Điểm tin báo chí sáng ngày 08 tháng 02 năm 2014

08/02/2014
Trong ngày 07/02 và đầu giờ sáng ngày 08/02/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Án không sửa được thì phải thi hành. Bài báo phản ánh: Như Pháp Luật TP.HCM đã phản ánh, năm 1998, TAND huyện Long Mỹ (tỉnh Cần Thơ cũ) tuyên buộc ông Nguyễn Văn Thái phải trả nợ thay cho mẹ (đã chết) 55 chỉ 4 phân vàng. Năm 2003, Ban Chỉ đạo THA huyện đề nghị VKS các cấp kiến nghị VKS tỉnh kháng nghị giám đốc thẩm vì bản án có nhiều sai sót nghiêm trọng như: Tòa xử vắng mặt ông Thái nhưng trong bản án lại ghi ý kiến bị đơn trình bày; hồ sơ không có văn bản xác định ông Thái là đại diện cho các đồng thừa kế mà tòa vẫn “buộc” ông là bị đơn duy nhất; ghi sai tên cha mẹ ông, số lượng người thừa kế… Đến năm 2005, VKSND Tối cao trả lời là dù án sai cả nội dung lẫn hình thức nhưng hết thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.

Cơ quan THA huyện biết bản án sai, họp lên họp xuống nhưng không thi hành được, phải hỏi cấp trên. Cuối cùng Tổng cục THA hướng dẫn kê biên tài sản của mẹ ông Thái chia đều cho các đồng thừa kế rồi lấy phần của ông Thái để THA. Cuối tháng 10-2013, ông Thái nhận thông báo THA dù biết rằng có nhiều sai sót và sẽ thiệt thòi quyền lợi

Xung quanh trường hợp hi hữu này, Pháp Luật TP.HCM đã nhận được nhiều ý kiến của các chuyên gia pháp lý.

- Tìm xem ai để hết thời hiệu

Giải pháp hay cơ chế đặc biệt gỡ vướng những trường hợp thế này hiện nay không có. Do vậy, dù biết là bản án có nhiều sai lầm nghiêm trọng song phải chịu thôi. Thực ra đây cũng là điều dễ hiểu vì có làm thì có sai và có những cái sai gỡ được, có cái hết đường gỡ. Tôi đồng ý với quan điểm cho rằng án phải có điểm dừng, không đặt ra quá nhiều cơ chế đặc biệt để xới lại những vấn đề đã quá cũ, làm rối thêm tình hình, nhất là trong quan hệ dân sự.

Trong vụ này điều cơ quan có thẩm quyền có thể làm là xem xét trách nhiệm của cơ quan hay cá nhân để mất thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm khi đã biết bản án có sai lầm nghiêm trọng. Căn cứ vào hồ sơ, diễn tiến vụ việc có thể biết được ai phát hiện ra bản án sai và lúc phát hiện còn thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm không. Nếu còn thì vì sao không kiến nghị người có trách nhiệm kháng nghị mà để vụ việc trôi quá xa. Ông Thái có thể làm đơn kiến nghị VKS cấp huyện và tỉnh làm rõ vấn đề này. Cũng không loại trừ là người có lỗi là ông Thái và thời điểm phát hiện bản án sai thì thời hiệu kháng nghị cũng đã hết. Nếu gặp hai trường hợp này thì cũng không xem xét trách nhiệm của ai mà ông Thái phải chịu thiệt thòi vì đã không thực hiện quyền lợi của mình.

Ông ĐINH VĂN QUẾ, nguyên Chánh Tòa Hình sự TAND Tối cao

- Cần kỹ năng hòa giải của chấp hành viên

Vụ này thời hiệu để kháng nghị giám đốc thẩm không còn, căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không có, bản án đang có hiệu lực thì phải thi hành. Nói cách khác tất cả những quyết định trong bản án dù biết là sai lầm nhưng cơ quan thi hành án (THA) huyện vẫn phải làm.

