý: “TPL thực hiện quyền lực công theo ủy nhiệm của Nhà nước. Nhiệm vụ, quyền hạn của TPL đến đâu là vấn đề đã nhiều lần được bàn bạc, cân nhắc. Riêng trong lĩnh vực THA, quy định hiện hành và cả dự liệu của dự thảo thông tư liên tịch đang bàn thảo cũng chỉ giao cho TPL thực hiện một số việc chứ không hề giao cho TPL được trực tiếp tổ chức cưỡng chế THA và huy động các lực lượng tham gia bảo vệ. Trong việc này, TPL chỉ có quyền lập kế hoạch tổ chức, còn quyền phê duyệt kế hoạch đó cũng như ra quyết định cưỡng chế THA và huy động lực lượng tham gia bảo vệ thuộc về cục trưởng Cục THA dân sự. chưa kể kế hoạch đó còn phải thông qua Ban chỉ đạo THA địa phương”.
Đồng tình, bà Phạm Thị Thanh Loan, Cục phó Cục THA dân sự TP.HCM, khẳng định: “Các ý kiến cho rằng không nên giao quyền tổ chức cưỡng chế THA và huy động lực lượng bảo vệ cho TPL là chưa chính xác bởi từ trước nay TPL không có quyền này”.
Ông Phạm Quang Giang, Trưởng Văn phòng TPL quận 5, nêu ý kiến: “Tuy là hoạt động đặc thù, có sử dụng quyền lực tư pháp thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA đối với những vụ việc người phải THA không tự nguyện THA nhưng nên nhớ không phải vụ việc nào cũng áp dụng biện pháp cưỡng chế. Kỹ năng vận động, thuyết phục của chấp hành viên hay của TPL đóng vai trò quan trọng và thực tế cho thấy trước giờ các văn phòng TPL đã tổ chức thi hành được nhiều vụ việc mà không phải cưỡng chế. Từ đó, các cơ quan không nên quá lo ngại về nhiệm vụ THA của TPL. Lại nữa, lực lượng công an tham gia bảo vệ các hoạt động cưỡng chế THA nói chung cũng là thực thi chức năng đảm bảo an toàn, an ninh trật tự cho xã hội. Không thể nói công an làm vậy là làm theo lệnh của TPL vì TPL cũng chỉ là người thực hiện quyết định của cục trưởng Cục THA dân sự”.
Bổ sung thêm, bà Loan cho biết trình tự, thủ tục để cưỡng chế THA hiện được pháp luật quy định hết sức chặt chẽ. Trước giờ không hề có chuyện TPL có thẩm quyền huy động lực lượng công an hay “tự tung tự tác” trong việc tổ chức cưỡng chế THA. “Số vụ việc mà cơ quan THA phải huy động lực lượng cưỡng chế THA chiếm không tới 1%. Riêng đối với TPL thì từ sau nhiều năm hoạt động thí điểm chưa có vụ cưỡng chế phải huy động lực lượng nào. Vậy nên không có lý do gì để các cơ quan lo ngại về những bất ổn phát sinh từ việc giao cho TPL thực hiện một số việc trong THA” - bà Loan chia sẻ.
2. Báo Đời sống và Pháp luật có bài Có chặn đứng mục đích thương mại của những "máy đẻ thuê"?. Bài báo phản ánh: Dù đã có Nghị định về xử phạt hành vi mang thai hộ với số tiền 30-40 triệu đồng nhưng thực tế vẫn có những người bất chấp biến mình thành "máy đẻ" đáp ứng nhu cầu của những nhà có tiền nhưng hiếm muộn.
Luật Hôn nhân và Gia đình cho phép mang thai hộ thể hiện tinh thần nhân đạo nhưng mặt trái của cơ chế thị trường cũng lấp ló, phát sinh thực trạng đẻ thuê. Vì thế, dự thảo Nghị định hướng dẫn luật Hôn nhân và Gia đình đã thể hiện quan điểm, để tránh mang thai hộ vì mục đích thương mại, Việt Nam chỉ cho phép mang thai hộ giữa người trong gia đình hoặc được chính quyền địa phương xác nhận người mang thai hộ.
Hiện ở Việt Nam có khoảng 15% các cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh vì nhiều lý do khác nhau, và không phải trường hợp nào cũng có thể can thiệp được bằng y học. Chính vì vậy, dù pháp luật đã cấm hành vi mang thai hộ, đẻ thuê nhưng trong thực tế, niềm khao khát được làm cha, làm mẹ vẫn khiến nhiều người tìm mọi cách để đạt được nguyện vọng ấy.
Cho dù đã có Nghị định về xử phạt hành vi mang thai hộ với số tiền 30-40 triệu đồng nhưng thực tế vẫn có những người bất chấp biến mình thành "máy đẻ" đáp ứng nhu cầu của những nhà có tiền nhưng hiếm muộn. Và điều kiện tiên quyết của những cặp vợ chồng này là người vợ phải có noãn để thụ tinh được, chứ không phải xin của người khác.
Như vậy, việc mang thai hộ không áp dụng trong trường hợp sử dụng noãn của người mang thai hộ kết hợp với tinh trùng của người bố. Vì nếu lấy noãn của người mang thai hộ để thụ tinh thì sẽ liên quan đến yếu tố sinh học, di truyền. Do đó, việc người chồng quan hệ trực tiếp với người mang thai hộ là hoàn toàn bị cấm.
Ông Dương Đăng Huệ, Vụ Trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - kinh tế (bộ Tư pháp) khẳng định, đứa trẻ ra đời từ người mang thai hộ sẽ mang gene di truyền của người phụ nữ có noãn, chắc chắn không bị tác động di truyền của người mang thai hộ.
Cho phép mang thai hộ hiện nay vẫn là vấn đề tương đối nhạy cảm. Vụ trưởng Vụ Pháp chế (bộ Y tế) Nguyễn Huy Quang nêu quan điểm chỉ người thân, gia đình mới được mang thai hộ nhằm tránh tình trạng đẻ thuê. Việc cho phép mang thai hộ hay không, dự định sẽ do một hội đồng độc lập đánh giá, dựa trên các tiêu chí: Hồ sơ về tình trạng bệnh lý không thể mang thai tự nhiên của người nhờ; quan hệ họ hàng giữa người nhờ và người mang thai hộ có xác nhận của chính quyền; điều kiện sức khỏe của người mang thai hộ...
Tuy nhiên trước đó nhiều ý kiến đã khẳng định người mang thai hộ không nhất thiết phải là họ hàng, cùng huyết thống mà có thể là bạn bè thân thích. Một số chuyên gia pháp lý cho rằng tới đây nếu nội dung này được thông qua thì các văn bản dưới luật cần phải thể chế hóa cụ thể hơn nữa. Bởi lẽ ranh giới giữa việc mang thai hộ và đẻ thuê đôi khi rất mong manh. Do vậy, ngoài việc kiểm tra, đánh giá của hội đồng y khoa thì còn có cơ quan nào giám sát hoạt động này nữa và trong trường hợp nảy sinh hiện tượng đẻ thuê thì phải xử lý ra sao, mức độ xử lý như thế nào, hành chính hay hình sự?
Bà Nguyễn Thị Khá, Uỷ viên chuyên trách, Uỷ ban Các vấn đề Xã hội của Quốc hội cho rằng: "Việc cho mang thai hộ là thể hiện tính nhân đạo của pháp luật để những gia đình hiếm muộn có quyền được làm cha làm mẹ. Tuy nhiên, để tránh bị lạm dụng, pháp luật phải quy định chặt chẽ, cụ thể các điều kiện đối với người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ; hình thức pháp lý của việc mang thai hộ; quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên và nhiều vấn đề khác có liên quan đến việc mang thai hộ".
Không ít chuyên gia lo ngại, có những người vì sợ sinh đẻ sẽ làm xấu đi hình thể, nhan sắc nên sẽ tìm người đẻ thuê. Trong trường hợp này, Luật, Nghị định cũng cần quy định rõ: Đối với những người có sức khỏe bình thường hay ca sĩ, người mẫu hoặc người giàu không muốn mang thai thì không được phép nhờ người khác mang thai hộ. Khi nhờ mang thai hộ, cặp vợ chồng mong muốn có con và cả người mang thai hộ sẽ phải trải qua đợt kiểm tra, đánh giá của hội đồng y khoa và đôi bên phải tự nguyện cam kết dựa trên quy định của pháp luật.
Còn theo bà Khá, để chính sách không bị lợi dụng luật và các văn bản dưới luật phải quy định chặt chẽ. "Người có sức khoẻ như thế nào mới được nhờ mang thai hộ. Với người nhận mang thai hộ cũng phải xác nhận mối quan hệ thân nhân như thế nào? Sức khoẻ có đảm bảo hay không? Tôi cho rằng chỉ những người đã sinh nở một lần mới được mang thai hộ, và số lần sinh đẻ cũng phải quy định cụ thể. Như vậy mới tránh được tình trạng một người nào đó biến mình thành "máy đẻ", thành "nghề đẻ thuê" cả chục lần. Điều này sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ thai sản của người phụ nữ".