Tuy nhiên, tôi nghĩ cần để cho hai bên thương lượng trong chính giai đoạn THA. Bởi cái hay trong quan hệ pháp luật dân sự là đương sự có thể thương lượng từ khi tranh chấp đến tận giai đoạn THA. Muốn làm được điều này thì cần có sự tinh tế, khôn khéo, bản lĩnh và kỹ năng hòa giải của chấp hành viên. Theo đó, chấp hành viên phải kiên trì triệu tập hai bên giống như việc tổ chức buổi hòa giải khi THA. Cơ quan THA phải dùng các sự kiện liên quan đến toàn bộ vụ việc để phân tích rõ bản án sai gì, ai thừa nhận sai, trách nhiệm phải THA của ai, cái tình, cái lý ở đâu... Nói chuyện làm sao để hai bên đương sự thấu hiểu được mọi ngóc ngách của vấn đề để khơi gợi lòng thông cảm, tình người từ trong sâu thẳm tâm hồn họ. Mục đích cuối cùng là để họ đồng ý với nhau một phương án thi hành tốt cho cả hai, tránh thiệt thòi cho một bên. Lúc này chấp hành viên chỉ cần lập biên bản ghi nhận sự thỏa thuận đó là coi như khắc phục được những sai lầm của bản án. Còn nếu biết rõ bản án sai, đương sự khổ mà cứ máy móc thi hành thì chỉ đảm bảo được tính hợp pháp của quyết định chứ chưa có tính hợp tình, hợp lý.

Thẩm phán Phạm Công Hùng, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM

- Chia sẻ trách nhiệm với ông Thái

Tôi cũng cho rằng không còn cách nào khác là phải cho thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng thi hành sao cho thấu tình đạt lý, tránh gây thiệt thòi cho ông Thái. Rõ ràng về pháp lý nghĩa vụ trả nợ là của người đã chết (tức cha mẹ ông Thái) nên theo nguyên tắc dân sự những người thừa kế của người đã chết phải thực hiện nghĩa vụ này theo phần của họ hưởng thừa kế. Trong khi cơ quan THA đã xác định ông Thái không có tài sản để THA mà chỉ quản lý tài sản của cha mẹ thay cho các đồng thừa kế. Như vậy, những ai không từ chối nhận di sản (dù ít hay nhiều) đó đều phải là người THA.

Đúng theo nội dung bản án thì chỉ một mình ông Thái phải chịu trách nhiệm THA. Nhưng luật cho phép sau khi THA, ông Thái có quyền kiện ra tòa yêu cầu các đồng thừa kế trả lại phần tài sản tương ứng với nghĩa vụ của họ phải chịu sau khi hưởng di sản. Như vậy cách làm trên vẫn đảm bảo việc THA đúng (dù bản án sai), vừa hợp tình hợp lý tránh thiệt thòi cho ông Thái.

Tôi cho rằng tình huống này cũng giống như việc một bản án sau khi đã thi hành xong nhưng bị hủy để xét xử lại thì người đã THA có quyền khởi kiện để đòi lại nghĩa vụ tài sản đã bị THA sai. Bởi xét cho cùng là chúng ta đang khắc phục hậu quả cho người phải gánh chịu hậu quả của cái sai do cơ quan tố tụng tạo ra nên cần chia sẻ trách nhiệm với họ.

PGS-TS ĐỖ VĂN ĐẠI, Trưởng khoa Luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM

- THA không thể tự chia tài sản

Tôi có thể hình dung ra được khó khăn của cơ quan THA cấp huyện khi thi hành bản án này đúng như ý kiến quyền chi cục trưởng Chi cục THA huyện rằng THA không phải là tòa án nên không thể quyết định được. Đã thi hành thì phải làm đúng luật, bản án quyết định sao thi hành vậy, không thể tự ý chia di sản thừa kế rồi lấy phần của ông Thái để THA. Như vậy là trái với tinh thần của bản án mà luật không cho phép. Tổng cục THA có thể hướng dẫn nghiệp vụ cho cấp dưới nhưng không thể vượt quá nội dung làm bản án khác đi. THA chỉ có thể thi hành khác bản án nếu có thỏa thuận giữa các bên trong giai đoạn THA.