Hiện tại cho mang thai hộ cũng đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức nhạy cảm phát sinh mà chưa có hướng giải quyết cụ thể. Bà Khá nêu ví dụ: Trong trường hợp thai nhi sinh ra không đạt "yêu cầu", người mang thai hộ bị bệnh trong quá trình mang thai, đứa trẻ sinh ra chẳng may bị khuyết tật mà người nhờ mang thai hộ không nhận nuôi, hoặc người nhận mang thai hộ trong quá trình mang thai bị tai biến thì ai chịu trách nhiệm? Cơ quan nào sẽ đứng ra giải quyết khi phát sinh những vấn đề thực tế mà luật chưa đề cập.
Hơn nữa, quan điểm "cha sinh không bằng mẹ dưỡng", người mang thai hộ là người thân thì sự hiện diện sợi dây tình cảm của "người thứ ba" vẫn còn đó có thể sẽ gây bất tiện cho cuộc sống vợ chồng và đứa con của họ. Chính vì thế, tâm lý của nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn vẫn muốn nhờ người không có quan hệ thân thiết mang thai hộ để "cắt mối liên quan tình cảm". "Thực tế, tôi cũng chưa thấy vấn đề này sáng tỏ cho lắm. Chuyện mang thai hộ vẫn còn thấy quá mông lung trong các mối quan hệ tình cảm và pháp lý", bà Khá nói.
Quy định cho phép mang thai hộ vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn, vì vậy cần phải chờ các văn bản dưới luật hướng dẫn bằng các quy định cụ thể, chặt chẽ. "Tôi nghĩ rằng việc mang thai hộ cần quy định ở mức rất hạn chế, hạn chế ở mức tối đa. Chúng ta cũng không nên sốt ruột triển khai nhanh chóng mà nên chờ các quy định ràng buộc.
Bên cạnh đó cũng cần tính đến chi phí bồi dưỡng cho người mang thai hộ như thế nào cho hợp lý, không để xảy ra tình trạng thấy người ta cần có con thì vòi vĩnh, đẩy giá. Còn nếu quy định không được bồi dưỡng thì cũng không đúng vì liên quan đến tổn hại sức khoẻ của người mang thai hộ. Hơn nữa vấn đề mặt trái phát sinh phải cần ngăn chặn là các trường hợp biến tướng thành "nghề đẻ thuê", mang thai hộ từ khi 18 tuổi đến ngoài 40 tuổi là không ổn. Tôi cho rằng cần phải xây dựng khung pháp lý chặt chẽ và vừa làm vừa điều chỉnh những vấn đề phát sinh từ thực tế", bà Nguyễn Thị Khá bày tỏ quan điểm.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Làm sai, phải dũng cảm bồi thường. Bài báo nêu ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Duy Hưng, Trưởng khoa Luật trường ĐH Thủ Dầu Một, Bình Dương: Đọc thông tin Chi cục Thi hành án (THA) dân sự quận 12 (TP.HCM) đang xúc tiến việc bồi thường tiền tỉ cho một người dân vì đã làm sai, gây thiệt hại cho họ trong quá trình tổ chức thi hành một bản án (báo Pháp Luật TP.HCM ngày 15-2), tôi thực sự bất ngờ, vì đây là trường hợp khá hiếm hoi khi cơ quan nhà nước thừa nhận sai và khắc phục ngay. Qua việc làm này, quyền lợi của người dân được bù đắp, Nhà nước được lợi cả về kinh tế lẫn uy tín.
Hành động kiên quyết sửa sai thể hiện thiện chí khắc phục hậu quả, sự sòng phẳng và dũng cảm của THA dân sự quận 12 (TP.HCM) khi trước đó đã lỡ làm sai là một điều đáng hoan nghênh.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định rất rõ khi cơ quan nhà nước (trong đó có THA) có lỗi gây thiệt hại trong hoạt động công vụ thì phải bồi thường. Người thi hành công vụ hoặc người chỉ đạo việc thi hành công vụ sai, gây ra thiệt hại cũng phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường. Trong vụ việc này, phần lỗi của cá nhân hay tập thể nhiều hoặc ít tôi không bàn vì kết quả xử lý của các cơ quan có thẩm quyền đã có. Song tôi muốn nói đến việc Chi cục THA dân sự quận đã không có tâm lý đùn đẩy hoặc chây ì trách nhiệm.
Thực tế đã chứng minh có nhiều vụ cơ quan chuyên ngành hoặc cấp trên có thẩm quyền đã xác định và chỉ ra cơ quan làm sai nhưng khi người dân yêu cầu bồi thường thì cơ quan đó tìm cách đá trái bóng trách nhiệm cho cơ quan khác hoặc hẹn hết lần này đến lần khác vì không muốn “ê mặt”, không muốn thừa nhận mình sai. Điều này cũng thể hiện ý thức thực thi pháp luật chưa cao dù cơ quan làm sai có thể là cơ quan đang được giao nhiệm vụ thực thi pháp luật. Thẳng thắn thừa nhận, khắc phục ngay hậu quả là biện pháp duy nhất làm cho quyền lợi của người dân được bảo đảm.
Việc Chi cục THA dân sự quận 12 chủ động gặp các đương sự để trao đổi và chuẩn bị mời đến để thỏa thuận mức bồi thường ngay sau khi Vụ Kiểm sát THA dân sự (VKSND Tối cao) kết luận lỗi là hành động đáng khen ngợi. Đây không chỉ là khắc phục hậu quả mà còn là hành động nỗ lực nhằm lấy lại uy tín của cơ quan nhà nước, nói nôm na là “ghi điểm” trong mắt người dân. Rõ ràng tính tự chịu trách nhiệm của cơ quan THA dân sự quận rất cao và đáng hoan nghênh, cần được các cơ quan khác tham khảo và nhân rộng. Về bản chất việc cơ quan làm sai tiến hành thương lượng bồi thường ngay cho người bị thiệt hại, chính là biện pháp giúp nhà nước hạn chế thiệt hại. Bởi chúng ta đều biết Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định số tiền bồi thường oan sai còn phải tính lãi suất theo ngân hàng. Như vậy nếu càng chây ì, đùn đẩy trong thời gian càng lâu thì số tiền phải bồi thường càng lớn, ngân sách nhà nước càng phải gánh chịu nhiều. Như vậy vô hình trung lúc này Nhà nước bị thiệt hại cả về kinh tế lẫn uy tín, trong khi niềm tin là thứ khó lấy nhưng dễ mất.
Tôi cho rằng thực thi pháp luật không cần phải dùng những lời lẽ “đao to búa lớn” mà hãy bằng những hành xử cụ thể, thiết thực và đúng pháp luật. Làm sai thì phải thừa nhận và sửa sai, âu cũng là một nguyên lý cơ bản trong một nền pháp luật có tính văn minh pháp lý cao.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Những thông tin văn bản chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nổi bật tuần từ 10-14/2/2014.
- Tập trung phòng chống cúm gia cầm lây sang người
Ngày 14/2, Thủ tướng Chính phủ đã có công điện yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tăng cường thực hiện công tác phòng chống dịch cúm gia cầm.
- Đóng BHXH bổ sung để tính hưởng chế độ hưu trí, tử tuất
Theo Quyết định quy định đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bổ sung để tính hưởng chế độ hưu trí và tử tuất quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật BHXH đối với đối tượng hưởng sinh hoạt phí trong Công an nhân dân giai đoạn từ ngày 1/1/1995 đến 31/12/2006, sau đó chuyển thành người hưởng lương, mức đóng BHXH bổ sung hằng năm = Số đối tượng x mức lương tối thiểu chung từng giai đoạn x tỷ lệ đóng x số tháng đóng.
Tỷ lệ đóng BHXH bổ sung bằng 14% mức lương tối thiểu chung/người/tháng thời gian đóng bổ sung.
Kinh phí đóng BHXH bổ sung vào quỹ BHXH đối với đối tượng quy định nêu trên do ngân sách Nhà nước bảo đảm.
- Giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ xây dựng nông thôn mới
Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định giao kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2014 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
Theo đó, kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ năm 2014 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là 4.765 tỷ đồng, trong đó khu vực miền núi phía Bắc 1.515 tỷ đồng; đồng bằng sông Hồng 603 tỷ đồng; miền Trung 1.379 tỷ đồng; Tây Nguyên 351 tỷ đồng; Đông Nam bộ 131 tỷ đồng; đồng bằng sông Cửu Long 786 tỷ đồng.
Quyết định nêu rõ, vốn trái phiếu Chính phủ bố trí để hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho các xã theo đúng mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp
Theo Kế hoạch của Chính phủ tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tháng 2/2014, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức Hội nghị toàn quốc giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp cho báo cáo viên, tuyên truyền viên.