Luật sư NGUYỄN MINH TÂM, Đoàn Luật sư TP.HCM

- Khó có cơ chế đặc biệt

Không phải đơn thuần mà VKSND Tối cao lại cho rằng việc thi hành bản án dân sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật thuộc thẩm quyền của cơ quan THA. Bởi tình huống này không còn cách nào khác là phải thi hành bản án do không còn cơ chế nào khắc phục được sai lầm nữa. Cũng khó có cơ chế đặc biệt nào khác giải quyết được chuyện này vì lúc đó có thể chính nó sẽ phá vỡ tính ổn định và hiệu quả của thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm đang áp dụng. Cơ quan THA và đương sự có thể đòi hỏi VKSND Tối cao phải có trách nhiệm hướng dẫn khắc phục sai sót nhưng thực tế làm sao khắc phục được thì luật không có ngoại lệ.

Luật sư NGUYỄN THẾ PHONG, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Long An

2. Báo Hà Nội mới Online có bài Cung cấp thông tin lý lịch tư pháp trong hội nhập quốc tế: Thường xuyên chậm vì thiếu cơ chế phối hợp. Bài báo phản ánh: Trong tiến trình hội nhập, nhiều văn bản của Nhà nước ta quy định về việc phải có phiếu lý lịch tư pháp (LLTP) - giấy tờ chứng minh cá nhân có hay không có án tích khi tham gia vào quan hệ pháp lý. Các quy định hiện hành đồng thời cũng nêu trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong công tác phối hợp cung cấp, tiếp nhận, tra cứu, xác minh thông tin LLTP. Tuy nhiên, theo phản ánh của Sở Tư pháp nhiều địa phương việc thực hiện chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Theo quy định của Luật LLTP, cơ sở dữ liệu LLTP được xây dựng và quản lý tại Trung tâm LLTP quốc gia thuộc Bộ Tư pháp và tại Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ. Thực tế, tại hầu hết địa phương hiện nay, việc tra cứu, xác minh làm cơ sở cấp phiếu LLTP cho người có yêu cầu là công dân Việt Nam đã cư trú ở nhiều tỉnh, thành phố hoặc có thời gian cư trú ở nước ngoài, các trường hợp có tiền án, tiền sự… thường xuyên không đúng hẹn. Nguyên nhân chủ yếu do cơ quan CA cấp huyện (bộ phận thi hành án và hỗ trợ tư pháp) thực hiện việc cung cấp các thông tin liên quan đến LLTP như: Giấy chứng nhận chấp hành xong thời gian thử thách án treo, án phạt cải tạo không giam giữ, án phạt cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, án phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, quản chế, tước một số quyền công dân cho các Sở Tư pháp chậm. Mới đây nhất, tại TP Hồ Chí Minh, đã có trường hợp người dân bức xúc, khiếu nại và chính quyền phải xin lỗi…

Giải thích về nguyên nhân chậm trễ, Thiếu tướng Nguyễn Huy Mạ, Cục trưởng Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C53), Bộ CA cho biết, quy định về thời hạn cấp phiếu LLTP trong Luật LLTP hiện hành khó thực hiện. Bởi quá trình điều tra các vụ án hình sự, việc cung cấp thông tin LLTP của người phạm tội liên quan đến nhiều bộ phận khác nhau. Trường hợp phát hiện người đứng tên xin cấp phiếu LLTP đang bị truy nã; bị can, bị cáo trong vụ án hình sự, đối tượng thuộc diện cấm nhập cảnh, cấm xuất cảnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, sẽ phải xác minh, thẩm định kỹ để bảo đảm tính chính xác trước khi thông báo cho Sở Tư pháp. Bên cạnh đó, không ít trường hợp yêu cầu cấp phiếu LLTP nhưng qua xác minh, tra cứu của cơ quan CA thì phát hiện không trùng với thông tin do người xin cấp phiếu LLTP tự khai hoặc đối tượng có lý lịch không rõ ràng… Với những khó khăn nêu trên, Bộ Tư pháp nên nghiên cứu báo cáo với Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi Luật LLTP theo hướng kéo dài thời hạn cấp phiếu LLTP cho phù hợp với tình hình hiện nay.