Tổ chức tập huấn chuyên sâu về nội dung của Hiến pháp cho cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, cán bộ pháp chế các Bộ, ngành ở Trung ương trước tháng 6/2014.
Các Bộ, cơ quan liên quan cũng được giao nhiệm vụ tổ chức giới thiệu, phổ biến nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp cho cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức và nhân dân. Công việc này được thực hiện trọng tâm trong năm 2014 và tiếp tục duy trì hợp lý, hiệu quả trong những năm tiếp theo.
Ngoài ra, Quý III năm 2014, phát động cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trên phạm vi toàn quốc và sẽ tổng kết cuộc thi này vào quý III năm 2015.
- Gia hạn Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ
Thủ tướng Chính phủ đồng ý gia hạn thời gian hoàn thành Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2 đến hết năm 2014.
- Quản lý chặt chẽ việc cấp phép sản xuất rượu thủ công
Theo Quyết định về Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành, cần quy hoạch đồng bộ về sản xuất, kinh doanh đồ có cồn trong cả nước và từng địa phương; quản lý chặt chẽ việc cấp phép sản xuất rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh, quản lý quy trình sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm và nhãn hàng hóa đối với rượu thủ công; xây dựng cơ chế để tổ chức, cá nhân sản xuất rượu thủ công thuộc địa phận có làng nghề tham gia làng nghề sản xuất rượu; tăng cường kiểm soát đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh hộ gia đình, làng nghề, khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
Kiểm soát việc ghi nhãn đồ có cồn sản xuất, nhập khẩu để tiêu thụ tại Việt Nam nhằm gắn trách nhiệm của người sản xuất đối với sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng và ngăn chặn hàng giả, hàng kém chất lượng; nghiên cứu quy định việc in cảnh báo về tác hại của lạm dụng đồ có cồn trên nhãn sản phẩm.
- 3 trường hợp bị đình chỉ, chấm dứt hoạt động xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử
Theo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xuất bản, trong đó quy định điều kiện hoạt động xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu nhà xuất bản, tổ chức, cá nhân đình chỉ việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử để chấn chỉnh hoặc khắc phục nguyên nhân trong 3 trường hợp.
Thứ nhất, không duy trì đủ các điều kiện hoạt động xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử trong quá trình hoạt động.
Thứ hai, không thực hiện đúng quy định về trách nhiệm của nhà xuất bản và cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử.
Thứ ba, không chấp hành các biện pháp quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản.
Trường hợp nhà xuất bản, tổ chức, cá nhân phát hành xuất bản phẩm điện tử không chấn chỉnh hoặc không khắc phục đối với trường hợp quy định nêu trên thì phải chấm dứt hoạt động theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Xây dựng vùng Đồng bằng sông Hồng trở thành đầu tàu kinh tế
Xây dựng vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ trở thành một trong những đầu tàu của cả nước về phát triển kinh tế.
Đây là một trong những mục tiêu của Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 13-KL/TW ngày 28/10/2011 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.
- Kiểm tra, xử ly thông tin báo nêu về hỗ trợ gạo cho hộ nghèo
Ngày 7/2/2014, Báo Lao động và một số báo phản ánh thông tin tại tỉnh Phú Yên, vẫn còn 444 tấn gạo trong tổng số 676 tấn gạo do Chính phủ hỗ trợ dịp Tết Nguyên đán và giáp hạt năm 2014 chưa đến được tay hộ nghèo đói.
Về việc này, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND tỉnh Phú Yên khẩn trương kiểm tra, làm rõ vấn đề báo nêu trên, nếu đúng cần xử lý hành vi sai phạm theo quy định. Đồng thời thực hiện việc cấp phát gạo cứu đói theo đúng quyết định của Thủ tướng Chính phủ; báo cáo kết quả lên Thủ tướng Chính phủ trước ngày 20/2/2014.
- Điều chỉnh điều kiện công nhận đạt chuẩn nông thôn mới
Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh, Trưởng ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện điều kiện công nhận huyện, tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới của dự thảo Quyết định xét công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới.
Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoàn thiện theo hướng, trước mắt, giữ nguyên tỷ lệ huyện, tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới theo quy định tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ (75% số xã trong huyện và 80% số huyện trong tỉnh đạt nông thôn mới).
Đối với 25% số xã trong huyện và 20% số huyện trong tỉnh còn lại chưa đạt đủ 19 tiêu chí cần chia ra những tiêu chí chủ yếu, quan trọng phải đạt quy định; những tiêu chí khác còn lại phải đạt khoảng 70-80% so với quy định.