Là cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, TAND Tối cao có quan điểm khác. Cơ quan này cho rằng, nếu tiếp tục duy trì mô hình hai cấp quản lý nhà nước về LLTP sẽ dẫn đến tình trạng mất nhiều thời gian và chi phí trong việc trao đổi thông tin giữa cấp trung ương và địa phương cũng như việc cấp phiếu LLTP cho công dân và tổ chức. Chưa kể còn có thể ảnh hưởng đến tính bảo mật của thông tin. Mặt khác, hiện nay Luật LLTP và các văn bản hướng dẫn thi hành còn có những quy định không thống nhất nên khi thực hiện ngành chức năng rất khó xử lý. Điển hình như theo Luật LLTP thì tòa án cần gửi cho Sở Tư pháp trích lục bản án hình sự, trong khi đó theo Thông tư liên tịch số 04 (hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP) thì tòa án có thể gửi cho Sở Tư pháp bản án hình sự. Từ điểm mâu thuẫn trên, mỗi địa phương thực hiện một kiểu, có nơi không nhận bản án do tòa án đã xét xử sơ thẩm, phúc thẩm gửi, mà chỉ nhận trích lục bản án. Trong khi đó, tòa án cấp sơ thẩm không có thẩm quyền trích lục bản án hình sự phúc thẩm mà chỉ có thể gửi bản sao y bản chính bản án phúc thẩm. Chưa kể, có thời điểm, chính cơ quan đầu mối xử lý thông tin cũng chưa làm tròn trách nhiệm.

Để tháo gỡ những "điểm nghẽn" trong cung cấp phiếu LLTP, nên chăng Bộ Tư pháp cần chủ trì xây dựng lại quy chế phối hợp về việc rà soát, thu thập, xác minh, tra cứu, cung cấp thông tin LLTP cho phù hợp với thực tế hiện nay.

Giám đốc Trung tâm LLTP quốc gia Đặng Thanh Sơn: Dù việc cung cấp thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP là nhiệm vụ mới của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, công an, quân đội, thi hành án dân sự…, song phần lớn bộ phận này đều kiêm nhiệm. Đáng chú ý, mô hình cơ sở dữ liệu LLTP hai cấp tại Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp đã bộc lộ bất cập, khó bảo đảm yêu cầu về tính cập nhật, chính xác và đồng bộ của dữ liệu thông tin.

3. Trang Khampha.vn có bài Những quy định “trời ơi”: Ai chịu trách nhiệm?. Bài báo phản ánh: Thời gian qua, không ít văn bản bất hợp lý, thiếu tính khả thi như vậy được ban hành. Có văn bản bị Bộ Tư pháp“tuýt còi”. Nhiều văn bản đã phải sửa đổi ngay khi chưa kịp có hiệu lực bởi phản ứng từ dư luận. Nhưng không ít quy định vẫn tồn tại mặc dù chỉ nằm trên giấy. Vậy những người tham mưu, ban hành văn bản trái luật phải chịu trách nhiệm như thế nào?

Tiến sỹ Lê Hồng Sơn (Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản Quy phạm pháp luật – Bộ Tư pháp) có cuộc trao đổi về vấn đề này.

- Thời gian qua, có rất nhiều văn bản bất hợp lý, thiếu tính khả thi được ban hành. Xin ông cho biết, Cục Kiểm tra Văn bản QPPL đã xử lý ra sao với những văn bản này?

Chúng tôi đã yêu cầu hủy được rất nhiều văn bản bất hợp lý, thiếu tính khả thi. Chẳng hạn văn bản cấm học sinh, sinh viên các trường văn hóa - nghệ thuật biểu diễn, tham gia biểu diễn tại các quán bar, vũ trường, quán karaoke… Việc này "cởi trói" cho hàng vạn học sinh, sinh viên các trường văn hóa - nghệ thuật. Các em đã được tham gia biểu diễn để nâng cao năng khiếu, sở trường, cải thiện cuộc sống.

Một văn bản chúng tôi kiến nghị xử lý thành công quy định về tiêu chuẩn sức khỏe của người điều khiển phương tiện cơ giới đường bộ mà dư luận gọi là "ngực lép, chân ngắn không được đi xe".

Những quy định khác bị chúng tôi kiến nghị sửa đổi như là: Quyền được hưởng chế độ, chính sách của các cụ cao tuổi; quyền của những người tham gia bảo hiểm y tế; quyền được hưởng chế độ về cư trú theo quy định của luật; quyền được lưu thông hàng hóa mà không bị ngăn sông cấm chợ; giúp cho người dân không bị xử phạt vi phạm hành chính một cách tùy tiện theo quy định của địa phương...

- Theo ông, do đâu xảy ra việc ban hành nhiều văn bản trái luật?

Khách quan mà nói, các quan hệ xã hội ngày càng phát triển, sự điều chỉnh của pháp luật cũng đòi hỏi ngày càng đi vào chiều sâu. Việc đưa ra các quy định phù hợp không dễ dàng chút nào. Về chủ quan có thể thấy, trình độ người soạn thảo còn hạn chế. Quy trình soạn thảo chưa được tuân thủ nghiêm túc. Việc thực hiện các bước trong quy trình còn hình thức, chưa thực chất… Nhiều lúc, người đứng đầu còn thiếu sự quan tâm đúng mức, khoán trắng cho chuyên viên, cấp dưới. Thậm chí, đâu đó còn có cả yếu tố lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, ngành. Đó là tiêu cực tham nhũng mà chúng tôi hay gọi là "lobby đen".

- Việc ban hành những văn bản, quy định thiếu hợp lý ảnh hưởng thế nào đến người dân?

Phải thừa nhận, thời gian qua, vẫn còn hiện tượng văn bản QPPL được ban hành không bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ cũng như tính khả thi. Cá biệt có văn bản khiếm khuyết, thiếu sót nghiêm trọng. Điều này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước, mà còn ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Đối với doanh nghiệp, điều này cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất, nhập khẩu, gây thiệt hại lớn về kinh tế. Đôi khi, doanh nghiệp chịu sự ràng buộc, o ép một cách vô lý vì những văn bản này.

Trên thực tế thời gian qua, việc này đã tạo những phản ứng không tốt trong xã hội. Đó là tâm lý phản biện, thiếu sự tin tưởng đối với quy định của pháp luật trong một số bộ phận nhân dân. Thậm chí làm xói mòn, mất lòng tin của xã hội đối với bộ máy quản lý.

- Bồi thường thiệt hại cho người dân, doanh nghiệp do văn bản gây ra như thế nào?

Đây là vấn đề đáng lưu tâm. Rất tiếc là khi xác lập cơ chế bồi thường nhà nước đã không thiết lập trách nhiệm bồi thường thiệt hại của nhà nước trong việc ban hành văn bản QPPL trái pháp luật. Đồng ý đây là việc cực kỳ khó, ít nơi dám làm. Theo tôi, vấn đề này cũng cần phải nghiên cứu để đảm bảo nguyên tắc nhà nước pháp quyền.

- Việc xử lý mới chỉ dừng lại ở mức thu hồi, hủy bỏ rồi làm lại mà chưa có sự xử lý người ban hành văn bản trái luật?

Đây cũng là điều phải bàn. Thực ra, hiện nay cũng đã có các quy định xử lý, tuy chưa thật "đặc định". Vấn đề là nó chưa được làm đến nơi đến chốn mà thôi. Ví dụ, có thể xử lý kỷ luật cán bộ, công chức hoặc cắt thi đua, khen thưởng, thậm chí có thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội về tham nhũng như: cố ý làm trái, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng...

Theo tôi biết, cắt thi đua đã được làm nhiều rồi. Rất hiếm trường hợp cách chức, buộc thôi việc người tham mưu, ban hành thể chế sai. Chưa đẩy vấn đề đến mức cao hơn vẫn là một thiếu sót. Về xử lý hình sự, thực tế chưa thấy bao giờ. Nếu có cũng chỉ là luận tội cùng với một loạt tội khác và phần này thường bị yếu, bị chìm đi. Tôi chưa thấy phiên tòa nào xử riêng đối với loại tội này.

Sở dĩ như vậy, theo tôi, một phần nguyên nhân là cơ chế “hậu kiểm” thiếu sức mạnh cần thiết. Trong khi đó, quyền của Cục Kiểm tra văn bản QPPL mới chỉ dừng ở mức tham mưu, thông báo kiến nghị. Chúng tôi chưa có quyền trực tiếp xử lý, hủy bỏ văn bản. Tôi luôn mơ đến cơ chế tài phán mà nhiều nước đã sử dụng từ lâu như: cơ chế bảo hiến, cơ chế tuyên hủy của tòa đối với văn bản trái pháp luật...

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Thông qua Báo cáo định kỳ về quyền con người của Việt Nam. Chiều 7/2, phiên họp của Nhóm làm việc về Báo cáo định kỳ về quyền con người theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ (UPR) của Hội đồng Nhân quyền LHQ tại Geneva (Thụy Sỹ) đã thông qua báo cáo của Việt Nam.

2. Trang VTC News đưa tin Dự thảo tinh giản 100.000 công chức 'cắp ô' gây lo lắng. Bài báo phản ánh: Sau khi Bộ Nội vụ vừa công bố dự thảo nghị định của Chính phủ về việc tinh giản biên chế để lấy ý kiến người dân được đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều độc giả đã bày tỏ sự băn khoăn, lo lắng.

Dự thảo này khẳng định việc tinh giản biên chế theo nghị định 132 (đã hết hiệu lực từ năm 2012) và các quy định pháp luật trong thời gian qua đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách tinh giản biên chế trước đây còn nhiều hạn chế, trong đó có việc chưa thật sự giảm được những người cần giảm; tình trạng người chưa đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm trong cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được khắc phục.

Trong số các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có việc không cương quyết, nể nang, né tránh, ngại va chạm, muốn giữ ổn định tổ chức, bộ máy và biên chế hiện tại. Cùng với đó là không thực hiện tốt việc rà soát, phân loại để có căn cứ đưa vào diện tinh giản biên chế.

Là một công chức nhà nước, độc giả Trần Văn Nguyên (Thanh Xuân, Hà Nội) bày tỏ những điểm lắng về những điểm mới trong dự thảo nghị định tinh giản biên chế này khi cho rằng, việc tinh giản biên chế đã được thực hiện khá lâu nhưng tinh giản vẫn cứ tinh giản, tuyển vẫn cứ tuyển.

“Các cơ quan nhà nước tiếp tục ‘phình to’, nhân sự tuyển vào tràn lan, nội dung thi cử sơ sài, thiếu chặt chẽ, thêm vào đó là nạn ‘chạy công chức’ khiến số lượng công chức được tuyển vào không đảm bảo về chất lượng càng tăng thêm… bây giờ nói giảm quả thực là điều không dễ” – anh Nguyên bày tỏ.

Theo anh Nguyên, nếu dự thảo không quy định rõ các tiêu chí cũng như không thực hiện đánh giá một cách khách quan chất lượng, hiệu quả của công chức thì chính những người làm được việc nhưng không có “quan hệ”, không biết “chạy chọt” lại bị tinh giản, trong khi số người “có quan hệ” nhưng yếu kém vẫn được ở lại.

Cùng quan điểm với anh Nguyên, độc giả Nguyễn Cao Tuấn (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) cho rằng, nói tinh giản 100.000 biên chế “nghe thì dễ, làm mới nảy sinh nhiều vấn đề”.

“Tôi thấy rằng, nhiều địa phương trước đây thực hiện tinh giản biên chế nhưng vì nể nang, vì quan hệ cũng như các tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng nên không xác định được người nào đáng bị loại bỏ. Và để thực hiện đủ chỉ tiêu, các địa phương lại tiếp tục ‘đẻ’ ra các cơ quan mới để điều chuyển nhân sự, hợp lý hóa công chức. Việc này không những không tin giản được biên chế mà càng làm cho biên chế càng tăng thêm, tiêu cực nảy sinh rồi đâu lại vào đấy” – độc giả Tuấn chia sẻ.

Từ phân tích trên, bạn Tuấn cho rằng, không nên đặt chỉ tiêu hay dự kiến con số biên chế sẽ bị tinh giản 100.000 hay con số nào khác mà trước hết, cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng và thực hiện một cách nghiêm túc đánh giá chất lượng công chức, ai yếu kém hoặc không đủ năng lực thực hiện công việc thì kiên quyết loại bỏ. Đặc biệt là thực hiện một cách khách quan thi tuyển để đảm bảo tuyển được người có năng lực thực sự, người yếu kém bị loại ngay từ đầu chứ không phải tuyển vào mà không làm được việc, phải mất tiền tinh giản. 

“Có một thực tế là ai tinh giản thì cứ tinh giản, ai ‘chạy công chức’ thì vẫn cứ chạy, giảm được một thì tuyển vào mười… nên tôi rất mong cùng với dự thảo lần này, Bộ Nội vụ sẽ có biện pháp chấn chỉnh, xóa bỏ được nạn ‘chạy chọt’ vào biên chế để đảm bảo hiệu quả” – độc giả Tuấn nói.

Trong khi đó, độc giả Nguyễn Hoài Trang (Thạch Hà, Hà Tĩnh) cho rằng, số tiền 8.000 tỷ đồng để chi cho việc tinh giản biên chế lần này nếu không có quy định chặt chẽ sẽ trở nên lãng phí bởi thực tế, dựa vào chính sách giảm biên chế, nhiều công chức có năng lực được doanh nghiệp, các cơ quan khác mời ra ngoài làm việc để rời cơ quan để vừa hưởng lương cao vừa được một số tiền về hưu sớm không hề nhỏ từ việc nghỉ hưu sớm.

Một số khác thì tranh thủ ‘chạy chọt’ để vào biên chế, những người này thì năng lực kém.

“Cái vòng luẩn quẩn tuyển dụng - giảm biên chế -tuyển dụng cứ xoay vòng, cuối cùng thì tốn tiền của dân mà thôi” – bạn Trang nói.

Cho rằng cùng với việc xác định số lượng biên chế bị tinh giản, bạn Phan Cao Thái (Bắc Ninh) đề xuất ý kiến về việc, cơ quan biên soạn cần xây dựng rõ các tiêu chí đánh giá và đối tượng bị tinh giản để đảm bảo công bằng, khách quan.

“Tôi thấy việc giảm biên chế còn phụ thuộc vào ý muốn hay thái độ của lãnh đạo đơn vị, nếu công chức nào được ưu ái sẽ được giao việc phù hợp, dễ dàng hoàn thành nhiệm vụ nhưng những người không được ưu ái, dù có năng lực sẽ bị giao nhiệm vụ không phù hợp hoặc không được giao việc… đến khi đánh giá sẽ không khách quan, làm mất đoàn kết nội bộ và lãng phí tài năng” – bạn Thái phân tích.

Đồng tình với chủ trương tinh giản biên chế của dự thảo Nghị định, độc giả Lê Ngọc Huy (Hưng Yên) cho rằng, với một bộ máy hành chính nhà nước đang cồng kềnh và thiếu hiệu quả như hiện nay, việc tinh giản viên chế là giải pháp cần thiết để loại bỏ đi những người kém chất lượng, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân.

“Tôi từng nghe đến con số 30% công chức ‘sáng cắp ô đi, tối cắp ô về’ mà nhà nước vẫn phải trả lương, nay Bộ Nội vụ đưa ra dự kiến tinh giản 100.000 biên chế tôi tin là đã có sự tính toán kỹ lưỡng trên cơ sở thực tế và tính toán yêu cầu nhân sự của các cơ quan nên việc bỏ ra số tiền 8.000 tỷ hay bao nhiêu để ‘cắt đi những khối u trên cơ thể’ là việc làm cần thiết để đảm bảo sự “khỏe mạnh và hiệu quả” của nền hành chính nhà nước” – bạn Huy nêu ý kiến.

Cũng theo bạn Huy, mặc dù mang mục đích nâng cao chất lượng công chức nhưng trong quá trình xây dựng nghị định và thực hiện cần thực hiện đồng bộ và nghiêm túc, quyết liệt để tránh những hạn chế đã gặp phải trong những lần tinh giản trước đây.

Hiện dự thảo Nghị định vẫn đang trong quá trình lấy ý kiến đóng góp của người dân trước khi được ban hành.



File đính kèm